Ðại
Tạng Kinh Việt Nam
KINH
TĂNG CHI BỘ
Anguttara
Nikàya
Hòa thượng
Thích Minh Châu dịch Việt
Chương X - Mười Pháp
VII. Phẩm Ước Nguyện
(I) (71) Ước Nguyện
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn
Anàthapindika. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
2. - Này các Tỷ-kheo, hãy sống đầy đủ giới, đầu đủ giới bổn
Pàtimokkha. Hãy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha,
đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp
nhận và học tập các học pháp.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng
ta được các đồng Phạm hạnh thương mến, yêu quý, cung kính và bắt
chước". Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội
tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích
sống tại các xứ không tịnh. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước
nguyện: "Mong rằng ta được các vật dụng như y phục, các món ăn khất
thực, sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh", Tỷ-kheo ấy phải
thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn
Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng ta
hưởng thọ các vật dụng như y áo, các món ăn khất thực, sàng tọa và
các dược phẩm trị bệnh. Mong rằng hành động của những vị ấy tạo ra các
vật dụng ấy được quả báo lớn, được lợi ích lớn", Tỷ-kheo ấy
phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ không tịnh. Này
các Tỷ kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng những
bà con huyết thống với ta, khi chết và mệnh chung nghĩ (đến ta)
với tâm hoan hỷ, (và nhờ vậy) được quả báo lớn, được lợi ích
lớn". Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)...
trú xứ không tịnh. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước
nguyện: "Mong rằng ta biết đủ với bất cứ vật dụng gì như y áo,
đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh", Tỷ-kheo ấy
phải sống đầy đủ giới... trú xứ không tịnh. Này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng ta kham nhẫn với lạnh, nóng,
đói khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, của loài
bò sát, kham nhẫn những cách nói mạ ly phỉ báng, kham nhẫn các cảm thọ
về thân, những cảm thọ thống khổ, khốc liệt, đau nhói, nhức nhối,
không sung sướng, không thích thú, chết điếng người", thời
Tỷ-kheo ấy phải sống đầy đủ giới... trú xứ không tịnh. Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng ta nhiếp
phục lạc và bất lạc, chớ không để lạc, bất lạc nhiếp phục ta. Mong
rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục lạc, bất lạc được khởi lên",
Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên).... trú xứ
không tịnh. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện:
"Mong rằng ta nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi, chớ không phải
khiếp đảm và sợ hãi nhiếp phục ta. Mong rằng ta sống luôn luôn
nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi lên". Tỷ-kheo ấy
phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ không tịnh. Này
các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: "Mong rằng tùy theo
ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức,
ta chứng được bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc
trú". Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)...
trú cứ không tịnh. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước
nguyện: "Với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng
ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát". Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật,
kiên trì nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán
hạnh, thích sống trong các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống
chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh,
thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và tu học trong
các học pháp. Như vậy được nói đến, chính do duyên này được nói
đến như vậy.
(II) (72) Cây Gai
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Ðại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn, với rất nhiều các Thượng tọa có danh tiếng, có danh tiếng như Tôn giả Càla, Tôn giả Upàcàla, Tôn giả Kakkata, Tôn giả Kalimbha, Tôn giả Nikata, Tôn giả Katissaha, cùng nhiều Tôn giả có danh tiếng khác.
2. Lúc bấy giờ có nhiều Licchavì có danh tiếng, có danh tiếng lớn đang cỡi các cỗ xe lộng lẫy, tranh đua cao tiếng, lớn tiếng đi vào Ðại Lâm để yết kiến Thế Tôn. Rồi các trưởng lão ấy suy nghĩ: "Có nhiều Licchavì có danh tiếng, có danh tiếng lớn đang cỡi các cỗ xe lộng lẫy, tranh đua cao tiếng, lớn tiếng đi vào Ðại lâm để yết kiến Thế Tôn, Thế Tôn có dạy: "Tiếng ồn là cây gai cho Thiền." Vậy chúng ta hãy đi đến Gosinga, khu rừng cây sàla. Tại đây, chúng ta có thể sống an ổn, không ồn ào, không chen chúc."
3. Rồi các Tôn giả ấy đi đến Gosinga, ngôi rừng các cây sàla. Tại đây, các Tôn giả ấy sống an ổn, không ồn ào, không chen chúc. Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, Càla ở đâu? Upacàla ở đâu? Kakkata ở đâu? Kalimbha ở đâu? Nikata ở đâu? Katissaha ở đâu? Này các Tỷ-kheo, các trưởng lão đệ tử ấy đi đâu?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, các Tôn giả ấy suy nhĩ như sau: "Có nhiều Licchavì có danh tiếng, có danh tiếng lớn đang cỡi các cỗ xe lộng lẫy, tranh đua cao tiếng, lớn tiếng, đi vào Ðại Lâm để yết kiến Thế Tôn, Thế Tôn có dạy: "Tiếng ồn là cây gai cho thiền". Vậy chúng ta hãy đi đến Gosinga khu rừng cây sàla. Tại đây, chúng ta có thể sống an ổn, không ồn ào, không chen chúc". Bạch Thế Tôn, các Tôn giả ấy đã đi đến Gosinga, khu rừng cây sàla. Tại đây, các bậc Tôn giả ấy sống an ổn, không ồn ào, không chen chúc.
4. - Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo. Trả lời như các đại đệ
tử đã trả lời, là trả lời một cách chơn chánh. Này các Tỷ-kheo,
"Tiếng ồn là gai cho thiền", đã được Ta nói như vậy. Này
các Tỷ-kheo, có mười loại cây gai này. Thế nào là mười?
5. Với người ưa thích viễn ly, ưa thích hội chúng là cây gai. Với người
chuyên chú tu tập tướng bất tịnh, tu tập tịnh tướng là cây gai. Với người
phòng hộ các căn, đi xem văn nghệ trình diễn là cây gai. Với người sống
Phạm hạnh, thân cận với phụ nữ là cây gai. Với người chứng Thiền thứ
nhất, tiếng ồn là cây gai. Với người chứng Thiền thứ hai, tầm tứ là
cây gai. Với người chứng Thiền thứ ba, hỷ là cây gai. Với người
chứng Thiền thứ tư, hơi thở là cây gai. Với người đã đạt được
Diệt thọ tưởng định, tưởng và thọ là cây gai. Tham là cây gai.
Sân là cây gai. Si là cây gai.
Này các Tỷ-kheo, hãy sống không phải là cây gai. Này các Tỷ-kheo,
hãy sống rời khỏi cây gai. Này các Tỷ-kheo, hãy sống không phải là cây
gai và rời khỏi cây gai. Này các Tỷ-kheo, không có cây gai là bậc
A-la-hán. Này các Tỷ-kheo, rời khỏi cây gai là bậc A-la-hán. Này các
Tỷ-kheo, vị không có gai và rời khỏi cây gai là bậc A-la-hán
(III) (73) Khả Lạc
1. - Có mười pháp này khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó tìm được ở
đời. Thế nào là mười?
2. Tài sản khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó tìm được ở đời, dung sắc... không bệnh... các giới đức... Phạm hạnh... các bạn bè... nhiều trí.... các pháp... thiên giới, khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời.
Này các Tỷ-kheo, mười pháp khả lạc, khả lạc, khả hỷ, khả này khó tìm được ở đời.
3. Này các Tỷ-kheo, đối với mười pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời này, mười pháp là những chướng ngại. Thế nào là mười?
4. Thụ động và không hăng hái là chướng ngại cho tài sản. Không trang sức, không tô điểm là chướng ngại cho dung sắc. Hành động không thích ứng là chướng ngại cho không bệnh. Ác bằng hữu là chướng ngại cho giới đức. Không chế ngự các căn là chướng ngại cho Phạm hạnh. Lừa dối là chướng ngại cho các bạn bè. Không học tập là chướng ngại cho nhiều trí. Không nghe, không hỏi là chướng ngại cho trí tuệ. Không có chú tâm, không có quán sát là chướng ngại cho các pháp. Tà hạnh là chướng ngại cho Thiên giới.
Này các Tỷ-kheo, đối với mười khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời này, mười pháp này là những chướng ngại.
5. Này các Tỷ-kheo, đối với mười pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời này, mười pháp là những thức ăn. Thế nào là mười?
6. Không thụ động, hăng hái là món ăn cho các tài sản. Trang sức, tô điểm là món ăn cho dung sắc. Hành động thích ứng là món ăn cho không bệnh. Bạn bè với thiện bằng hữu là thức ăn cho các giới đức. Chế ngự các căn là thức ăn cho Phạm hạnh. Không có lừa dối là thức ăn cho bạn bè. Học tập là thức ăn cho trí tuệ. Chú tâm quán sát là thức ăn cho các pháp. Chánh hạnh là thức ăn cho Thiên giới.
Này các Tỷ-kheo, đối với mười pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời này, mười pháp này là những thức ăn.
(VI) (74) Tăng Trưởng
1. - Này các Tỷ-kheo, do tăng trưởng với mười tăng trưởng, vị Thánh
đệ tử tăng trưởng Thánh tăng trưởng, nắm được tinh hoa và nắm được
tối thắng của thân. Thế nào là với mười sự tăng trưởng?
2. Tăng trưởng ruộng đất, tăng trưởng tài sản lúa gạo, tăng trưởng vợ
và con, tăng trưởng những người nô lệ, kẻ làm công, tăng trưởng các
loài bốn chân, tăng trưởng lòng tin, tăng trưởng giới, tăng trưởng nghe
nhiều, tăng trưởng thí, tăng trưởng trí tuệ.
Này các Tỷ-kheo, do tăng trưởng với mười tăng trưởng này, vị Thánh
đệ tử tăng trưởng Thánh tăng trưởng, nắm được tinh hoa và nắm được
tối thắng của thân.
Ai đời này tăng trưởng,
Tài sản và lúa gạo,
Tăng trưởng vợ và con,
Cùng các loài bốn chân,
Ðược danh, được kính trọng,
Như người nhiều tài sản,
Từ bà con bạn bè,
Và những người quyền thế,
Ai ở đời tăng trưởng,
Lòng tin và giới đức,
Trí tuệ và cả hai,
Bố thí và nghe nhiều,
Người như vậy là người,
Chân nhân và có mắt,
Ngay ở trong đời này,
Tăng trưởng cả hai phần.
(V) (75) Migasàlà
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông
Anathapindika. Rồi Tôn giả Ananda vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát đi đến
trú xứ của nữ cư sĩ Migasàlà; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã
soạn sẵn. Rồi nữ cư sĩ Migasàlà đi đến Tôn giả Ananda, sau khi đến,
đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nữ cư sĩ
Magasàlà bạch Tôn giả Ananda:
2. - Thưa Tôn giả Ananada, như thế nào cần phải hiểu pháp được
Thế Tôn thuyết giảng, rằng người sống phạm hạnh và người sống không
phạm hạnh, cả hai sẽ đồng một chỗ thọ sanh trong đời sau? Thưa Tôn
giả, phụ thân con Puràna sống phạm hạnh, sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn
hạ. Vị ấy, khi mệnh chung được Thế Tôn trả lời: "Là bậc Nhất
lai, sanh với thân ở Tusita". Còn Isidatta, cậu của con, thưa Tôn giả, sống
không Phạm hạnh, tự bằng lòng với vợ mình, sau khi mệnh chung, được
Thế Tôn trả lời: "Là bậc Nhất lai, sanh với thân ở Tusita". Như
thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ananda, cần phải hiểu pháp này do
Thế Tôn tuyên thuyết (nói rằng): "Cả hai, sống phạm hạnh và sống
không phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương lai"?
- Này Chị, chính như vậy là câu trả lời của Thế Tôn.
3. Rồi Tôn giả Ananda, sau khi nhận đồ khất thực tại nhà của nữ cư sĩ
Migasàlà, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi. Rồi Tôn giả Ananda sau buổi
ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, vào buổi sáng, con đắp y, cầm y bát đi
đến trú xứ của nữ cư sĩ Migasàlà, sau khi đến, con ngồi xuống trên
chỗ đã soạn sẵn. Rồi nữ cư sĩ Migasàlà đi đến con, sau khi
đến, đảnh lễ con ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, bạch Thế
Tôn, nữ cư sĩ Magasàlà thưa với con:
- "Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ananda, cần phải hiểu
pháp này do Thế Tôn thuyết (nói rằng): "Cả hai, sống phạm hạnh và
sống không phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương lai."?.
"Puràna thân phụ con, thưa Tôn giả, sống phạm hạnh, sống viễn ly, tránh
xa dâm dục hạ liệt, khi mệnh chung, được Thế Tôn trả lời:
"Là bậc Nhất Lai, sanh với thân ở Tusita". Còn Isidatta, cậu của con,
thưa Tôn giả, sống không Phạm hạnh, tự bằng lòng với vợ mình, sau khi
mệnh chung, được Thế Tôn trả lời: "Là bậc Nhất Lai, sanh với
thân ở Tusita." Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ananda, cần
phải hiểu pháp này do Thế Tôn tuyên thuyết (nói rằng): "Cả
hai, sống phạm hạnh và sống không phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh
thú trong tương lai"? Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con nói với nữ
cư sĩ Migasàlà:
- "Này Chị, chính như vậy là câu trả lời của Thế Tôn".
- Nhưng này Ananda, ai là nữ cư sĩ Migasàlà, lại ngu si, kém thông minh,
với thân như bà mẹ, với trí như bà mẹ, để có thể hiểu biết
sự thắng liệt giữa các người.
Này Ananda, có mười hạng người, có mặt hiện hữu ở đời. Thế nào
là mười?
4. Ở đây, này Ananda, có hạng người ác giới, không như thật rõ
biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, ác giới ấy của
người ấy được diệt trừ, không có dư tàn. Người ấy không có nghe
pháp, không có học nhiều, không có thể nhập với chánh kiến,
không chứng được nhất thời giải thoát. Người ấy sau khi thân hoại mạnh
chung, hướng về thối đọa, không về thù thắng, chỉ đi đến
thối đọa, không đi về thù thắng.
5. Nhưng ở đây, này Ananda, có hạng người ác giới, như thật rõ biết
tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, ác giới ấy của người được
trừ diệt, không có dư tàn. Người ấy có nghe pháp, có học nhiều,
có khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát. Vị ấy
sau khi thân hoại mạng chung, hướng về thù thắng, không hướng về thối
đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa.
Ở
đây, này Ananda, ai là người đo lường, đo như sau: "Những pháp
ấy có mặt trong người này, những pháp ấy cũng có mặt trong người kia. Vì
sao, giữa hai người ấy, một là hạ liệt, một là thù thắng?". Nhận
xét như vậy đem lại đau khổ lâu dài cho họ. Ở đây này Ananda,
người này là ác giới và như vậy rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải
thoát ấy, chính ở nơi đây, ác giới ấy của người ấy được trừ diệt,
không có dư tàn. Với vị ấy, có nghe pháp, có học hỏi nhiều, có khéo
thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát. Này
Ananda, hạng người này, so sánh với hạng người trước là vi diệu hơn,
là thù thắng hơn. Vì sao? Vì dòng pháp đưa người này ra phía trước. Nhưng
ai ngoài Như Lai có thể biết được sự khác biệt? Do vậy, này
Ananda, chớ có làm người đo lường các hạng người. Chớ có làm sự đo
lường các hạng người. Tự đào hố cho mình là người đi làm sự đo lường
các hạng người. Chỉ có Ta, này Ananda, mới có thể làm sự đo lường các
hạng người. Ai có thể được như Ta?
6. Ở đây, này Ananda, có hạng người có giới nhưng không như thật rõ
biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, giới ấy của người
ấy được đoạn diệt, không có dư tàn. Người ấy không có nghe pháp,
không có học hỏi nhiều, không có thể nhập với chánh kiến, nên
không chứng được nhất thời giải thoát. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung,
hướng về thối đọa, không huớng về thù thắng, chỉ đi đến
thối đọa, không đi đến thù thắng.
7. Nhưng ở đây này Ananda, có hạng người có giới và như thật rõ biết
tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, giới ấy của người ấy được
trừ diệt, không có dư tàn. Vị ấy có nghe pháp, có học hỏi nhiều,
và khéo thể nhập với chánh kiến, vị ấy chứng được nhất thời giải
thoát. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, hướng về thù thắng, không
hướng về thối đọa. Chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối
đọa. Ở đây, này Ananda... Chỉ có Ta, này Ananda, mới có thể làm
sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta?
8. Nhưng ở đây, này Ananda, có hạng người có tham rất sắc sảo, người ấy
không như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây,
tham ấy của người ấy được trừ diệt, không có tàn dư. Người này không
có nghe pháp, không có học hỏi nhiều, không có thể nhập với chánh
kiến, không có chứng được nhất thời giải thoát. Vị ấy sau khi thân hoại
mạng chung, hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng, chỉ đi
đến thối đọa, không đi đến thù thắng.
9. Nhưng ở đây, này Ananda, có hạng người có tham rất sắc sảo, người ấy
như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy, ở đây, lòng
tham ấy của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Người ấy nghe
pháp, học hỏi nhiều, khéo thể nhập với chánh kiến, chứng
được nhất thời giải thoát. Vị ấy sau khi thân họai mạng chung, hướng về thù
thắng, không hướng về thối đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi
đến thối đọa. Ở đây, này Ananda... Chỉ có Ta, này Ananda, mới có thể làm
sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta?
10. Nhưng ở đây, này Ananda, có hạng người phẫn nộ, không như thật rõ
biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, lòng phẫn nộ ấy của
người ấy được trừ diệt trừ, không có tàn dư. Vị ấy không có nghe
pháp, không có học hỏi nhiều, không có thể nhập với chánh
kiến, không chứng được nhất thời giải thoát. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng
chung, hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng, chỉ đi
đến thối đọa, không đi đến thù thắng.
11. Nhưng ở đây, này Ananda, có hạng người có phẫn nộ và như thật rõ
biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, lòng phẫn nộ ấy của
người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Vị ấy lại nghe pháp, học
hỏi nhiều, và khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất
thời giải thoát. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, hướng về thù thắng,
không hướng về thối đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi
đến thối đọa. Ở đây, này Ananda... Chỉ có Ta, này Ananda, mới có
thể làm sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta?
12. Nhưng ở đây, này Ananda, có hạng người có trạo cử, nhưng không như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, trạo cử của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Người ấy không có nghe pháp, không có học hỏi nhiều, không có thể nhập với chánh kiến, không chứng được nhất thời giải thoát. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng, chỉ đi đến thối đọa, không đi đến thù thắng.
13. Nhưng ở đây, này Ananda, có hạng người có trạo cử, và như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; ở đây, trạo cử của người ấy được trừ diệt, không có tàn dư. Và vị này có nghe pháp, có học hỏi nhiều, khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa, chỉ đi đến thù thắng, không hướng về thối đọa. Ở đây, này Ananda, ai là người đo lường, đo lường như sau: "Những pháp ấy có mặt trong người này, những pháp ấy cũng có mặt trong người kia. Vì sao giữa hai người ấy, một là hạ liệt, một là thù diệu? " Nhận xét như vậy, đem lại đau khổ lâu dài cho họ. Ở đây, này Ananda, người này là trạo cử, và như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy, chính ở đây, trạo cử của người ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Và vị ấy có nghe pháp, có học hỏi nhiều, có khéo thể nhập với chánh kiến, chứng được nhất thời giải thoát. Này Ananda, hạng người này so sánh với hạng người trước, là vi diệu hơn, là thù thắng hơn. Vì sao? Vì dòng pháp đưa người này ra phía trước. Nhưng ai ngoài Như Lai có thể biết được sự khác biệt? Do vậy, này Ananda, chớ có làm người đo lường các hạng người. Chớ có làm sự đo lường các hạng người. Tự đào hố cho mình là người làm sự đo lường các hạng người. Chỉ có Ta, này Ananda, mới có thể làm sự đo lường các hạng người. Ai có thể được như Ta?
Nhưng này Ananda, ai là nữ cư sĩ Migasàlà lại ngu si, kém thông minh, với
thân như bà mẹ, với trí như bà mẹ, để có thể hiểu biết sự
thắng liệt giữa các người?
Này Ananda, có mười hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời.
Giới như thế nào, này Ananda, Puràna được thành tựu, giới ấy Isidatta
chưa thành tựu. Do vậy, ở đây, Puràna có sanh thú khác với sanh thú của
Isidatta. Tuệ như thế nào, này Ananda, Isidatta được thành tựu, tuệ
ấy Puràna chưa thành tựu. Do vậy, ở đây, Isidatta có sanh thú khác với sanh
thú của Puràna. Như vậy, này Ananda, cả hai người này đều có thể
thiếu sót một chi phần.
(VI) (76) Không Thể Tăng Trưởng
1. - Này các Tỷ-kheo, nếu ba pháp không có mặt ở đời, thời Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác không xuất hiện ở đời, và Pháp, Luật
được Như Lai thuyết giảng không được nêu rõ ở đời. Thế nào là
ba?
2. Sanh, già và chết. Này các Tỷ-kheo, nếu ba pháp này không
hiện hữu ở đời, thời Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác không xuất
hiện ở đời, và Pháp, Luật do Như Lai thuyết giảng không được nêu
rõ ở đời. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, ba pháp này có mặt ở đời, do vậy
Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, do vậy, Pháp,
Luật do Như Lai thuyết giảng được nêu rõ ở đời.
3. Này các Tỷ-kheo, không đoạn tận ba pháp thời không có thể đoạn
tận sanh, thời không có thể đoạn tận già, thời không có thể đoạn
tận chết. Thế nào là ba?
4. Không đoạn tận tham, không đoạn tận sân, không đoạn tận si. Do không
đoạn tận ba pháp này, không có thể đoạn tận sanh, không có thể
đoạn tận già, không có thể đoạn tận chết.
5. Này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba pháp, thời không có thể
đoạn tận tham, không có thể đoạn tận sân, không có thể đoạn tận
si. Thế nào là ba?
6. Không đoạn tận thân kiến, không đoạn tận nghi, không đoạn tận
giới cấm thủ. Do không đoạn tận ba pháp này, này các Tỷ-kheo, không có
thể đoạn tận tham, không có thể đoạn tận sân, không có thể
đoạn tận si.
7. Này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba pháp, không có thể đoạn
tận thân kiến, không có thể đoạn tận nghi, không có thể đoạn
tận giới cấm thủ. Thế nào là ba?
8. Không đoạn tận phi như lý tác ý, không đoạn tận tu tập tà
đạo, không đoạn tận tánh thụ động. Do không đoạn tận ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, không có thể đoạn tận thân kiến, không có thể
đoạn tận nghi, không có thể đọan tận giới cấm thủ.
9. Này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba pháp, không có thể đoạn
tận phi như lý tác ý, không có thể đoạn tận tu tập tà
đạo, không có thể đoạn tận tánh thụ động. Thế nào là ba?
10. Không đoạn tận vọng niệm, không đoạn tận không tỉnh giác,
không đoạn tận tâm loạn động. Do không đoạn tận ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, không có thể đoạn tận phi như lý tác ý, không có
thể đoạn tận tu tập tà đạo, không có thể đoạn tận tánh thụ động.
11. Này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba pháp, không có thể đoạn
tận vọng niệm, không có thể đoạn tận không tỉnh giác, không có
thể đoạn tận tâm loạn động. Thế nào là ba?
12. Không đoạn tận không muốn yết kiến các bậc Thánh, không đoạn
tận không muốn nghe Thánh pháp, không đoạn tận bới lông tìm vết. Do
không đoạn tận ba pháp này, này các Tỷ-kheo, không có thể đoạn tận
vọng niệm, không có thể đoạn tận không tỉnh giác, không có
thể đoạn tận tâm loạn động.
13. Này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba pháp, không có thể đoạn
tận không muốn yết kiến các bậc Thánh, không có thể đoạn tận
không muốn nghe Thánh pháp, không có thể đoạn tận bới lông tìm vết.
Thế nào là ba?
14. Không đoạn tận trạo cử, không đọan tận không chế ngự, không đoạn tận
ác giới. Do không đoạn tận ba pháp này, này các Tỷ-kheo, không có
thể đoạn tận không muốn yết kiến các bậc Thánh, không có thể
đoạn tận không muốn nghe Thánh pháp, không có thể đoạn tận tâm bới
lông tìm vết.
15. Này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba pháp, không có thể đoạn
tận trạo cử, không có thể đoạn tận không chế ngự, không có thể
đoạn tận ác giới. Thế nào là ba?
16. Không đoạn tận không có lòng tin, không đoạn tận xan tham, không đoạn
tận biếng nhác, do không đoạn tận ba pháp này, này các Tỷ-kheo, không
có thể đoạn tận trạo cử, không có thể đoạn tận không chế ngự,
không có thể đoạn tận ác giới.
17. Này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba pháp, không có thể đoạn
tận không có lòng tin, không có thể đoạn tận xan tham, không có thể
đoạn tận biếng nhác. Thế nào là ba?
18. Không đoạn tận không cung kính, không đoạn tận khó nói, không đoạn
tận ác bằng hữu. Do không đoạn tận ba pháp này, này các Tỷ-kheo, không
có thể đoạn tận không có lòng tin, không có thể đoạn tận xan tham,
không có thể đoạn tận biếng nhác.
19. Này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba pháp, không có thể đoạn
tận không cung kính, không có thể đoạn tận khó nói, không có thể
đoạn tận ác bằng hữu. Thế nào là ba?
20. Không đoạn tận không xấu hổ, không đoạn tận không sợ hãi, không
đoạn tận phóng dật, do ba pháp này không đoạn tận, này các Tỷ-kheo,
không có thể đoạn tận không cung kính, không có thể đoạn tận khó
nói, không có thể đoạn tận ác bằng hữu.
21. Người này không có xấu hổ, này các Tỷ-kheo, không có sợ hãi, có
phóng dật. Người ấy do phóng dật, không có thể đoạn tận không cung
kính, không có thể đoạn tận khó nói, không có thể đọan tận ác bằng hữu.
Người ấy do ác bằng hữu, không có thể đoạn tận không có lòng tin,
không có thể đoạn tận xan tham, không có thể đoạn tận biếng
nhác. Vị ấy do biếng nhác, không có thể đoạn tận trạo cử, không có
thể đoạn tận không chế ngự, không có thể đoạn tận ác giới. Vị
ấy do ác giới, không có thể đoạn tận không ưa yết kiến các bậc
Thánh, không có thể đoạn tận không ưa nghe Thánh pháp, không có thể
đoạn tận bới lông tìm vết. Vị ấy do bới lông tìm vết, không có
thể đoạn tận vọng niệm, không có thể đoạn tận không có tỉnh
giác, không có thể đoạn tận tâm loạn động. Vị ấy do tâm loạn động,
không có thể đoạn tận phi như lý tác ý, không có thể đoạn
tận tu tập tà đạo, không có thể đoạn tận tánh thụ động. Vị ấy do tánh
thụ động, không có thể đoạn tận thân kiến, không có thể đoạn
tận nghi, không có thể đoạn tận giới cấm thủ. Vị ấy do nghi hoặc, không
có thể đoạn tận tham, không có thể đoạn tận sân, không có thể
đoạn tận si. Vị ấy do không đoạn tận tham, không đoạn tận sân, không đoạn
tận si, không có thể đoạn tận sanh, không có thể đoạn tận già,
không có thể đoạn tận chết.
22. Do đoạn tận ba pháp, này các Tỷ-kheo, có thể đoạn tận sanh, có
thể đoạn tận già, có thể đoạn tận chết. Thế nào là ba?
23. Do đoạn tận tham, do đoạn tận sân, do đoạn tận si, do đoạn tận ba
pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể đoạn tận sanh, có thể đoạn
tận già, có thể đoạn tận chết.
24. Này các Tỷ-kheo, do ba pháp được đoạn tận, có thể đoạn tận
tham, có thể đoạn tận sân, có thể đoạn tận si. Thế nào là ba?
25. Do đoạn tận thân kiến, do đoạn tận nghi, do đoạn tận giới cấm thủ,
do đoạn tận ba pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể đoạn tận tham, có
thể đoạn tận sân, có thể đoạn tận si.
26. Này các Tỷ-kheo, do ba pháp được đoạn tận, có thể đoạn tận
thân kiến, có thể đoạn tận nghi, có thể đoạn tận giới cấm thủ.
Thế nào là ba?
27. Do đoạn tận phi như lý tác ý, do đoạn tận thực hành tà đạo,
do đoạn tận tánh thụ động, do đoạn tận ba pháp này, này các Tỷ-kheo,
có thể đoạn tận thân kiến, có thể đoạn tận nghi, có thể
đoạn tận giới cấm thủ.
28. Này các Tỷ-kheo, do đoạn tận ba pháp, có thể đoạn tận phi như
lý tác ý, có thể đoạn tận thực hành tà đạo, có thể đoạn
tận tánh thụ động. Thế nào là ba?
29. Do đoạn tận vọng niệm, do đoạn tận không tỉnh giác, do đoạn
tận tâm loạn động, do đoạn tận ba pháp, này các Tỷ-kheo, có thể
đoạn tận phi như lý tác ý, có thể đoạn tận không tỉnh giác, có
thể đoạn tận tánh thụ động.
30. Này các Tỷ-kheo, do đoạn tận ba pháp, có thể đoạn tận vọng
niệm, có thể đoạn tận không tỉnh giác, có thể đoạn tận tâm
loạn động. Thế nào là ba?
31. Do đoạn tận không muốn yết kiến các bậc Thánh, do đoạn tận
không muốn nghe Thánh pháp, do đoạn tận bới lông tìm vết, do đoạn tận ba
pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể đoạn tận vọng niệm, có
thể đoạn tận không tỉnh giác, có thể đoạn tận tâm loạn động.
32. Này các Tỷ-kheo, do đoạn tận ba pháp, có thể đoạn tận không
muốn yết kiến các bậc Thánh, có thể đoạn tận không muốn nghe
Thánh pháp, có thể đoạn tận bới lông tìm vết. Thế nào là ba?
33. Do đoạn tận trạo cử, do đoạn tận không chế ngự, do đoạn tận ác giới, do đoạn tận ba pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể đoạn tận không muốn yết kiến các bậc Thánh, có thể đoạn tận không muốn nghe Thánh pháp, có thể đoạn tận bới lông tìm vết.
34. Này các Tỷ-kheo, do đoạn tận ba pháp, có thể đoạn tận trạo
cử, có thể đoạn tận không chế ngự, có thể đoạn tận ác giới.
Thế nào là ba?
35. Do đoạn tận không có lòng tin, do đoạn tận xan tham, do đoạn tận
biếng nhác, do đoạn tận ba pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể
đoạn tận trạo cử, có thể đoạn tận không chế ngự, có thể đoạn
tận ác giới.
36. Này các Tỷ-kheo, do đoạn tận ba pháp, có thể đoạn tận không
có lòng tin, có thể đoạn tận xan tham, có thể đoạn tận biếng
nhác. Thế nào là ba?
37. Do đoạn tận không cung kính, do đoạn tận khó nói, do đoạn tận ác
bằng hữu, do đoạn tận ba pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể đoạn tận
không có lòng tin, có thể đoạn tận xan tham, có thể đoạn tận
biếng nhác.
38. Này các Tỷ-kheo, do đoạn tận ba pháp, có thể đoạn tận không
cung kính, có thể đoạn tận khó nói, có thể đoạn tận ác bằng hữu.
Thế nào là ba?
39. Do đoạn tận không xấu hổ, do đoạn tận không sợ hãi, do đoạn tận phóng dật, do đoạn tận ba pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể đoạn tận không cung kính, có thể đoạn tận khó nói, có thể đoạn tận ác bằng hữu.
40. Này các Tỷ-kheo, người này có xấu hổ, có sợ hãi, có phóng dật. Người ấy do không phóng dật, có thể đoạn tận không cung kính, có thể đoạn tận khó nói, có thể đoạn tận ác bằng hữu. Người ấy do thiện bằng hữu, có thể đoạn tận không có lòng tin, có thể đoạn tận xan tham, có thể đoạn tận biếng nhác. Người ấy do tinh cần tinh tấn, có thể đoạn tận trạo cử, có thể đoạn tận không chế ngự, có thể đoạn tận ác giới. Người ấy do giới đức, có thể đoạn tận không muốn yết kiến các bậc Thánh, có thể đoạn tận không muốn nghe Thánh pháp, có thể đoạn tận bới lông tìm vết. Người ấy do không bới lông tìm vết, có thể đoạn tận vọng niệm, có thể đoạn tận không tỉnh giác, có thể đoạn tận tâm loạn động. Người ấy do tâm không loạn động, có thể đoạn tận phi như ly tác ý, có thể đoạn tận tu tập tà đạo, có thể đoạn tận tánh thụ động. Người ấy do tánh không thụ đông, có thể đoạn tận thân kiến, có thể đoạn tận nghi, có thể đoạn tận giới cấm thủ. Người ấy do không có nghi hoặc, có thể đoạn tận tham, có thể đoạn tận sân, có thể đoạn tận si. Vị ấy do đoạn tận tham, do đoạn tận sân, do đoạn tận si, có thể đoạn tận sanh, có thể đoạn tận già, có thể đoạn tận chết.
(VII)(77) Con Quạ
1.- Này các Tỷ-kheo, con quạ thành tựu với mười tà pháp. Thế nào
là mười?
2. Ngạo nghễ, hung hãn, cường dục, ăn lớn, độc ác, không từ bi,
khiếp nhược, giọng chói tai, vọng niệm và cất chứa tài sản.
Này các Tỷ-khao, con quạ thành tựu với mười tà pháp này.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ác Tỷ-kheo thành tựu với mười tà
pháp. Thế nào là mười?
4. Ngạo nghễ, hung hãn, cường dục, ăn lớn, độc ác, không từ bi,
khiếp nhược, giọng chói tai, vọng niệm và cất chứa tài sản.
Này các Tỷ-kheo, vị ác Tỷ-kheo thành tựu với mười tà pháp này.
(VIII)(78) Ni-Kiền-Tử
1.- Này các Tỷ-kheo, các Ni-kiền tử (Niganthàputta) thành tựu với
mười tà pháp. Thế nào là mười?
2. Không có lòng tin, này các Tỷ-kheo, là các Ni-kiền tử. Ác giới,
này các Tỷ-kheo, là các Ni-kiền tử. Không có xấu hổ, này các
Tỷ-kheo, là các Ni-kiền tử. Không có sợ hãi, này các Tỷ-kheo, là
các Ni-kiền tử. Không làm bạn các bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo, là
các Ni-kiền tử. Khen mình chê người, này các Tỷ-kheo, là các
Ni-kiền tử. Chấp thủ các vấn đề hiện tại, không từ bỏ những gì
đã chấp thủ, này các Tỷ-kheo, là các Ni-kiền tử. Gian xảo, này các
Tỷ-kheo, là các Ni-kiền tử. Ác dục, này các Tỷ-kheo, là các
Ni-kiền tử. Theo tà kiến, này các Tỷ-kheo, là các Ni-kiền tử.
Này các Tỷ-kheo, thành tựu với mười tà pháp này là các Ni-kiền
tử.
(IX) (79) Những Trường Hợp Hiềm Hận.
1. - Này các Tỷ-kheo, có mười trường hợp hiềm hận. Thế nào là
mười?
2. Hiềm hận được kết thành, khi nghĩ rằng: "Nó đã làm hại
ta". Hiềm hận được kết thành, khi nghĩ rằng: "Nó đang làm
hại ta". Hiềm hận được kết thành, khi nghĩ rằng: "Nó sẽ làm
hại ta". Hiềm hận được kết thành, khi nghĩ rằng: "Nó đã hại
người ta yêu, người ta mến..." "Nó đang hại người ta yêu, hại
người ta mến..." "Nó sẽ hại người ta yêu, người ta
mến". Hiềm hận được kết thành, khi nghĩ rằng: "Nó đã
làm lợi cho người ta không yêu, người ta không mến". Hiềm hận được kết
thành, khi nghĩ rằng: " Nó đang làm lợi cho người ta không yêu, người ta
không mến". Hiềm hận được kết thành, khi nghĩ rằng: "Nó
sẽ làm lợi cho người ta không yêu, người ta không mến". Làm cho vị
ấy tức giận không có lý do.
Này các Tỷ-kheo, có mười trường hợp hiềm hận này.
(X) (80) Nhiếp Phục Hiềm Hận
1. - Này các Tỷ-kheo, có mười nhiếp phục hiềm hận này, Thế
nào là mười ?
2.- Hiềm hận được nhiếp phục, khi nghĩ rằng: "Nó đã làm hại ta, nhưng lợi ích từ đâu đến khi nghĩ như vậy?" Hiềm hận được nhiếp phục, khi nghĩ rằng: "Nó đang làm hại ta, nhưng lợi ích từ đâu đến khi nghĩ như vậy?". Hiềm hận được nhiếp phục khi nghĩ rằng: "Nó sẽ làm hại ta, nhưng lợi ích từ đâu đến khi ta nghĩ như vậy?" Hiềm hận được nhiếp phục, khi nghĩ rằng: "Nó đã làm hại người ta yêu, người ta mến ..." ... "Nó đang làm hại người ta yêu, người ta mến ..." ... "Nó sẽ làm hại người ta yêu, người ta mến, nhưng lợi ích từ đâu đến khi nghĩ như vậy?" Hiềm hận được nhiếp phục, khi nghĩ rằng: "Nó đã làm lợi cho người ta không yêu, người ta không mến..." ... "Nó đang làm lợi cho người ta không yêu, người ta không mến..." ... "Nó sẽ làm lợi cho người ta không yêu, người ta không mến, nhưng lợi ích từ đâu đến khi nghĩ như vậy?" Không làm cho vị ấy tức giận không có lý do.
Này các Tỷ-kheo, có mười trường hợp nhiếp phục được hiềm
hận.
IX. Phẩm Trưởng Lão
(I) (81) Bàhuna
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Campá, trên bờ hồ Gaggarà. Rồi Tôn giả
Bàhuna đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Bàhuna bạch Thế Tôn:
- Từ bao nhiêu pháp, Như Lai sống xuất ly, ly hệ, giải thoát với tâm
không hạn cuộc.
2. - Từ mười pháp, này Bàhuna, Như Lai sống xuất ly, ly hệ, giải thoát
với tâm không hạn cuộc. Thế nào là mười?
3. Từ sắc, này Bàhuna, Như Lai sống xuất ly, ly hệ, giải thoát với tâm
không hạn cuộc. Từ thọ, này Bàhuna... Từ tưởng, này Bàhuna... Từ các
hành, này Bàhuna... Từ thức, này Bàhuna... Từ sanh, này Bàhuna... Từ già, này
Bàhuna...Từ chết, này Bàhuna...Từ các khổ này, Bàhuna.... Từ các phiền
não, này Bàhuna, Như Lai sống xuất ly, ly hệ, giải thoát với tâm không
hạn cuộc.
4. Ví như, này Bàhuna, hoa sen xanh, hay hoa sen hồng, hay hoa sen trắng, sanh ra
trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên mặt nước và đứng, không có dính
nước. Cũng vậy, này Bàhuna, từ mười pháp này, Như Lai sống xuất ly, ly
hệ, giải thoát với tâm không hạn cuộc.
(II) (82) Ananda
1. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda đang ngồi
một bên:
2. - Này Ananda, Tỷ-kheo nào không có lòng tin, sẽ được tăng trưởng, lớn mạnh, lớn rộng trong Pháp và Luật này, sự kiện này không xảy ra. Này Ananda, Tỷ-kheo nào ác giới... không nghe pháp... khó nói... làm bạn với ác... biếng nhác... thất niệm... không biết đủ... ác dục.. này Ananda, Tỷ-kheo nào có tà kiến sẽ được tăng trưởng lớn mạnh, lớn rộng trong Pháp và Luật này, sự kiện này không xảy ra.
Này Ananda, Tỷ-kheo nào thành tựu mười pháp này, sẽ được tăng trưởng, lớn mạnh, lớn rộng trong Pháp và Luật này, sự kiện này có xảy ra.
3. Này Ananda, Tỷ-kheo nào có lòng tin, sẽ được tăng trưởng, lớn mạnh, lớn rộng trong Pháp và Luật này, sự kiện này có xảy ra. Này Ananda, Tỷ-kheo nào có giới... nghe pháp, thọ trì điều đã nghe... dễ nói... làm bạn với thiện... tinh cần, tinh tấn... trú niệm... biết đủ... ít dục... Này Ananda, Tỷ-kheo nào có chánh tri kiến, sẽ được tăng trưởng, lớn mạnh, lớn rộng trong Pháp và Luật này, sự kiện này có xảy ra.
Này Anada, Tỷ-kheo nào thành tựu mười pháp này sẽ được tăng trưởng, lớn mạnh, lớn rộng trong Pháp và Luật này, sự kiện này có xảy ra.
(III) (83) Punniya
1. Rồi Tôn giả Punniya đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Punniya bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, có khi Thế Tôn thuyết
pháp, có khi Thế Tôn không thuyết pháp?
2.- Này Punniya, Tỷ-kheo có lòng tin, không đi đến yết kiến,
Như Lai không có thuyết pháp. Khi nào, này Punniya, Tỷ-kheo có lòng tin
, đi đến yết kiến, như vậy Thế Tôn thuyết pháp. Và này
Punniya, Tỷ-kheo có lòng tin, có đi đến yết kiến, nhưng không
có hầu hạ... có hầu hạ nhưng không hỏi.. có hỏi nhưng không có lóng tai
nghe pháp... có lóng tai nghe pháp, nhưng sau khi nghe, không thọ trì
pháp... sau khi nghe, có thọ trì pháp, nhưng không suy nghĩ ý nghĩa các
pháp đã được thọ trì... suy nghĩ ý nghĩa các pháp đã được
thọ trì, nhưng không có sau khi biết ý nghĩa, sau khi biết pháp,
thực hành pháp đúng pháp... sau khi biết ý nghĩa, sau khi biết
pháp, có thực hành pháp đúng pháp, nhưng không nói thiện, phát ngôn
thiện, thành tựu các lời tao nhã, nói lên ý nghĩa phân biệt rõ
ràng... khéo nói, khéo phát ngôn, thành tựu các lời tao nhã, nói lên ý
nghĩa phân biệt rõ ràng, nhưng không có thuyết trình, không có khích
lệ, không có làm cho phấn chấn, không có làm cho hoan hỷ các vị đồng
Phạm hạnh, cho đến như vậy, Như Lai không thuyết pháp.
3. Và này Punniya, Tỷ-kheo có lòng tin, có đi đến yết kiến,
có hầu hạ, có hỏi, có lóng tai nghe; sau khi nghe, có thọ trì pháp, có suy
nghĩ ý nghĩa các pháp đã được thọ trì; sau khi biết ý
nghĩa, sau khi biết pháp, có thực hành pháp đúng pháp, khéo nói, khéo
phát ngôn, thành tựu các lời tao nhã, nói lên ý nghĩa phân biệt rõ
ràng và có thuyết trình, có khích lệ, có làm cho phấn chấn, có làm
cho hoan hỷ các vị đồng Phạm hạnh, cho đến như vậy Như Lai có
thuyết pháp.
Thành tựu mười pháp này, này Punniya, Như Lai thế nào cũng thuyết
pháp.
(VI) (84) Nói Lên Chánh Trí
1. Ở đây, Tôn giả Mahàmoggallàna gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Hiền giả Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahàmoggallàna. Tôn giả
Mahàmoggallàna nói như sau:
2. - Ở đây, này các Hiền giả, Tỷ-kheo nói lên chánh trí:
"Tôi rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"". Rồi Như
Lai hay đệ tử Như Lai, là vị hành thiền, thiện xảo trong thiền
chứng, thiện xảo trong tâm người khác, thiện xảo trong hành tướng tâm
người khác, thẩm vấn, gạn hỏi, thảo luận. Vị ấy bị Như Lai hay đệ tử
Như Lai, những vị hành thiền, thiện xảo trong thiền chứng, thiện
xảo trong tâm người khác, thẩm vấn, gạn hỏi, thảo luận, rơi vào trong trống
rỗng (sa mạc), rơi vào trong rối ren (rừng rậm), rơi vào trong bế tắc,
rơi vào trong bất hạnh, rơi vào trong bế tắc và bất hạnh. Như Lai hay
đệ tử Như Lai, những vị hành thiền, thiện xảo trong tâm người
khác, thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, thiện xảo trong hành
tướng tâm người khác, với tâm mình tác ý đến tâm của người ấy như
sau: "Như thế nào, Tôn giả này nói lên chánh trí: "Tôi rõ
biết rằng: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm
đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa."? " Như Lai hay
đệ tử Như Lai, những vị hành thiền, thiện xảo trong thiền
chứng, thiện xảo trong tâm người khác, thiện xảo trong hành tướng tâm
người khác, với tâm mình biết rõ tâm người ấy như sau: "Có phẫn
nộ là Tôn giả này, sống nhiều với tâm bị phẫn nộ thấm nhuần. Với tâm
bị phẫn nộ thấm nhuần, nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai
thuyết giảng. Có hiềm hận là Tôn giả này... có gièm pha là Tôn giả
này... có não hại là Tôn giả này... có tật đố là Tôn giả này... có xan
tham là Tôn giả này... có lừa đảo là Tôn giả này... có man trá là Tôn giả
này... có ác dục là Tôn giả này... có thất niệm là Tôn giả này... Dầu
cho còn nhiều việc (cao thượng hơn) cần phải làm thêm, tuy có chứng
được thù thắng nhưng chỉ là phần nhỏ lại đứng lại giữa đường; đứng
lại giữa đường này nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết
giảng."
3. Tỷ-kheo ấy, chư Hiền, do không đoạn tận mười pháp này, đi
đến được tăng trưởng, lớn mạnh, lớn rộng trong Pháp và Luật này, sự
kiện này không xảy ra. Tỷ-kheo ấy, này chư Hiền, do đoạn tận
mười pháp này, đi đến được tăng trưởng lớn mạnh, lớn rộng trong Pháp
và Luật này, sự kiện này có xảy ra.
(V) (85) Khoe Khoang
1. Một thời, Tôn giả Mahàcunda trú giữa dân chúng Cetì, tại Sahajati. Tại
đây, Tôn giả Mahàcunda bảo các Tỷ-kheo:
- Này chư Hiền Tỷ-kheo!
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahàcunda. Tôn giả Mahàcunda nói như
sau:
2. - Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo là hạng khoe khoang, khoa
trương những chứng đắc của mình: "Tôi chứng nhập, tôi xuất ly sơ
Thiền. Tôi chứng nhập, tôi xuất ly Thiền thứ hai. Tôi chứng nhập, tôi
xuất ly Thiền thứ ba. Tôi chứng nhập, tôi xuất ly Thiền thứ tư. Tôi
chứng nhập, tôi xuất ly Không vô biên xứ. Tôi chứng nhập, tôi xuất ly Thức
vô biên xứ. Tôi chứng nhập, tôi xuất ly Vô sở hữu xứ. Tôi chứng nhập, tôi
xuất ly Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tôi chứng nhập, tôi xuất ly Diệt
thọ tưởng định." Như Lai hay đệ tử Như Lai là bậc hành thiền, thiện xảo trong thiền chứng, thiện xảo trong tâm người
khác, thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, thẩm vấn, gạn hỏi,
thảo luận. Vị ấy khi bị Như Lai hay đệ tử Như Lai là những bậc hành
thiền, thiện xảo trong thiền chứng, thiện xảo trong tâm người
khác, thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, thẩm vấn, gạn hỏi,
thảo luận, rơi vào trống không, rơi vào rối ren, rơi vào bế tắc, rơi
vào bất hạnh, rơi vào bế tắc và bất hạnh. Như Lai hay đệ tử Như
Lai, những vị hành thiền... thiện xảo trong hành tướng tâm của người
khác, với tâm của mình tác ý đến tâm của người ấy như sau:
"Như thế nào, Tôn giả này khoe khoang, khoa trương những chứng đắc
của mình: "Tôi chứng nhập, tôi xuất ly Thiền thứ nhất... tôi chứng
nhập, tôi xuất ly Diệt thọ tưởng định." Như Lai hay đệ tử
Như Lai, những vị hành thiền... thiện xảo trong hành tướng tâm người
khác, với tâm mình rõ biết tâm người ấy như sau: "Ðã lâu rồi, Tôn
giả này có những hành động phá nát, có những hành động bể vụn, có
những hành động chấm đen, có những hành động uế nhiễm, có những hành
động không phù hợp, có những tập quán không phù hợp trong các giới luật.
Phá giới là Tôn giả này, và phá giới có nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật
do Như Lai thuyết giảng. Không có lòng tin là Tôn giả này, và không có
lòng tin, nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
Nghe ít là Tôn giả này, theo tà hạnh, học ít nghĩa là tổn giảm trong
Pháp Luật do Như Lai thuyết giảng. Khó nói là Tôn giả này, và tánh khó
nói... do Như Lai thuyết giảng. Bạn bè với ác là Tôn giả này, và tánh
bạn bè với ác... biếng nhác là Tôn giả này, và tánh biếng nhác...
thất niệm là do Tôn giả này, và tánh thất niệm... do Như Lai
thuyết giảng. Gian xảo là Tôn giả này, và tánh gian xảo... khó nuôi
dưỡng là Tôn giả này, và tánh khó nuôi dưỡng... ác tuệ là Tôn giả
này, và tánh ác tuệ có nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai
thuyết giảng.""
3. Ví như, này chư Hiền, một người bạn nói với người của mình:
"Này Bạn, khi nào Bạn cần đến tài sản, hãy xin tôi tài sản và tôi
sẽ cho Bạn tài sản." Người bạn kia khi cần đến tài sản liền nói
với người bạn như sau: "Này Bạn, nay tôi cần đến tài sản, hãy cho
tôi tài sản". Vị ấy trả lời như sau: "Vậy này Bạn, hãy đào ở
đây". Vị kia tại đấy đào lên và không tìm được gì. Vị kia nói:
"Này Bạn, Bạn đã nói láo với tôi. Này Bạn, Bạn đã nói những lời
trống rỗng với tôi." "Hãy đào ở đây". Vị ấy nói:
"Này Bạn, tôi không nói láo với Bạn. Tôi không nói những lời trống
rỗng với Bạn. Vậy này Bạn, hãy đào ở đây". Vị kia tại đấy đào
lên và không tìm được gì. Vị kia nói: "Này Bạn, Bạn đã nói láo với
tôi. Này Bạn, Bạn đã nói những lời trống rỗng với tôi". "Hãy
đào ở đây". Vị ấy nói: "Này Bạn, tôi không nói láo với Bạn. Tôi
không nói những lời trống rỗng. Vậy này Bạn, hãy đào ở đây". Vị
kia tại đấy đào lên và không tìm được gì. Vị kia nói: "Này Bạn, Bạn
đã nói láo với tôi. Bạn đã nói những lời trống rỗng với tôi".
"Hãy đào ở đây". Vị kia nói: "Này Bạn, tôi không nói láo với
Bạn. Tôi không nói những lời trống rỗng với Bạn nhưng tôi bị điên
loạn, tâm tôi bị đảo lộn. Cũng vậy, này chư Hiền, Tỷ-kheo là hạng
khoe khoang, khoa trương những chứng đắc của mình: "Tôi chứng nhập, Tôi
xuất ly sơ Thiền...Thiền thứ hai... Thiền thứ ba... Thiền thứ
tư... Không vô biên xứ...Thức vô biên xứ... vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi
phi tưởng xứ... Tôi chứng nhập, tôi xuất ly Diệt thọ tưởng
định". Như Lai hay đệ tử Như Lai là bậc hành thiền, thiện
xảo trong thiền chứng, thiện xảo trong tâm người khác, thiện xảo
trong hành tướng tâm người khác, thẩm vấn, gạn hỏi, thảo luận. Vị ấy, khi
bị Như Lai hay đệ tử Như Lai là những bậc hành thiền... thiện xảo
trong hành tướng tâm người khác, thẩm vấn, gạn hỏi, thảo luận, rơi vào
trống không, rơi vào rối ren, rơi vào bế tắc, rơi vào bất hạnh, rơi vào
bế tắc và bất hạnh. Như Lai hay đệ tử Như Lai, những bậc hành
thiền... thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, với tâm của
mình, tác ý đến tâm của người khác, với tâm của mình, tác ý
đến tâm của người ấy như sau: "Như thế nào, Tôn giả này khoa
trương, khoe khoang, những chứng đắc của mình: "Tôi chứng nhập và xuất
ly sơ Thiền... tôi chứng nhập và xuất ly Diệt thọ tưởng
định". Như Lai hay đệ tử Như Lai, những vị hành thiền...
thiện xảo trong hành tướng tâm của người khác như sau: "Ðã lâu
rồi, Tôn giả này có những hành động phá nát, có những hành động bể
vụn, có những hành động chấm đen, có những hành động uế nhiễm, có
những hành động không phù hợp, có những tập quán không phù hợp trong các
giới. Phá giới là Tôn giả này, và phá giới có nghĩa là tổn giảm trong Pháp và
Luật do Như Lai thuyết giảng. Không có lòng tin là Tôn giả này và tánh
không có lòng tin... nghe ít là Tôn giả này và tánh nghe ít... khó nói là
Tôn giả này, và tánh khó nói... bạn bè với ác là Tôn giả này và tánh làm
bạn với ác...biếng nhác là Tôn giả này, và tánh biếng nhác..... thất
niệm là Tôn giả này và tánh thất niệm... gian xảo là Tôn giả này và
tánh gian xảo... khó nuôi dưỡng là Tôn giả này và tánh khó nuôi dưỡng...
Ác tuệ là Tôn giả này và tánh ác tuệ là tổn giảm trong Pháp và
Luật do Như Lai thuyết giảng."
4. Tỷ-kheo ấy, này chư Hiền, không đoạn tận mười pháp này sẽ
tăng trưởng, lớn mạnh, lớn rộng trong Pháp và Luật này, sự kiện này
không xảy ra. Tỷ-kheo ấy, này chư Hiền, sau khi đoạn tận mười pháp
này, sẽ được tăng trưởng, lớn mạnh, lớn rộng trong Pháp và Luật này, sự
kiện này có xảy ra.
(VI) (86) Câu Hỏi Về Chánh Trí
1. Một thời, Tôn giả Mahàkassapa ở tại Ràjagaha (Vương Xá), Trúc Lâm, tại vườn nuôi dưỡng các con sóc. Tại đấy, Tôn giả Kassapa gọi các Tỷ-kheo:
- Này chư Hiền Tỷ-kheo.
- Thưa vâng Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahàkassapa. Tôn giả Mahàkassapa nói như sau:
2. - Ở đây, này chư Hiền Tỷ-kheo nói lên chánh trí, nói rằng: "Tôi biết rõ như sau: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"". Như Lai hay đệ tử Như Lai, những vị hành thiền, thiện xảo trong thiền chứng, thiện xảo trong tâm người khác, thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, thẩm vấn, gạn hỏi, thảo luận. Vị ấy khi bị Như Lai, hay đệ tử Như Lai, là những vị hành thiền... thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, thẩm vấn, gạn hỏi, thảo luận, rơi vào trống không, rơi vào bối rối, rơi vào bế tắc, rơi vào bất hạnh, rơi vào bế tắc và bất hạnh. Như Lai hay đệ tử Như Lai, là những vị hành thiền... thiện xảo trong hành tướng tâm của người khác, với tâm của mình, tác ý đến tâm người ấy như sau: "Như thế nào, vị Tôn giả này nói lên chánh trí, nói rằng: "Tôi rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"". Như Lai hay đệ tử Như Lai, là những bậc hành thiền... thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, với tâm của mình, biết được tâm người ấy như sau: "Tăng thượng mạn là Tôn giả này, xem tăng thượng mạn của mình như là sự thật, chưa chứng đạt tưởng rằng đã chứng đạt, chưa làm tưởng rằng đã làm, chưa chứng đắc tưởng rằng đã chứng đắc, với tăng thượng mạn đã tuyên bố về chánh trí", nói rằng: "Tôi rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"". Như Lai hay đệ tử Như Lai, là những vị hành thiền... thiện xảo trong hành tướng tâm của người khác, với tâm của mình, tác ý đến tâm người ấy: "Dựa trên gì, Tôn giả này tăng thượng mạn, xem tăng thượng mạn của mình như là sự thật, chưa chứng đạt tưởng rằng đã chứng đạt... chưa chứng đắc tưởng rằng đã chứng đắc, với tăng thượng mạn, đã tuyên bố về chánh trí", nói rằng: "Tôi rõ biết: "Sanh đã tận... không còn trở lui trạng thái này nữa""? ". Như Lai hay đệ tử Như Lai, là những vị hành thiền... thiện xảo trong hành tướng tâm của người khác, với tâm của mình biết được tâm của người ấy: "Nghe nhiều là Tôn giả này, thọ trì điều đã nghe, cất chứa điều đã nghe. Những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, tán thán đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn trong sạch, những pháp như vậy, vị ấy nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, thọ trì đọc tụng bằng lời, với ý khéo quán sát, khéo thể nhập, với chánh kiến. Do vậy, Tôn giả này, tăng thượng mạn, xem tăng thượng mạn của mình như là sự thật, chưa chứng đạt tưởng rằng đã chứng đạt, chưa làm tưởng rằng đã làm, chưa chứng đắc tưởng rằng đã chứng đắc, với tăng thượng mạn, đã tuyên bố về chánh trí", nói rằng: "Tôi rõ biết: "Sanh đã tận... không còn trở lui trạng thái này nữa"". Như Lai hay đệ tử Như Lai, là những vị hành thiền... thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, với tâm của mình, biết rõ tâm của người ấy: "Tham là Tôn giả này, sống nhiều với tâm bị tham chi phối, và bị tham chi phối nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng. Sân là Tôn giả này, sống nhiều với tâm bị sân chi phối, và bị sân...Hôn trầm thụy miên là Tôn giả này và sống nhiều với tâm bị hôn trầm thụy miên chi phối, và bị hôn trầm thụy miên chi phối nghĩa là tổn giảm... Trạo cử là Tôn giả này, và vị ấy sống nhiều với tâm bị trạo cử chi phối, và tâm bị trạo cử chi phối nghĩa là tổn giảm... Nghi là Tôn giả này, sống nhiều với tâm bị nghi hoặc chi phối... Ưa thích công việc là Tôn giả này, thích thú công việc, chuyên chú trong thích thú công việc, và ưa thích công việc nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng. Ưa thích nói chuyện là Tôn giả này, thích thú nói chuyện, chuyên chú trong thích thú nói chuyện, thích thú nói chuyện là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng. Ưa thích ngủ nghỉ là Tôn giả này, thích thú ngủ nghỉ, và tánh thích thú ngủ nghỉ nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng. Ưa thích hội chúng là Tôn giả này, thích thú hội chúng, chuyên chú ưa thích hội chúng, ưa thích hội chúng có nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng. Thất niệm là Tôn giả này, đối với các Pháp cao thượng chỉ được phần nhỏ, dầu cho có chứng được thù thắng nhưng chỉ là phần nhỏ, lại đứng lại giữa đường; đứng lại giữa đường, có nghĩa là tổn giảm trong Pháp Luật do Như Lai thuyết giảng."
3. Tỷ-kheo ấy, này chư Hiền, không đoạn tận mười pháp này, sẽ
được tăng trưởng, lớn mạnh, lớn rộng trong Pháp và Luật do Như Lai
thuyết giảng, sự kiện này không xảy ra. Tỷ-kheo ấy, này chư
Hiền, đoạn tận mười pháp này, sẽ được tăng trưởng lớn mạnh, lớn
rộng trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, sự kiện này có xảy
ra.
(VII) (87) Tỷ Kheo Kàlaka
1. Tại đấy, nhân việc của Tỷ-kheo Kàlaka, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Vâng bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
2. - Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ưa thích kiện tụng, không tán thán làm lắng dịu các cuộc kiện tụng. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ưa thích kiện tụng, không tán thán làm lắng dịu các cuộc kiện tụng, pháp này không đưa đến thân ái, không đưa đến kính trọng, không đưa đến bắt chước (được làm quen), không đưa đến hòa đồng, không đưa đến nhất trí.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không ưa học tập, không tán thán chấp nhận các học pháp. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không ưa học tập, không tán thán chấp nhận các học pháp, pháp này không đưa đến thân ái... không đưa đến nhất trí.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ác dục, không tán thán nhiếp phục ác dục. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ác dục, không tán thán nhiếp phục ác dục, pháp này không đưa đến thân ái... không đưa đến nhất trí.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phẫn nộ, không tán thán nhiếp phục phẫn nộ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phẫn nộ, không tán thán nhiếp phục phẫn nộ, pháp này không đưa đến thân ái... không đưa đến nhất trí.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo gièm pha, không tán thán nhiếp phục gièm pha. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo gièm pha, không tán thán nhiếp phục gièm pha, pháp này không đưa đến thân ái... không đưa đến nhất trí.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo lừa đảo, không tán thán nhiếp phục lừa đảo. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo lừa đảo, không tán thán nhiếp phục lừa đảo, pháp này không đưa đến thân ái... không đưa đến nhất trí.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo man trá, không tán thán nhiếp phục man trá. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo man trá, không tán thán nhiếp phục man trá, pháp này không đưa đến thân ái... không đưa đến nhất trí.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tánh không vâng theo Chánh pháp, tánh không tán thán vâng theo Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tánh không vâng theo Chánh pháp, tánh không tán thán vâng theo Chánh pháp, pháp này không đưa đến thân ái... không đưa đến nhất trí.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không thiền tịnh, không tán thán thiền tịnh. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không thiền tịnh, không tán thán thiền tịnh, pháp này không đưa đến thân ái... không đưa đến nhất trí.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có tiếp đón tốt đẹp các vị đồng Phạm hạnh, không tán thán việc đón tiếp tốt đẹp. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có tiếp đón tốt đẹp các vị đồng Phạm hạnh, không tán thán việc tiếp đón tốt đẹp, pháp này không đưa đến thân ái... không đưa đến nhất trí.
12. Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo như vậy, nếu có ước muốn nào khởi lên: "Ôi mong rằng các vị đồng Phạm hạnh cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường tôi", nhưng các vị đồng Phạm hạnh không có cung kính, không có tôn trọng, không có đảnh lễ, cúng dường vị ấy. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì rằng các vị đồng Phạm hạnh có trí, quán thấy các pháp ác bất thiện không được đoạn tận trong vị ấy.
13. Ví như, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa không thuần phục, dầu cho có khởi lên ý muốn như sau: "Mong rằng loài Người sẽ đặt ta trong vị trí của con ngựa đã được thuần thục, cho ta ăn với các đồ ăn dành cho con ngựa thuần phục, điều phục ta với sự điều phục dành cho con ngựa thuần thục". Nhưng loài Người không đặt nó trong vị trí của con ngựa thuần thục, không cho nó ăn trong vị trí của con ngựa thuần thục, không điều phục nó với sự điều phục dành cho con ngựa thuần thục. Vì sao? Vì những người có trí thấy rõ được những tánh hạ liệt, sự lừa đảo, giả dối, xảo trá, xảo quyệt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo như vậy, nếu có ước muốn nào khởi lên: "Ôi mong rằng các vị đồng Phạm hạnh cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường ta", nhưng các vị đồng Phạm hạnh không có cung kính, không có tôn trọng, không có đảnh lễ, không có cúng dường vị ấy. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì rằng các vị đồng Phạm hạnh có trí, quán thấy các pháp ác bất thiện không được đoạn tận trong vị ấy.
14. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không ưa thích kiện tụng, tán thán làm lắng dịu các cuộc kiện tụng. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không ưa thích kiện tụng, tán thán làm lắng dịu các cuộc kiện tụng. Pháp này đưa đến thân ái, đưa đến kính trọng, đưa đến muốn làm quen, đưa đến hòa đồng, đưa đến nhất trí.
15. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ưa thích học tập, tán thán chấp nhận học pháp. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ưa thích học tập, tán thán chấp nhận học pháp. Pháp này đưa đến thân ái... đưa đến nhất trí.
16. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ít dục, tán thán nhiếp phục các dục. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ít dục, tán thán nhiếp phục các dục. Pháp này đưa đến thân ái ... đưa đến nhất trí.
17. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không phẫn nộ, tán thán nhiếp phục phẫn nộ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không phẫn nộ, tán thán nhiếp phục phẫn nộ. Pháp này đưa đến thân ái... đưa đến nhất trí.
18. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không gièm pha, tán thán nhiếp phục gièm pha. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không gièm pha, tán thán nhiếp phục gièm pha. Pháp này đưa đến thân ái... đưa đến nhất trí.
19. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không lừa đảo, tán thán nhiếp phục lừa đảo. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không lừa đảo, tán thán nhiếp phục lừa đảo. Pháp này đưa đến thân ái... đưa đến nhất trí.
20. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không man trá, tán thán nhiếp phục man trá. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không man trá, tán thán nhiếp phục man trá. Pháp này đưa đến thân ái... đưa đến nhất trí.
21. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vâng theo Chánh pháp, tán thán vâng theo Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vâng theo Chánh pháp, tán thán vâng theo Chánh pháp. Pháp này đưa đến thân ái... đưa đến nhất trí.
22. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thiền tịnh, tán thán thiền tịnh. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thiền tịnh, tán thán thiền tịnh. Pháp này đưa đến thân ái... đưa đến nhất trí.
23. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tiếp đón tốt đẹp các vị đồng Phạm hạnh, tán thán việc tiếp đón tốt đẹp các vị đồng Phạm hạnh. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tiếp đón tốt đẹp các vị đồng Phạm hạnh, tán thán việc tiếp đón tốt đẹp các vị đồng Phạm hạnh. Pháp này đưa đến thân ái... đưa đến nhất trí.
24. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy, nếu không có ước muốn nào khởi lên: "Ôi mong rằng các vị đồng Phạm hạnh cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường ta", nhưng các vị đồng Phạm hạnh cũng vẫn cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường vị ấy. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì rằng các vị đồng Phạm hạnh có trí, quán thấy các pháp ác bất thiện đã được đoạn tận nơi vị ấy.
25. Ví như, này các Tỷ-kheo, một con ngựa thuần phục, dầu cho không khởi lên ý muốn như sau: "Mong rằng loài Người sẽ đặt ta trong vị trí của con ngựa đã thuần thục, cho ta ăn với các đồ ăn dành cho con ngựa thuần thục, điều phục ta với điều phục dành cho con ngựa thuần thục". Nhưng loài Người vẫn đặt nó trong vị trí của con ngựa thuần thục, vẫn cho nó ăn với các đồ ăn dành cho con ngựa thuần thục, vẫn điều phục nó với điều phục dành cho con ngựa thuần thục. Vì sao? Vì những người có trí thấy rõ được những tánh hạ liệt, gian dối, giả dối, xảo trá, xảo quyệt của nó đã được đoạn tận. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo như vậy, nếu không có khởi lên ước muốn: "Ôi mong rằng các vị đồng Phạm hạnh cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường ta", nhưng các vị đồng Phạm hạnh vẫn cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường vị ấy. Vì sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, các vị đồng Phạm hạnh có trí thấy rằng các pháp ác bất thiện ấy đã được đoạn tận nơi vị ấy.
(VIII) (88) Tai Nạn
1. - Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo nào mạ lỵ, khiển trách, nhiếc mắng các vị Thánh và những vị đồng Phạm hạnh, thật sự không thể không xảy ra được, không thể không có lúc để vị ấy khỏi phải gặp một trong mười tai nạn này. Thế nào là mười?
2. Không chứng đắc điều chưa được chứng đắc, điều đã chứng đắc bị thối thất, không được sáng suốt đối với diệu pháp, tăng thượng mạn trong diệu pháp, sống Phạm hạnh không được hoan hỷ, vi phạm một uế tội, cảm xúc bệnh nặng, đạt đến điên cuồng loạn tâm, khi chết bị bất tỉnh (hôn mê), hay sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào mạ lỵ, khiển trách, nhiếc mắng các vị Thánh và những vị đồng Phạm hạnh, thật sự không thể không xảy ra được, không thể không có lúc để vị ấy phải gặp một trong mười tai nạn này.
(IX) (89) Tỷ Kheo Kokàlika
1. Bấy giờ có Tỷ-kheo Kokàlika đi đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Kokàlika bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Sàriputta và Moggallàna là ác dục, bị ác dục chinh
phục.
- Này Kokàlika, chớ có nói vậy! Này Kokàlika, chớ có nói vậy. Này
Kokàlika, tâm hãy tịnh tín đối với Sàriputta và Moggallàna. Hiền thiện
là Sàriputta và Moggallàna.
Lần thứ hai, Tỷ-kheo Kokàlika bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn,
dầu Thế Tôn có lòng tin và tin tưởng, đối với con Sàriputta và
Moggallàna là ác dục, bị ác dục chinh phục."
- Này Kokàlika, chớ có nói vậy! Này Kokàlika, chớ có nói vậy. Này
Kokàlika, tâm hãy tịnh tín đối với Sàriputta và Moggallàna. Hiền
thiện là Sàriputta và Moggallàna.
- Này Kokàlika, chớ có nói vậy! Này Kokàlika, chớ có nói vậy. Này
Kokàlikaa, tâm hãy tịnh tín đối với Sàripuuta và Moggallàna. Hiền
thiện là Sàriputta và Moggallàna.
Lần thứ ba, Tỷ-kheo Kokàlika bạch Thế Tôn: ... Hiền thiện là
Sàriputta và Moggallàna.
2. Rồi Tỷ-kheo Kokàlika từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế
Tôn, thân bên hữu hướng về Thế Tôn rồi ra đi. Tỷ-kheo Kokàlika ra
đi không bao lâu, toàn thân của Tỷ-kheo Kokàlika nổi lên những mụt to bằng
hạt cải: sau khi lớn bằng hạt cải, chúng lớn lên bằng hột đậu; sau khi lớn
lên bằng hột đậu, chúng lớn lên bằng hạt đậu lớn; sau khi lớn bằng hột
đậu lớn, chúng lớn lên bằng hòn sỏi; sau khi lớn bằng hòn sỏi Kolatthi,
chúng lớn lên bằng hột táo; sau khi lớn lên bằng hột táo, chúng lớn lên
bằng trái Amala (A-ma-lặc); sau khi lớn lên bằng trái Amala, chúng lớn lên bằng
trái dưa (trái vilva); sau khi lớn lên bằng trái dưa vilva, chúng lớn lên bằng
trái billa (trái dưa đã chín); sau khi lớn lên bằng trái billa, chúng bị phá
vỡ, mủ và máu chảy ra. Tại đây, nó nằm trên lá chuối, như con cá ăn phải
đồ độc.
3. Lúc ấy có độc giác Phạm thiên Tudu đi đến Tỷ-kheo Kokàlika, sau
khi đến, đứng trên hư không và nói với Tỷ-kheo Kokàlika:
- Này Kokàlika, hãy đặt tâm tịnh tín nơi Sàriputta và Moggallàna! Hiền
thiện là Sàriputta và Moggallàna.
- Ông là ai?
- Ta là độc giác Phạm thiên Tudu.
- Thưa Hiền giả, có phải Hiền giả là người được Thế Tôn trả
lời là đã chứng Bất lai? Sao người lại đến đây? Hãy xem như thế
nào người đã lầm lạc trong vấn đề này.
Rồi độc giác Phạm thiện Tudu nói lên với Tỷ-kheo Kokàlika bài
kệ này:
Con người được sanh ra,
Sanh với búa trong miệng,
Người ngu nói điều xấu,
Là tự chém vào mình.
Ai khen người đáng chê,
Ai chê người đáng khen,
Ðều chất chứa bất hạnh,
Do từ miệng tạo thành,
Và chính do bất hạnh,
Nên không được an lạc.
Nhỏ thay, bất hạnh này,
Chính do cờ bạc sanh,
Khiến tài sản tiêu hao,
Bất hạnh này lớn hơn,
Không những mất tất cả,
Lại mất cả tự mình,
Là người khởi ác ý
Ðối với chư Thiện Thệ.
Ai chỉ trích bậc Thánh,
Với lời, với ác ý,
Trải qua trăm ngàn thời,
Với ni-ra-bu-đa,
Còn thêm ba mươi sáu,
Với năm a-bu-đa,
Còn thêm ba mươi sáu,
Với năm a-bu-đa,
Phải sanh vào địa ngục
Chịu khổ đau tại đấy.
4. Rồi Tỷ-kheo Kokàlika, do chứng bệnh ấy mệnh chung. Sau khi chết, Tỷ-kheo Kokàlika sanh vào địa ngục sen hồng vì tâm khởi ác ý đối với Sàriputta và Moggallàna. Rồi Phạm thiên Sahampati, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên, đứng một bên, Phạm thiên Sahampati bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàlika đã mệnh chung. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàlika đã mệnh chung, phải sanh vào địa ngục sen hồng, vì tâm khởi ác ý đối với Sàriputta và Moggallàna". Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Nói như vậy xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ.
5. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm đã qua, bảo các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, đêm nay Phạm thiên Sahampati khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta; sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên, đứng một bên, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati thưa với Ta: "Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàlika đã mệnh chung. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàika đã mệnh chung, phải sanh vào địa ngục sen hồng, vì tâm khởi ác ý đối với Sàriputta và Moggallàna". Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Nói như vậy xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
6. Khi nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, lâu dài bao nhiêu, là tuổi thọ ở địa ngục sen hồng?
- Này Tỷ-kheo, tuổi thọ ở địa ngục sen hồng, rất khó mà tính được. Có chừng ấy năm, hay có chừng ấy trăm năm, hay có chừng ấy ngàn năm, hay có chừng ấy trăm ngàn năm.
- Bạch Thế Tôn, có thể cho một ví dụ được chăng?
- Có thể được, này Tỷ-kheo, một cỗ xe chở hai mươi cân Kosala chở đầy hột mè. Rồi một người cứ sau một trăm năm, một trăm năm, một trăm năm lấy lên một hột mè. Mau hơn, này Tỷ-kheo, là cỗ xe chở hai mươi cân Kosala chở đầy hột mè, do phương pháp này, đi đến tận sạch, không còn gì nữa, cũng chưa đủ là một Abbuda địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Abbuda địa ngục là bằng một Nirabbuda địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Nirabbuda địa ngục bằng một Ababà địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Ababà địa ngục bằng một Ahaha địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Ahaha địa ngục là bằng một Atato địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Atato địa ngục bằng một Kumodo địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Kumodo địa ngục là bằng một Sogandhika địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Sogandhika địa ngục bằng một Uppalako địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Uppalako địa ngục bằng một Pundarika địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Pundarika địa ngục bằng một Paduma địa ngục . Này Tỷ kheo, Tỷ kheo Kokàlika phải sanh vào địa ngục Paduma (sen hồng), vì khởi lên ác ý đối với Sàriputta và Moggallàna.
Thế Tôn nói như vậy. Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo Sư lại nói thêm:
Con người được sanh ra
Sanh với búa trong miệng,
Người ngu nói điều xấu,
Là tự chém vào mình.
Ai khen người đáng chê,
Ai chê người đáng khen,
Ðều chất chứa bất hạnh,
Do từ miệng tạo thành,
Và chính do bất hạnh,
Nên không được an lạc
Nhỏ thay bất hạnh này,
Chính do cờ bạc sanh,
Khiến do cờ bạc sanh,
Khiến tài sản tiêu hao,
Bất hạnh này lớn hơn,
Không những mất tất cả,
Lại mất cả tự mình.
Là người khởi ác ý,
Ðối với chư Thiện Thệ.
Ai chỉ trích bậc Thánh,
Với lời, với ác ý,
Trải qua trăm ngàn thời,
Với ni-rab-bu-da,
Còn thêm ba mươi sáu,
Với năm a-bu-đa,
Phải sanh vào địa ngục,
Chịu khổ đau tại đấy.
(X) (90) Những Sức Mạnh
1. Bấy giờ có Tôn giả Sàriputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi xuống một bên:
- Này Sàriputta, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, có bao nhiêu sức mạnh? Thành tựu với những sức mạnh ấy, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc tự nhận biết sự đoạn diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc đã được đoạn tận nơi ta"
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, có mười sức mạnh. Thành tựu với những sức mạnh ấy, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc, tự nhận biết sự đoạn diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc đã được đoạn tận nơi ta". Thế nào là mười?
2. Ở đây, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc, đã khéo như thật thấy với chánh trí tuệ, các hành là vô thường. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc. Do sức mạnh này, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc tự nhận biết sự đoạn tận diệt các hoặc: "Các lậu hoặc đã được đoạn tận nơi ta."
3. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc đã khéo thấy như thật với chánh trí tuệ, các dục được ví như hố than hừng. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc. Do sức mạnh này, Tỷ kheo đoạn tận các lậu hoặc tự nhận biết sự đoạn diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc đã được đoạn tận nơi ta."
4. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc, với tâm hướng về viễn ly, thiên về viễn ly, xuôi về viễn ly, trú vào viễn ly, ưa thích xuất ly, chấm dứt hoàn toàn các pháp làm trú xứ cho các lậu hoặc. Bạch Thế Tôn, ... đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc... "... được đoạn tận nơi ta."
5. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc tu tập, khéo tu tập Bốn niệm xứ. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc tu tập, khéo tu tập Bốn niệm xứ. Bạch Thế Tôn đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc... "... đã được đoạn tận nơi ta."
6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc tu tập, khéo tu tập Bốn chánh cần... tu tập, khéo tu tập Bốn như ý túc... tu tập, khéo tu tập Năm căn... tu tập, khéo tu tập Năm lực... tu tập, khéo tu tập Bảy giác chi... tu tập, khéo tu tập Thánh đạo tám ngành. Bạch Thế Tôn, Tỷ kheo đoạn tận các lậu hoặc tu tập, khéo tu tập Thánh đạo tám ngành. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc. Do sức mạnh này, Tỷ kheo đoạn tận các lậu hoặc tự nhận biết sự đoạn diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc được đoạn tận nơi ta."
Bạch Thế Tôn, có mười sức mạnh này của Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc. Thành tựu những lực này, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc nhận biết sự đoạn tận diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc đã được đoạn tận nơi ta".
I. Phẩm Ðáng Ðược Cung Kính
(I) (1) Ðáng Ðược Cung Kính (1)
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthì, Jetavana, tại khu vườn ông
Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
2. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp
tay, là phước điền vô thượng ở đời. Thế nào là sáu?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không có
ưa thích, không có ghét bỏ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác; khi tai nghe
tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc...
khi ý biết pháp, không có ưa thích, không có ghét bỏ, trú xả, chánh
niệm tỉnh giác.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp
tay, là vô thượng phước điền ở đời.
Thế Tôn thuyết như vậy. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín
thọ lời Thế Tôn dạy.
(II) (2) Ðáng Ðược Cung Kính (2)
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là vô thượng phước điền ở đời. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chứng được các loại thần
thông: một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một
thân, hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như
đi ngang hư không, độn thổ trồi lên ngang qua đất liền, như ở trong
nước, đi trên nước không chìm như trên đất liền, ngồi kiết già hay
đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt
trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân
bay đến Phạm thiên.
3. Với thiên nhĩ thuần tịnh siêu nhân, nghe được hai loại tiếng, chư
Thiên và loài Người ở xa và gần.
4. Sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh, của loài Người với tâm của
mình, vị ấy rõ biết như sau: "Tâm có tham, rõ biết là tâm có
tham, hay tâm ly tham... hay tâm có sân... hay tâm ly sân... hay tâm có si... hay
tâm ly si... hay tâm chuyên chú... hay tâm tán loạn... hay đại hành tâm... hay
không phải đại hành tâm... hay tâm chưa vô thượng... hay tâm vô thượng...
hay tâm Thiền định... hay tâm không Thiền định... hay tâm giải
thoát... hay tâm không giải thoát, rõ biết là tâm không giải thoát".
5. Nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời,
bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi
đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm
ngàn đời; nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và
thành kiếp; vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế
này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc
như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết
tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy ta có tên
như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này,
thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này.
Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy vị
ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và
các chi tiết.
6. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết
của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao
sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do
hạnh nghiệp của họ. Các chúng sanh này làm những ác hạnh về thân,
ngữ, ý, phỉ báng các bậc thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo
tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi
dữ, ác thú đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh này làm những
thiện hạnh về thân, ngữ, ý, không phỉ báng các bậc thánh, theo
chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau
khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các cõi thiện, cõi trời, cõi
đời này. Như vậy, vị ấy với Thiên nhãn, thấy sự sống chết của chúng
sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang,
người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh
nghiệp của họ. Do đoạn tận các lậu hoặc, vị ấy ngay trong hiện
tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp
tay, là vô thượng phước điền ở đời.
(III) (3) Các Căn
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là phước điền vô thượng ở đời. Thế nào là sáu?
2. Với tín căn, với tấn căn, với niệm căn, với định căn, với tuệ
căn, do đoạn tận các lậu hoặc, tự mình với thắng trí, ngay trong hiện
tại chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là vô thượng phước điền ở đời.
(IV) (4) Các Lực
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là vô thượng phước điền ở đời. Thế nào là sáu?
2. Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực, do đoạn tận
các lậu hoặc, tự mình với thắng trí, ngay trong hiện tại, chứng ngộ,
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là vô thượng phước điền ở đời.
(V) (5) Con Ngựa Thuần Chủng (1).
1- Thành tựu sáu chi phần, này các Tỷ-kheo, một con ngựa hiền
thiện, thuần chủng của vua, xứng đáng cho vua dùng, là tài sản của vua,
và được xem là một biểu tượng của vua. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện thuần chủng
của vua kham nhẫn các sắc, kham nhẫn các tiếng, kham nhẫn các hương, kham
nhẫn các vị, kham nhẫn các xúc, và đầy đủ dung sắc.
Thành tựu sáu chi phần này, này các Tỷ-kheo, một con ngựa hiền
thiện, thuần chủng của vua, xứng đáng cho vua dùng, là tài sản của vua,
và được xem là một biểu tượng của vua. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
thành tựu sáu pháp, Tỷ-kheo đáng được cúng dường... là ruộng phước
vô thượng ở đời. Thế nào là sáu?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các sắc, kham nhẫn
các tiếng, kham nhẫn các hương, kham nhẫn các vị, kham nhẫn các xúc, kham
nhẫn các pháp.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là ruộng phước vô thượng ở đời.
(VI - VII) (6 - 7) Con Ngựa Thuần Chủng (2)
(Như kinh trên, số 5, chỉ thay đổi "đầy đủ dung sắc", với
"đầy đủ sức mạnh" cho số 6, và với "đầy đủ tốc lực" cho
số 7).
(VIII) (8) Vô Thượng
1. - Có sáu vô thượng này, này các Tỷ-kheo, thế nào là sáu?
2. Kiến vô thượng, văn vô thượng, lợi đắc vô thượng, học vô
thượng, hành vô thượng, tùy niệm vô thượng. Này các Tỷ-kheo, có
sáu vô thượng này.
(IX) (9) Tùy Niệm Xứ
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu tùy niệm xứ này. Thế nào là sáu?
2. Tùy niệm Phật, tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm
Giới, tùy niệm Thí, tùy niệm Thiên.
Này các Tỷ-kheo, có sáu tùy niệm này.
(X) (10) Mahànàma
Một thời, Thế Tôn trú giữa các vị Thích-ca, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigrodha. Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, họ Thích Mahànàma bạch Thế Tôn:
- Vị Thánh đệ tử này, bạch Thế Tôn, đã đi đến quả, đã liễu giải giáo pháp, đời sống gì vị ấy sống một cách sung mãn?
- Này Mahànàma, Thánh đệ tử nào đã đi đến quả, đã liễu giải giáo pháp, với nếp sống này, sống một cách sung mãn.
(1) Ở đây, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Khi nào, này Mahànàma, Thánh đệ tử niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Như Lai. Và này Mahànàma, một Thánh đệ tử, với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Phật".
(2) Lại nữa, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Pháp: "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được những bậc trí tự mình giác hiểu!". Này Mahànama, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm Pháp, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Pháp. Và này Mahànama, Thánh đệ tử với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến Pháp. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này được nói như sau: "Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Pháp".
(3) Lại nữa, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám vị. Chúng đệ tử Thế Tôn này đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời". Này Mahànàma, trong khi Thánh đệ tử tùy niệm chúng Tăng, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Tăng. Và này Mahànama, Thánh đệ tử với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến Tăng. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Tăng".
(4) Lại nữa, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm các Giới của mình: "Giới không bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị vết chấm, không có uế tạp, đưa đến giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định". Này Mahànàma, trong khi Thánh đệ tử tùy niệm Giới, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Giới. Và này Mahànama, Thánh đệ tử với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến Giới. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Giới".
(5) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tự mình niệm Thí của mình: "Thật là được lợi cho ta! Thật là khéo được lợi cho ta, vì rằng với quần chúng bị cấu uế xan tham chi phối, ta sống trong gia đình, với tâm không bị cấu uế của xan tham chi phối, bố thí rộng rãi với bàn tay sạch sẽ, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, ưa thích phân phát vật bố thí". Này Mahànàma, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm bố thí, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Thí. Và này Mahànama, Thánh đệ tử với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến Thí. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Thí".
(6) Lại nữa, này Mahànama, Thánh đệ tử tu tập tùy niệm Thiên: "Có chư Thiên bốn Thiên vương Thiên, có chư Thiên cõi trời Ba mươi ba, có chư Thiên Yàma, có chư Thiên Tusità (Ðâu-suất), có chư Thiên Hóa lạc Thiên, có chư Thiên Tha hóa Tự tại, có chư Thiên Phạm chúng, có chư Thiên cao hơn nữa. Ðầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với giới như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với nghe pháp như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Nghe pháp như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với Thí như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Thí như vậy cũng có đầy đủ ở nơi ta. Ðầy đủ với Tuệ như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng đầy đủ nơi ta". Khi vị ấy niệm Tín, Giới, nghe Pháp, Thí và Tuệ của tự mình và chư Thiên ấy; trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào chư Thiên. Và này Mahànàma, Thánh đệ tử với tâm chánh trực được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Thiên".
Này Mahànàma, vị Thánh đệ tử nào đã đi đến quả, đã liễu giải giáo pháp, vị ấy sống một cách sung mãn với nếp sống này.
II. Phẩm Cần Phải Nhớ
(I) (11) Cần Phải Nhớ (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp cần phải ghi nhớ này. Thế nào là
sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú thân làm từ đối với
các đồng Phạm hạnh, trước mặt lẫn sau lưng. Ðây là pháp cần phải ghi nhớ.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú lời nói từ đối với
các đồng Phạm hạnh, trước mặt lẫn sau lưng. Ðây là pháp cần phải ghi nhớ.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú ý nghĩ từ đối với
các đồng Phạm hạnh, trước mặt lẫn sau lưng. Ðây là pháp cần phải ghi nhớ.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các lợi dưỡng đúng
pháp, nhận được đúng pháp, cho đến những đồ vật nhận được chỉ trong
bình bát, vị ấy không phải là người không san sẻ các đồ vật nhận được
như vậy, phải là người san sẻ dùng chung với các đồng Phạm hạnh có giới
đức. Ðây là pháp cần phải ghi nhớ.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các Giới Luật không
bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị vết chấm, không bị uế
nhiễm, đưa đến giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đi
đến Thiền định, Tỷ-kheo sống thành tựu Giới Luật trong các Giới
Luật ấy đối với các đồng Phạm hạnh trước mặt lẫn sau lưng.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với các tri kiến thuộc bậc Thánh,
có khả năng hướng thượng, khiến người thực hành chơn chánh diệt
tận khổ đau, Tỷ-kheo sống thành tựu tri kiến với các tri kiến như
vậy đối với các đồng Phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng.
Này các Tỷ-kheo, đây là sáu pháp cần phải ghi nhớ.
(II) (12) Cần Phải Nhớ (2)
1. - Có sáu pháp cần phải ghi nhớ này, này các Tỷ-kheo, tạo thành
tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến
không tranh luận, hòa hợp, nhất trí. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú thân làm từ đối với
các vị đồng Phạm hạnh, trước mặt lẫn sau lưng. Ðây là pháp cần phải ghi
nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng,
không tranh luận, hòa hợp, nhất trí.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú lời nói từ... ý
nghĩ từ đối với các vị đồng Phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Ðây
là pháp cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa
đến hòa đồng, không tranh luận, hòa hợp, nhất trí.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đối với các lợi dưỡng
đúng pháp, nhận được đúng pháp, cho đến những đồ vật nhận được
chỉ trong bình bát, vị ấy không phải là người không san sẻ các đồ vật
nhận được như vậy, phải là người san sẻ dùng chung với các vị đồng Phạm
hạnh có giới đức. Ðây là pháp cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo
thành tương kính, đưa đến hòa đồng, không tranh luận, hòa hợp, nhất
trí.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đối với các Giới Luật
không bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị vết chấm, không bị
uế nhiễm, đưa đến giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đi
đến Thiền định, Tỷ-kheo sống thành tựu Giới Luật trong các Giới
Luật ấy đối với các vị đồng Phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau lưng.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các tri kiến thuộc
bậc Thánh, có khả năng hướng thượng, khiến người thực hành chơn chánh
diệt tận khổ đau, Tỷ-kheo sống thành tựu tri kiến với các tri
kiến như vậy đối với các vị đồng Phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau
lưng.
Ðây là sáu pháp cần phải ghi nhớ, này các Tỷ-kheo, tạo thành tương
ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không tranh
luận, hòa hợp, nhất trí.
(III) (13) Xuất Ly Giới
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp xuất ly giới này. Thế nào là
sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nói như sau: "Ta đã tu
từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ,
an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, sân tâm vẫn ngự trị tâm
ta". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có như vậy, Hiền
giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế
Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự
kiện không phải như vậy, trường hợp không phải như vậy. Ai tu tập từ
tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an
trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, sân tâm vẫn ngự trị, an trú;
sự kiện như vậy không xảy ra, này Hiền giả, cái này có khả năng
giải thoát sân tâm, tức là từ tâm giải thoát".
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nói như sau: "Ta
đã tu tập, bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm
thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, hại tâm vẫn
ngự trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có như
vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên
tạc Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này
Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như
vậy. Ai tu tập bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm
thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, hại tâm vẫn
ngự trị, an trú; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này
có khả năng giải thoát hại tâm, tức là bi tâm giải thoát".
4. Này các Tỷ-kheo, ở đây vị Tỷ-kheo nói như sau: "Ta đã tu
tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành
căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, bất lạc tâm vẫn
ngự trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có như
vậy. Hiền giả chớ nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc
Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này
Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như
vậy. Nếu tu tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ
xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, bất
lạc tâm vẫn ngự trị, an trú; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền
giả, cái này có khả năng giải thoát bất lạc tâm, tức là hỷ tâm giải
thoát".
5. Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nói như sau: "Ta đã tu tập
xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ,
an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, tham tâm vẫn ngự trị tâm
ta". Vị ấy cần được nói: "Chớ có như vậy, Hiền giả chớ nói
như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật
không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự kiện
không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập xả tâm
giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú,
chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, tham tâm vẫn ngự trị an trú; sự
kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này có khả năng giải
thoát tham tâm, tức là xả tâm giải thoát".
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nói như sau: "Ta đã tu
tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm
thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, thức của ta
vẫn tùy niệm tướng". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ
có như vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn.
Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như
vậy. Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không
phải như vậy. Nếu tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm
thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần,
thức vẫn sẽ tùy niệm tướng, an trú; sự kiện không xảy ra như vậy.
Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát tất cả tướng, tức là vô
tướng tâm giải thoát".
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nói như sau: "Tôi
đã từ bỏ tư tưởng "Tôi là". Tôi không có tùy quán "Cái này
là tôi", tuy vậy, mũi tên nghi ngờ, do sự xâm chiếm tâm tôi và an
trú". Vị ấy cần được nói như sau: "Chớ có như vậy, Hiền giả
chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn
như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự
kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Với ai đã từ
bỏ tư tưởng "Tôi là", với ai không có tùy quán "Cái này là
tôi", tuy vậy, mũi tên nghi ngờ, do dự xâm chiếm tâm người ấy và an
trú; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này có khả
năng giải thoát mũi tên nghi hoặc do dự, tức là sự nhổ lên kiêu mạn
"Tôi là"".
Này các Tỷ-kheo, đây là sáu pháp xuất ly giới.
(IV) (14) Hiền Thiện
1. Tại đây, Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Hiền giả Tỷ-kheo" - "Thưa Hiền giả".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như
sau:
2. - Này các Hiền giả, vị Tỷ-kheo nếu sống nếp sống như
vậy, như vậy, do sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm chung không
được hiền thiện, khi mệnh chung không được hiền thiện! Và
như thế nào, này các Hiền giả, Tỷ-kheo sống nếp sống như vậy,
như vậy, khi lâm chung không được hiền thiện, khi mệnh chung không
được hiền thiện?
3. Ở đây, này các Hiền giả, Tỷ-kheo ưa công việc, thích
thú công việc, chuyên tâm ưa thích công việc; ưa nói chuyện,
thích thú nói chuyện, chuyên tâm ưa thích nói chuyện; ưa ngủ, thích
thú ngủ, chuyên tâm ưa thích ngủ; ưa hội chúng, thích thú hội chúng, chuyên
tâm ưa thích hội chúng; ưa liên lạc giao thiệp, thích thú liên lạc giao
thiệp, chuyên tâm ưa thích liên lạc giao thiệp; ưa hý luận, thích
thú hý luận, chuyên tâm ưa thích hý luận. Như vậy, này các Hiền
giả, Tỷ-kheo sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm chung không
được hiền thiện, khi mệnh chung không được hiền thiện.
Này các Hiền giả, đây được gọi là Tỷ-kheo ái lạc có thân,
không từ bỏ có thân để chân chánh chấm dứt khổ đau.
4. Này các Hiền giả, Tỷ-kheo nếu sống nếp sống như vậy, như
vậy, do sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm chung được hiền
thiện, khi mệnh chung được hiền thiện. Và như thế nào, này
các Hiền giả, Tỷ-kheo sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm
chung được hiền thiện, khi mạng chung được hiền thiện?
5. Ở đây, này các Hiền giả, Tỷ-kheo không ưa công việc,
không thích thú công việc, không chuyên tâm ưa thích công việc; không
ưa nói chuyện, không thích thú nói chuyện, không chuyên tâm ưa thích
nói chuyện; không ưa ngủ, không thích thú ngủ, không chuyên tâm ưa thích
ngủ; không ưa hội chúng, không thích thú hội chúng, không chuyên tâm ưa
thích hội chúng; không ưa liên lạc giao thiệp, không thích thú liên lạc
giao thiệp, không chuyên tâm ưa thích liên lạc giao thiệp; không ưa
hý luận, không thích thú hý luận, không chuyên tâm ưa thích hý
luận. Như vậy, này các Hiền giả, Tỷ-kheo sống nếp sống như vậy,
như vậy, khi lâm chung được hiền thiện, khi mệnh chung được
hiền thiện. Này các Hiền giả, đây được gọi là Tỷ-kheo
ái lạc Niết-bàn, từ bỏ có thân để chân chánh chấm dứt khổ đau.
Ai chuyên ưa hý luận,
Như thích thú hý luận,
Ði ngược lại Niết-bàn,
Nơi an ổn vô thượng.
Ai từ bỏ hý luận,
Ưa thích không hý luận.
Thuận hướng đến Niết-bàn,
Nơi an ổn vô thượng.
(V) (15) Không Hối Hận
1. Ở nơi đây, Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo:
- Này chư Hiền, Tỷ-kheo nếu sống nếp sống như vậy, như vậy,
do nếp sống như vậy, khi lâm chung có hối hận, khi mệnh chung có hối
hận. Và như thế nào, này các Hiền giả, Tỷ-kheo sống nếp sống
như vậy, như vậy, khi lâm chung có hối hận, khi mệnh chung có hối hận?
2.... (Giống như kinh số 14, chỉ khác là thay thế không hiền
thiện bằng có hối hận, thay thế có hiền thiện bằng không hối
hận)...
(VI) (16) Cha Mẹ Của NakuLa (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Cá Sấu,
rừng Bhesakàla, vườn Lộc Uyển. Lúc bấy giờ, gia chủ, cha của Nakula bị
bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Rồi nữ gia chủ, mẹ của Nakula nói
với cha của Nakula như sau:
2. -Thưa Gia chủ, chớ có mạng chung với tâm còn mong cầu ái luyến. Thưa
Gia chủ, đau khổ là người khi mệnh chung tâm còn mong cầu ái luyến.
Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung còn mong cấu ái luyến. Thưa
Gia chủ, Gia chủ có thể suy nghĩ: "Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta
mệnh chung, không có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa".
Thưa Gia chủ, chớ có nghĩ như vậy! Thưa Gia chủ, tôi khéo léo dệt vải
và chải lông cừu. Thưa Gia chủ, sau khi Gia chủ mệnh chung, tôi có thể
nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa. Do vậy, thưa Gia chủ, chớ có mệnh
chung với tâm còn mong cầu ái luyến! Ðau khổ, này Gia chủ, là người khi
mệnh chung tâm còn mong cầu ái luyến. Thế Tôn quở trách người khi
mệnh chung tâm còn mong cấu ái luyến.
Thưa Gia chủ, Gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ Gia chủ, mẹ của
Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ đi đến một gia đình khác". Thưa
Gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa Gia chủ, Gia chủ cũng đã biết,
trong mười sáu năm chúng ta sống làm người gia chủ, tôi đã sống thực hành
Phạm hạnh như thế nào. Do vậy, thưa Gia chủ, chớ có mệnh chung với
tâm còn mong cầu ái luyến! Ðau khổ, thưa Gia chủ, là người khi mệnh
chung còn mong cầu ái luyến. Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung
còn mong cầu ái luyến.
Thưa Gia chủ, Gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của
Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ không còn muốn yết kiến Thế
Tôn, sẽ không còn muốn yết kiến chúng Tăng". Thưa Gia chủ, chớ
có suy nghĩ như vậy! Sau khi gia chủ mệnh chung, tôi sẽ muốn yết
kiến Thế Tôn nhiều hơn, sẽ muốn yết kiến chúng Tăng
nhiều hơn. Do vậy, thưa Gia chủ, chớ có mệnh chung với tâm còn mong
cầu ái luyến! Ðau khổ, này Gia chủ, là người khi mệnh chung, còn mong
cầu ái luyến. Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung tâm còn mong
cầu ái luyến.
Thưa Gia chủ, Gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của
Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ không giữ giới một cách đầy đủ".
Thưa Gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa Gia chủ, cho đến khi nào, các
nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Thế Tôn còn giữ Giới Luật một
cách đầy đủ, tôi là một trong những người ấy. Nếu ai có nghi ngờ hay
phân vân, hiện nay, Thế Tôn đang ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Cá
Sấu, rừng Bhesakàla, vườn Lộc Uyển, người ấy hãy đi đến Thế
Tôn và hỏi. Do vậy, thưa Gia chủ, chớ có mệnh chung với tâm còn mong cầu
ái luyến! Ðau khổ, thưa Gia chủ, là người khi mệnh chung tâm còn mong
cầu ái luyến. Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung tâm còn mong
cầu ái luyến.
Thưa Gia chủ, Gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của
Nakula không có chứng được nội tâm tịnh chỉ". Thưa Gia chủ, chớ có suy
nghĩ như vậy! Thưa Gia chủ, cho đến khi nào, các nữ đệ tử gia chủ
mặc áo trắng của Thế Tôn còn chứng được nội tâm tịnh chỉ, tôi sẽ là
một trong những vị ấy. Nếu ai có nghi ngờ hay phân vân, hiện nay
Thế Tôn đang ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Cá Sấu, rừng Bhesakàla,
vườn Lộc Uyển, người ấy hãy đi đến Thế Tôn và hỏi. Do vậy,
thưa Gia chủ, chớ có mệnh chung với tâm còn mong cầu ái luyến! Ðau
khổ, thưa Gia chủ, là người khi mệnh chung, tâm còn mong cầu ái luyến.
Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung tâm còn mong cầu ái luyến.
Thưa Gia chủ, Gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của
Nakula, trong Pháp và Luật này không đạt được thể nhập, không đạt
được an trú, không đạt được thoải mái, không vượt khỏi nghi hoặc, không
rời được do dự, không đạt được vô úy, còn phải nhờ người khác sống
trong lời dạy đức Bổn Sư". Thưa Gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa
Gia chủ, cho đến khi nào, các nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của
Thế Tôn, trong Pháp và Luật này đạt được thể nhập, đạt được an
trú, đạt được thoải mái, vượt khỏi nghi hoặc, rời được do dự, đạt
được vô úy, không phải nhờ người khác sống trong lời dạy đức Bổn Sư,
tôi sẽ là một trong những người ấy. Nếu có ai có nghi ngờ hay phân vân,
hiện nay Thế Tôn đang ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Cá Sấu, rừng
Bhesakàla, vườn Lộc Uyển, người ấy hãy đi đến Thế Tôn và hỏi.
Do vậy, thưa Gia chủ, chớ có mệnh chung với tâm còn mong cầu ái luyến!
Ðau khổ, thưa Gia chủ, là người khi mệnh chung, tâm còn mong cầu ái
luyến. Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung tâm còn mong cầu ái
luyến.
3. Rồi cha của Nakula được nữ gia chủ, mẹ của Nakula giáo giới với lời
giáo giới này, bệnh hoạn liền khi ấy được khinh an và gia chủ, cha
của Nakula thoát khỏi bệnh ấy. Ðược đoạn tận như vậy là bệnh ấy
của gia chủ, cha của Nakula. Rồi gia chủ, cha của Nakula được lành bệnh,
sau khi lành bệnh không bao lâu, chống gậy đi đến Thế Tôn; sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với
gia chủ, cha của Nakula đang ngồi xuống một bên:
4. - Thật lợi ích thay cho Ông, này Gia chủ! Thật khéo lợi ích thay cho Ông,
này Gia chủ! Ðược nữ gia chủ, mẹ của Nakula với lòng từ mẫn, vì muốn hạnh
phúc, đã giáo giới, đã khuyên dạy Ông. Cho đến khi nào, này Gia chủ, Ta
còn có những đệ tử gia chủ mặc áo trắng gìn giữ Giới Luật viên mãn,
nữ gia chủ, mẹ của Nakula là một trong những vị ấy. Cho đến khi nào, này
Gia chủ, Ta còn có những đệ tử gia chủ mặc áo trắng chứng được nội
tâm tịnh chỉ, nữ gia chủ, mẹ của Nakula là một trong những vị ấy. Cho
đến khi nào, này Gia chủ, Ta còn có những đệ tử gia chủ mặc áo
trắng, trong Pháp và Luật này đạt được thể nhập, đạt được an trú,
đạt được thoải mái, vượt khỏi nghi hoặc, rời được do dự, đạt được vô
úy, không còn phải nhờ người khác sống trong lời dạy đức Bổn Sư, nữ gia
chủ, mẹ của Nakula là một trong những vị ấy. Thật lợi ích thay cho Ông, này
Gia chủ! Thật khéo lợi ích thay cho Ông, này Gia chủ, được nữ gia chủ, mẹ
của Nakula với lòng từ mẫn, vì muốn hạnh phúc, đã giáo giới, đã khuyên
dạy Ông.
(VII) (17) Cha mẹ Của Nakula (2)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthì, tại Jetavana, khu vườn của ông
Anàthapindika. Rồi Thế Tôn, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng
dậy, đi đến giảng đường; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã
soạn sẵn. Rồi Tôn giả Sàriputta vào buổi chiều, sau khi từ Thiền tịnh
đứng dậy, đi đến giảng đường; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn,
rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Mahàmoggallàna, Tôn giả Mahàkassapa, Tôn giả
Mahàkaccàna, Tôn giả Mahàkotthita, Tôn giả Mahàcunda, Tôn giả Mahàkappina, Tôn
giả Anuruddha, Tôn giả Revata, Tôn giả Ananda vào buổi chiều, từ Thiền
tịnh đứng dậy đi đến giảng đường; sau khi đến, đảnh lễ Thế
Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn, sau khi ngồi như vậy đến
quá phần lớn của đêm, từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tinh xá. Các Tôn
giả ấy, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi
về tinh xá của mình. Nhưng tại đấy, các Tỷ-kheo tân học xuất gia
không bao lâu, đi đến Pháp và Luật này chưa nhiều thời gian, ngáy và
ngủ tại chỗ cho đến sáng. Rồi Thế Tôn với thiên nhãn thanh tịnh
siêu nhân thấy các Tỷ-kheo ấy ngáy và ngủ tại chỗ cho đến sáng,
thấy vậy liền đi đến giảng đường; sau khi đến, ngồi xuống trên
chỗ đã soạn sẵn. Ngồi xuống, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo ấy:
2. - Này các Tỷ-kheo, Sàriputta ở đâu? Mahàmoggallàna ở đâu?
Mahàkassapa ở đâu? Mahàkaccàna ở đâu? Mahàkotthita ở đâu? Mahàcunda ở
đâu? Mahàkappina ở đâu? Anuruddha ở đâu? Revata ở đâu? Ananda ở đâu? Này
các Tỷ-kheo, các đệ tử trưởng lão ấy đã đi đâu?
- Bạch Thế Tôn, các Tôn giả ấy, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu,
đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đi về tinh xá của mình.
- Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy không có các Tỷ-kheo trưởng
lão, các tân học Tỷ-kheo ngáy và ngủ cho đến trời sáng!
Các Thầy nghĩ thế nào? Này các Tỷ-kheo! Các Thầy có thấy và có
nghe như sau: "Một vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh, sống chuyên
tâm hưởng thọ cho đến thỏa thích lạc về giường nằm, lạc về
nằm dài, lạc về ngủ nghỉ, có thể cai trị cả nước cho đến
trọn đời, được quốc dân ái mộ và ưa thích"?
- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau: Này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh, sống
chuyên tâm hưởng thọ cho đến thỏa thích lạc về giường nằm, lạc
về nằm dài, lạc về ngủ nghỉ, có thể cai trị cả nước cho đến
trọn đời, được quốc dân ái mộ và ưa thích.
Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có
nghe như sau: "Người thôn quê sống trên đất trại của người cha, vị
tướng quân trong quân đội, vị thôn trưởng ở làng, vị tổ trưởng các tổ
hợp sống chuyên tâm hưởng thọ cho đến thỏa thích lạc về giường
nằm, lạc về nằm dài, lạc về ngủ nghỉ, có thể trọn đời làm
tổ trưởng các tổ hợp và được các tổ viên ái mộ, ưa thích"?
- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau, này các Tỷ-kheo: Một người thôn quê sống trên đất trại của người
cha, vị tướng quân sống trong quân đội, vị thôn trưởng ở làng, vị tổ
trưởng các tổ hợp sống chuyên tâm hưởng thọ lạc về giường nằm,
lạc về nằm dài, lạc về ngủ nghỉ, có thể trọn đời làm tổ
trưởng các tổ hợp và được các tổ viên ái mộ và ưa thích.
Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có hay có nghe
như sau: "Vị Sa-môn hay Bà-la-môn sống chuyên tâm hưởng thọ cho
đến thỏa thích lạc về giường nằm, lạc về nằm dài, lạc về
ngủ nghỉ, không phòng hộ các căn môn, không tiết độ trong ăn uống,
không chú tâm cảnh giác, không quán các thiện pháp, đầu đêm cuối đêm
không sống chuyên tâm tu tập các pháp giác chi, do đoạn tận các lậu hoặc,
có thể tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú tâm giải
thoát, tuệ giải thoát"?
- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau, này các Tỷ-kheo: Một vị Sa-môn hay Bà-la-môn sống chuyên tâm hưởng
thọ cho đến thỏa thích lạc về giường nằm, lạc về nằm dài,
lạc về ngủ nghỉ, không phòng hộ các căn môn, không tiết độ trong ăn
uống, không chú tâm cảnh giác, không quán các thiện pháp, đầu đêm cuối
đêm không sống chuyên tâm tu tập các pháp giác chi, do đoạn tận các lậu
hoặc, có thể tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú tâm
giải thoát, tuệ giải thoát. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần
phải học tập như sau:
3. Với căn môn được phòng hộ, ăn uống có tiết độ, chú tâm cảnh
giác, quán các thiện pháp, đầu đêm cuối đêm sống chuyên tâm tu
tập các pháp giác chi, do đoạn tận các lậu hoặc, có thể tự mình với
thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải
thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
(VIII) (18) Con Cá
1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại
chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ
nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy
vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới
một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt
cá, giết cá, đang bán cá?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có
nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán
cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe,
cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài
sản lớn hay tài sản chất đống"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do
nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, hay
cưỡi cỗ xe, hay được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa
tài sản lớn hay tài sản chất đống"? Vì sao? Này các Tỷ-kheo, người
đánh cá ấy với ác ý nhìn các con cá bị giết, bị đem đi giết
hại, vì vậy, người ấy không được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, hay cưỡi
cỗ xe, không được thọ hưởng các tài sản, hay không được sống giữa
tài sản lớn và tài sản chất đống.
Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có
nghe như sau: "Một người đồ tể, sau khi giết các con bò, giết
các con bò rồi đi bán; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy được cưỡi voi,
cưỡi ngựa, cưỡi xe, hay cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản,
hay được sống giữa các tài sản lớn hay tài sản chất đống"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau: "Một người đồ tể, sau khi giết bò, giết bò rồi đem bán;
do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, hay
cưỡi cỗ xe, hay được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa
tài sản lớn hay tài sản chất đống"? Vì sao? Người đồ tể giết
bò ấy với ác ý nhìn các con bò bị giết, bị đem đi giết hại, vì
vậy, người ấy không được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, hay cưỡi cỗ
xe, không được thọ hưởng các tài sản, hay không được sống giữa các
tài sản lớn và tài sản chất đống.
Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có
nghe như sau: "Một người giết dê... một người giết heo... một
người giết chim... hay một người giết các loài thú rừng, sau khi
giết các thú rừng, giết các thú rừng rồi đem bán; do nghiệp ấy,
do mạng sống ấy được cưỡi voi... hay được sống giữa các tài sản lớn và
tài sản chất đống"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe... Vì
sao? Người giết các loài thú rừng ấy, với ý nhìn các con thú rừng
bị giết, bị đem đi giết hại; vì vậy người ấy không được cưỡi
voi, không được cưỡi ngựa, không được cưỡi xe, không được cưỡi cỗ
xe, không được thọ hưởng các tài sản, hay không được sống giữa các
tài sản lớn hay tài sản chất đống.
Thật vậy, này các Tỷ-kheo, ai với ác ý nhìn các loài bàng sanh bị
giết, đem đi giết hại; vì vậy, người ấy không được cưỡi voi,
không được cưỡi ngựa, không được cưỡi xe, không được cưỡi cỗ xe,
không được thọ hưởng các tài sản, hay không được sống giữa các tài
sản lớn hay tài sản chất đống. Còn nói gì về người với ác ý nhìn
các loài Người bị giết, bị đem đi giết hại! Thật vậy, này các
Tỷ-kheo, như vậy là bất hạnh, đau khổ lâu dài cho người ấy, sau khi thân
hoại mạng chung sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
(IX) (19) Niệm Chết (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Nàdika, tại Ginjakàvasattha. Tại đấy,
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo" - "Thưa
vâng, bạch Thế Tôn".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Niệm chết, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho
sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, nhập vào bất tử, cứu cánh là bất
tử. Này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy tu tập niệm chết.
3. Ðược nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con có tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng ta sống
ngày và đêm tác ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm
nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
4. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng ta sống
trọn ngày tác ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm
nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
5. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng cho
đến khi nào ta còn ăn đồ ăn khất thực, cho đến khi ấy, ta tác ý
đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều như vậy. Như
vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
6. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng cho
đến khi nào ta còn ăn và nuốt bốn, năm miếng đồ ăn, cho đến khi
ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều
như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
7. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng cho
đến khi nào ta còn ăn một miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác
ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều như vậy.
Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
8. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Cho đến khi
nào, sau khi thở vào, ta thở ra, hay sau khi thở ra, ta thở vào, cho đến khi
ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều
như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
9. Ðược nghe nói vậy, Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo ấy:
- Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau:
"Mong rằng ta sống ngày và đêm, tác ý đến lời dạy của Thế
Tôn. Ta đã làm nhiều như vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này
tu tập niệm chết như sau: "Mong rằng ta sống trọn ngày tác
ý đến lời dạy của Thế Tôn. Ta đã làm nhiều như vậy".
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau: "Mong
rằng cho đến khi nào ta còn ăn đồ ăn khất thực, cho đến khi ấy, ta
tác ý đến lời dạy của Thế Tôn. Ta đã làm nhiều như
vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như
sau: "Mong rằng cho đến khi nào ta còn ăn và nuốt bốn, năm miếng
đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn, ta
đã làm nhiều như vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập
niệm chết như sau: "Mong rằng cho đến khi nào ta còn ăn một
miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ý đến lời dạy của
Thế Tôn, ta đã làm nhiều như vậy". Này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau: "Mong rằng cho đến khi
nào sau khi thở vào, ta thở ra hay sau khi thở ra, ta thở vào, cho đến khi
ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn, ta đã làm nhiều như
vậy". Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy được gọi là những
vị sống không phóng dật, tu tập rất sắc sảo niệm chết để đoạn
diệt các lậu hoặc. Do vậy, này các Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, các
Thầy cần phải tu học như sau:
10. "Hãy sống không phóng dật! Ta sẽ tu tập một cách sắc sảo niệm
chết để đoạn diệt các lậu hoặc".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
(X) (20) Niệm Chết (2)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Nàdika, tại Ginjakàvasatha. Tại đấy,
Thế Tôn dạy các Tỷ-kheo:
2. - Niệm chết, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho
sung mãn thời có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, cứu
cánh là bất tử. Tu tập niệm chết như thế nào, làm cho sung mãn
niệm chết như thế nào thời đưa đến quả lớn, lợi ích lớn,
thể nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi ngày vừa tàn và đêm
vừa an trú, suy tư như sau: "Các nhân duyên đem đến cái chết cho
ta rất nhiều: "Con rắn có thể cắn ta, con bò cạp có thể cắn
ta, hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy
sẽ trở ngại cho ta. Ta có thể vấp ngã và té xuống. Cơm ta ăn có thể
làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể khuấy động ta, đàm có thể
khuấy động ta. Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. Và như vậy
có thể làm ta mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta". Này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy xét như sau: "Nếu ta còn
có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh
chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta". Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi suy xét như vậy, biết được như
sau: "Ta có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta
lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta", thời
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các pháp ác bất
thiện ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần,
nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Ví như,
này các Tỷ-kheo, áo bị cháy hay đầu bị cháy, thời để dập tắt áo
ấy hay đầu ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần,
nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các ác bất thiện
pháp ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ
lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Nếu
Tỷ-kheo ấy, trong khi suy xét, biết được như sau: "Ta có những
pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm
nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta". Này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo ấy cần phải sống hoan hỷ, hân hoan, ngày đêm cần phải học
tập trong các thiện pháp.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi đêm vừa tàn và ngày vừa
an trú, suy tư như sau: "Các nhân duyên đem đến cái chết cho ta
rất nhiều: "Con rắn có thể cắn ta, con bò cạp có thể cắn ta,
hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy sẽ
là chướng ngại cho ta. Ta có thể vấp ngã và té xuống. Cơm ta ăn có
thể làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể khuấy động ta, hay đàm
có thể khuấy động ta. Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. Và
như vậy có thể làm ta mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho
ta". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy xét như sau:
"Nếu ta còn có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận,
nếu ta lỡ mệnh chung trong ngày hôm nay, chúng có thể là chướng
ngại cho ta". Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi suy xét như
vậy, biết được như sau: "Ta có những pháp ác bất thiện chưa
được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung ngày hôm nay, chúng có thể
là chướng ngại cho ta", thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để
đoạn tận các pháp ác bất thiện ấy, cần phải tận lực tác động ước
muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm
và tỉnh giác. Ví như, này các Tỷ-kheo, áo bị cháy hay đầu bị cháy,
thời để dập tắt áo ấy hay đầu ấy, cần phải tận lực tác động ước
muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm
và tỉnh giác. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn
tận các ác bất thiện pháp ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn,
tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và
tỉnh giác. Nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi suy xét, biết được như sau:
"Ta có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ
mệnh chung ngày hôm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta". Này
các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần phải sống hoan hỷ, hân hoan, ngày
đêm cần phải học tập trong các thiện pháp.
Này các Tỷ-kheo, niệm chết, tu tập như vậy, làm cho sung mãn như
vậy thời được quả lớn, được lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, cứu
cánh là bất tử.
III. Phẩm Trên Tất Cả
(I) (21) Tại Sàmagàma
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Sàmagàma, gần hồ
sen. Rồi một Thiên nhân, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng
chói sáng toàn vùng hồ sen, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên nhân ấy bạch
Thế Tôn:
- Có ba pháp này, bạch Thế Tôn, đưa đến Tỷ-kheo thối đọa.
Thế nào là ba? Ưa thích công việc, ưa thích nói chuyện, ưa thích
ngủ nghỉ. Ba pháp này, bạch Thế Tôn, đưa đến Tỷ-kheo thối
đọa.
Vị Thiên nhân ấy nói như vậy. Bậc Ðạo Sư chấp nhận. Vị Thiên nhân ấy,
với ý nghĩ: "Bậc Ðạo Sư đã chấp nhận ta", đảnh lễ Thế
Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ.
2. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã mãn, gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, đêm nay, một Thiên nhân, sau khi đêm đã gần mãn,
với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng hồ sen, đi đến Ta; sau khi
đến, vị ấy đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên nhân ấy
nói với Ta: "Bạch Thế Tôn, có ba pháp này, bạch Thế Tôn, đưa
đến Tỷ-kheo thối đọa. Thế nào là ba? Ưa thích công việc,
ưa thích nói chuyện, ưa thích ngủ nghỉ. Ba pháp này, bạch Thế Tôn,
đưa đến Tỷ-kheo thối đọa". Này các Tỷ-kheo, Thiên nhân
ấy nói như vậy. Nói như vậy xong, vị ấy đảnh lễ Ta, thân bên hữu hướng
về Ta rồi biến mất tại chỗ. Này các Tỷ-kheo, thật không được
gì cho các Thầy, thật không khéo được gì cho các Thầy, vì rằng các Thiên
nhân ấy biết được các pháp dắt dẫn các Thầy thối đọa trong các
thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng ba pháp khác đưa đến
thối đọa, hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
3. - Này các Tỷ-kheo, thế nào là ba pháp đưa đến thối
đọa? Ưa hội chúng, ác ngôn, ác bạn hữu. Ba pháp này, này các
Tỷ-kheo đưa đến thối đọa.
4. Này các Tỷ-kheo, những ai trong quá khứ đã thối đọa trong các
thiện pháp, tất cả đều vì sáu pháp này, sẽ bị thối đọa trong
các thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, những ai trong tương lai sẽ bị thối
đọa trong các thiện pháp, tất cả đều vì sáu pháp này, sẽ bị
thối đọa trong các thiện pháp. Này các Tỷ kheo, những ai trong
hiện tại bị thối đọa trong các thiện pháp, tất cả đều vì
sáu pháp này, bị thối đọa trong các thiện pháp.
(II) (22) Không Thối Ðọa
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp không thối đọa này, Ta sẽ
thuyết, hãy lắng nghe.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sáu pháp không thối đọa?
Không ưa công việc, không ưa nói chuyện, không ưa ngủ nghỉ, không
ưa hội chúng, thiện ngôn, thiện bạn hữu.
Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp không thối đọa này.
3. Này các Tỷ-kheo, những ai trong thời quá khứ không bị thối đọa,
trong các thiện pháp, tất cả đều nhờ sáu pháp này, không bị thối
đọa trong các thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, những ai trong thời vị
lai sẽ không bị thối đọa trong các thiện pháp, tất cả đều nhờ
sáu pháp này, sẽ không bị thối đọa trong các thiện pháp. Này các
Tỷ-kheo, những ai trong thời hiện tại không bị thối đọa trong các
thiện pháp, tất cả đều nhờ sáu pháp này, không bị thối đọa
trong các thiện pháp.
(III) (23) Sợ Hãi
1. - Sợ hãi, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Khổ, này
các Tỷ-kheo, là đồng nghiệp với các dục. Bệnh, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Cục bướu, này các Tỷ-kheo, là
đồng nghĩa với các dục. Tham dính, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với
các dục. Bùn lầy, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục.
2. Và này các Tỷ-kheo, vì sao sợ hãi là đồng nghĩa với các dục?
Này các Tỷ-kheo, say đắm bởi tham dục, bị trói buộc bởi các tham ước
muốn, ngay trong hiện tại không thoát khỏi sợ hãi, đời sau cũng không
thoát khỏi sợ hãi. Do vậy, sợ hãi là đồng nghĩa với các dục.
3. Này các Tỷ-kheo, vì sao khổ... bệnh... cục bướu... tham dính...
bùn lầy là đồng nghĩa với các dục?
Này các Tỷ-kheo, say đắm bởi tham dục, bị trói buộc bởi tham dục, ngay
trong hiện tại không thoát khỏi bùn lầy, đời sau cũng không thoát khỏi
bùn lầy. Do vậy bùn lầy là đồng nghĩa với các dục.
Sợ hãi và khổ đau,
Bệnh hoạn và cục bướu,
Cả hai tham dính bùn,
Ðược gọi là các dục,
Tại đấy kẻ phàm phu,
Tham đắm và chấp trước,
Thấy sợ trong chấp thủ,
Nguồn gốc của tử sanh,
Không chấp thủ, giải thoát,
Ðoạn tận được sanh tử,
Chúng đạt được an ổn,
Ðược hiện tại tịnh lạc,
Vượt sợ hãi oán thù,
Mọi đau khổ vượt qua.
(IV) (24) Núi Tuyết Sơn
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể phá vỡ
vua núi Tuyết sơn, còn nói gì vô minh hạ liệt. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thiện xảo nhập được
Thiền định, thiện xảo trú được Thiền định, thiện xảo xuất
khỏi Thiền định, thiện xảo trong sự an lạc Thiền định, thiện
xảo trong cảnh giới Thiền định, thiện xảo trong sự dẫn khởi đến
Thiền định.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể phá vỡ
vua núi Tuyết sơn, còn nói gì vô minh hạ liệt.
(V) (25) Tùy Niệm Xứ
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu Tùy niệm xứ này. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai:
"Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn". Khi nào,
này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm
không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối,
trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham. Tham,
này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với năm dục trương dưỡng. Do lấy cái
này làm đối tượng, này các Tỷ-kheo, ở đây một số các loài hữu tình
được thanh tịnh.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Pháp:
"Pháp được Thế Tôn khéo thuyết... được người trí tự mình
giác hiểu". Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử tùy
niệm Pháp, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi
phối, tâm không bị si chi phối, trong khi ấy, tâm được chánh trực... các
loài hữu tình được thanh tịnh.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử niệm Tăng:
"Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn... là ruộng phước vô
thượng ở đời". Khi nào, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử niệm
Tăng... các loài hữu tình được thanh tịnh.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm giới:
"Giới không bị bể vụn... đưa đến Thiền định". Khi nào,
này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử tùy niệm giới, trong khi ấy tâm
không bị tham chi phối... các loài hữu tình được thanh tịnh.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tự mình tùy niệm thí
của mình: "Thật là được lợi cho ta! Thật là khéo được lợi cho ta...
trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối... các loài hữu tình được thanh
tịnh".
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Thiên:
"Có bốn Thiên vương, có chư Thiên cõi Trời Ba mươi ba, có chư Thiên
Yàma, có chư Thiên Tusità (Ðâu-suất), có chư Thiên Hóa Lạc Thiên, có chư
Thiên Tha hóa Tự tại, có chư Thiên Phạm chúng, có chư Thiên cao hơn nữa.
Ðầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này,
được sanh tại chỗ kia. Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ ở nơi ta. Ðầy
đủ với giới, với nghe pháp, với thí, với tuệ như vậy, chư Thiên ấy, sau
khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng
có đầy đủ ở nơi ta". Khi vị ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí và
tuệ của tự mình và chư Thiên ấy, trong khi ấy, tâm không bị tham chi
phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, trong khi ấy, tâm
vị ấy được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham. Tham, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng. Do lấy cái này làm
đối tượng, này các Tỷ-kheo, ở đây, một số các loài hữu tình được
thanh tịnh.
Này các Tỷ-kheo, đây là sau Tùy niệm xứ.
(VI) (26) Kaccàna
1. Tại đấy, Tôn giả Mahàkaccàna gọi các Tỷ-kheo:
- Chư Hiền giả Tỷ-kheo!
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahàkaccàna. Tôn giả Mahàkaccàna
nói như sau:
2. - Thật vi diệu thay, chư Hiền giả! Thật hy hữu thay, chư Hiền
giả! Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác, đã chứng ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói buộc, nhờ vậy,
các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu,
đạt được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là sáu Tùy niệm
xứ. Thế nào là sáu?
3. Ở đây, này các Hiền giả, Thánh đệ tử niệm Như Lai:
"Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn". Này chư
Hiền, trong khi Thánh đệ tử niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không
bị tham chi phối, tâm không bị sân hận chi phối, tâm không bị si chi phối,
trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham. Tham,
này chư Hiền, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng. Thánh đệ
tử ấy, này chư Hiền, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư
không, rộng lớn quảng đại, vô lượng, không hận, không sân. Này chư
Hiền, lấy cái này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu tình được
thanh tịnh.
4. Lại nữa, này chư Hiền, vị Thánh đệ tử niệm Pháp: "Pháp
được Thế Tôn khéo thuyết... được các người có trí tự mình giác
hiểu". Này chư Hiền, trong khi Thánh đệ tử niệm Pháp, trong
khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị
sân chi phối, tâm không bị si phối, trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra
khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham. Tham, này chư Hiền, là đồng nghĩa với
năm dục trưởng dưỡng. Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm
đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không
sân. Này chư Hiền, lấy cái này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu
tình được thanh tịnh.
5-8. Lại nữa, này chư Hiền, vị Thánh đệ tử niệm Tăng:
"Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn... là ruộng phước vô
thượng ở đời... niệm các giới... niệm thí... niệm chư
Thiên..." Thánh đệ tử, này chư Hiền, trong khi niệm chư Thiên,
trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không
bị si chi phối, trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất
khỏi tham. Tham, này chư Hiền, là đồng nghĩa với các dục trưởng dưỡng.
Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư
không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân. Này chư
Hiền, lấy tư tưởng này làm đối tượng, ở đây, một số loài hữu tình
được thanh tịnh.
Thật vi diệu thay, này chư Hiền! Thật hy hữu thay, này chư Hiền,
Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác,
đã chứng ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói buộc, nhờ vậy các
loài hữu tình được thanh tịnh vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt
được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là sáu Tùy niệm xứ.
(VII) (27) Các Thời Gian (1)
1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn:
- Có bao nhiêu thời gian để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã
được tu tập về ý?
2. - Có sáu thời gian, này Tỷ-kheo, để đi đến yết kiến
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý. Thế nào là sáu?
3. Ở đây, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị dục
tham chi phối, bị dục tham ám ảnh, vị ấy không như thật rõ biết dục tham
đang khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến Tỷ-kheo đã được tu tập
về ý, vị ấy cần được nói như sau: "Thưa Hiền giả, tôi sống
với tâm bị dục tham chi phối, bị dục tham ám ảnh, tôi không như thật rõ
biết xuất ly khỏi dục tham. Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho
tôi để đoạn tận dục tham". Và Tỷ-kheo đã được tu tập về
ý thuyết pháp để đoạn tham. Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ
nhất để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về
ý.
4. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị sân chi
phối, bị sân ám ảnh, không như thật rõ biết xuất ly khỏi sân được
khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến Tỷ-kheo đã được tu tập về
ý, vị ấy cần được nói như sau: "Thưa Hiền giả, tôi sống với
tâm bị dục sân chi phối, bị dục sân ám ảnh, tôi không như thật rõ biết
xuất ly khỏi sân. Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để
đoạn tận sân". Và Tỷ-kheo đã được tu tập về ý thuyết
pháp để đoạn sân. Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ hai để đi
đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
5-7. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị hôn
trầm thụy miên chi phối, bị hôn trầm thụy miên ám ảnh... bị trạo hối chi
phối, bị trạo hối ám ảnh... bị nghi chi phối, bị nghi ám ảnh, không như thật
rõ biết xuất ly khỏi nghi được khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến,
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý, vị ấy cần được nói như sau:
"Thưa Hiền giả, tôi sống với tâm bị nghi chi phối, bị tâm bị nghi ám
ảnh. Tôi không như thật rõ biết xuất ly khỏi nghi. Lành thay, nếu Tôn
giả thuyết pháp cho tôi để đoạn tận nghi". Và Tỷ-kheo đã
được tu tập về ý thuyết pháp để đoạn tận nghi. Này
Tỷ-kheo, đây là thời thứ năm để đi đến yết kiến
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
8. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo y cứ nơi tướng nào, do
tác ý tướng ấy, các lậu hoặc được đoạn diệt, không có gián
đoạn, vị ấy không biết, không thấy tướng ấy, trong khi ấy, sau khi đi
đến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý, vị ấy cần được nói như
sau: "Thưa Hiền giả, y cứ nơi tướng nào, do tác ý tướng ấy các
lậu hoặc được đoạn diệt, không có gián đoạn, tôi không biết không
thấy tướng ấy. Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để
đoạn diệt các lậu hoặc". Và Tỷ-kheo đã được tu tập về
ý thuyết pháp để đoạn diệt các lậu hoặc. Này Tỷ-kheo,
đây là thời thứ sáu để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã
được tu tập về ý.
Ðây là sái thời gian, mày Tỷ-kheo, để đi đến yết kiến
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
(VIII) (28) Các Thời Gian (2)
1. Một thời, rất nhiều Tỷ-kheo trú tại Bàrànasi, chỗ chư Thiên
đọa xứ, vườn Lộc Uyển. Sau khi ăn xong, trên con đường đi khất thực
trở về, các vị Tỷ-kheo ngồi tụ họp lại trong căn nhà hình tròn,
và câu chuyện sau đây được khởi lên:
- Này chư Hiền, thời giờ nào để đi đến yết kiến vị
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý?
2. Ðược nói vậy, một Tỷ-kheo bạch với các Tỷ-kheo trưởng lão:
- Thưa chư Hiền, khi nào vị Tỷ-kheo đã được tu tập về ý,
sau buổi ăn trưa, trên con đường khất thực trở về, sau khi rửa chân, đã
ngồi xuống, kiết-già, lưng thẳng, an trú niệm trước mặt, đấy là
thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về
ý.
3. Ðược nói vậy, một Tỷ-kheo khác nói với Tỷ-kheo ấy:
- Thưa Hiền giả, đây không phải thời để đi đến yết
kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý. Này Hiền giả, trong khi
Tỷ-kheo được tu tập về ý, sau bữa ăn, trên con đường khất thực
trở về, sau khi rửa chân, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm
trước mặt, bị mệt mỏi vì đi bộ, trong khi ấy, không cảm thấy khinh an,
bị mệt mỏi vì ăn uống, trong khi ấy, không cảm thấy khinh an. Do vậy,
không phải thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo được tu tập
về ý. Này Hiền giả, trong khi Tỷ-kheo được tu tập về
ý, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, dưới bóng của tịnh
xá, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt, thời ấy chính
là thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập
về ý.
4. Ðược nói vậy, một Tỷ-kheo khác nói với vị Tỷ-kheo ấy:
- Thời ấy không phải thời để đi yết kiến Tỷ-kheo đã
được tu tập về ý. Thưa Hiền giả, trong khi Tỷ-kheo được tu
tập về ý, vào buổi chiều từ Thiền tịnh đứng dậy, dưới bóng
ngôi tịnh xá, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt,
định tướng gì vị ấy tác ý ban ngày, định tướng ấy trong khi ấy được
hiện hành. Do vậy, đây không phải là thời để đi yết kiến
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý. Này Hiền giả, Tỷ-kheo
được tu tập về ý, sau khi đêm vừa mãn, mới thức dậy, ngồi
kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Khi ấy là thời để
đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
5. Ðược nói vậy, một Tỷ-kheo khác nói với Tỷ-kheo ấy:
- Khi ấy không phải thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo
được tu tập về ý. Này Hiền giả, trong khi Tỷ-kheo được tu
tập về ý, sau khi đêm đã mãn, thức dậy, ngồi kiết-già, lưng
thẳng, để niệm trước mặt, trong khi ấy, thân thể đầy nhựa sống,
vị ấy cảm giác thoải mái, tác ý đến lời dạy của các đức Phật. Do
vậy, khi ấy không phải là thời để yết kiến Tỷ-kheo được tu
tập về ý.
6. Ðược nói vậy, Tôn giả Mahà Kaccàna nói với các Tỷ-kheo trưởng
lão ấy:
- Thưa các Hiền giả, tôi tự thân nghe từ Thế Tôn, tự thân lãnh
thọ như sau: Có sáu thời này, Tỷ-kheo nên đi đến yết kiến
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý. Thế nào là sáu?
7-8. Mahà Kaccàna (lặp lại kinh 27 ở trên).
- Thưa chư Hiền, chính tôi tự thân nghe từ Thế Tôn, tự thân lãnh
thọ như sau: Có sáu thời này, Tỷ-kheo cần đi đến yết kiến
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
(IX) (29) Udàyi
1. Rồi Thế Tôn gọi Tôn giả Udàyi:
- Này Udàyi, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?
Ðược nói vậy, Tôn giả Udàyi giữ im lặng. Lần thứ hai, Thế Tôn bảo
Tôn giả Udàyi:
- Có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?
Lần thứ hai, Tôn giả Udàyi giữ im lặng. Lần thứ ba, Thế Tôn bảo Tôn
giả Udàyi:
- Có bao nhiêu chỗ để tùy niệm? Lần thứ ba, Tôn giả Udàyi giữ
im lặng. Rồi Tôn giả Ananda nói với Tôn giả Udàyi:
- Này Hiền giả Udàyi, Thế Tôn gọi Hiền giả!
- Thưa Hiền giả Ananda, tôi có nghe Thế Tôn gọi. Bạch Thế
Tôn, khi Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời trước ở quá khứ như một
đời, hai đời... vị ấy nhớ nhiều đời trước với các nét đại cương và
các chi tiết. Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm.
Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:
- Ta đã biết, này Ananda, kẻ ngu Udàyi này không sống chuyên tâm vào
tăng thượng tâm. Này Ananda, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?
- Bạch Thế Tôn, có năm chỗ để tùy niệm. Thế nào là
năm?
2. Ở đây, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện...
chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Bạch Thế Tôn, đây là chỗ
để tùy niệm, như vậy tu tập, như vậy làm cho sung mãn, đưa đến
hiện tại lạc trú.
3. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo tác ý với tưởng ánh sáng,
trú vào tưởng ban ngày. Ngày như thế nào thời đêm như vậy. Ðêm như
thế nào thời ngày như vậy. Như vậy, với tâm rộng mở, không có hạn
chế, vị ấy tu tập tâm với ánh sáng, chiếu sáng. Bạch Thế Tôn,
đây là chỗ để tùy niệm, tu tập như vậy, làm cho sung mãn, đưa
đến chứng đắc tri kiến.
4. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo quán sát thân này từ bàn chân
trở lên trên, từ đảnh tóc trở xuống, được da bọc và chứa đầy những
vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da,
thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột,
màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mũ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da,
nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu. Bạch Thế
Tôn, đây là chỗ để tùy niệm, tu tập như vậy, làm sung mãn như
vậy, đưa đến đoạn tận tham dục.
5. Lại nữa, bạch Thế Tôn, ví như vị Tỷ-kheo thấy một thi
thể quăng bỏ trong nghĩa địa, một ngày hay hai ngày, ba ngày, thi thể
ấy trương phồng lên, xanh ứ lại, thối ra mủ chảy. Tỷ-kheo ấy đem so sánh
với thân này như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như
vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy". Ví như vị ấy thấy một thi thể
quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loại quạ ăn; hay bị các loài diều hâu
ăn; hay bị các chim kên ăn; hay bị các loài chó ăn; hay bị các loài dã can
ăn; hay bị các loài côn trùng ăn. Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này
như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không
vượt khỏi tánh chất ấy". Ví như vị ấy thấy một thi thể quăng bỏ
trong nghĩa địa, với các xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và
máu, còn được các đường gân cột lại; với các bộ xương còn liên kết
với nhau, không còn dính thịt, nhưng còn dính máu, còn được các đường
gân cột lại; với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn thịt và
máu, còn được các đường gân cột lại; chỉ còn xương không dính lại với
nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây, là xương tay, ở đây là
xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là
xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là đầu. Tỷ-kheo ấy đem so
sánh với thân này như sau: "Thân này bản chất là như vậy, bản tánh là
như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy". Hay ví như vị ấy thấy một thi
thể quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng màu vỏ ốc, chỉ
còn một đống xương lâu hơn một năm, chỉ còn là xương thối trở thành
bột. Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau:: "Thân này bản
chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".
Ðây là chỗ để tùy niệm, bạch Thế Tôn, được tu tập như
vậy, được làm cho sung mãn như vậy, đưa đến nhổ tận gốc kiêu mạn
"Tôi là".
6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo bỏ lạc, bỏ khổ... chứng đạt và
an trú Thiền thứ tư. Ðây là chỗ để tùy niệm, bạch Thế
Tôn, được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, đưa đến sự
thể nhập hoàn toàn các giới sai khác nhau.
Bạch Thế Tôn, đây là năm chỗ để tùy niệm.
- Lành thay, lành thay, này Ananda! Ðây là chỗ tùy niệm thứ sáu,
hãy thọ trì ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo chánh niệm đi ra, chánh
niệm đi vào, chánh niệm ngồi, chánh niệm nằm, chánh niệm trong
khi làm việc. Này Ananda, đây là chỗ để tùy niệm, như vậy tu
tập, như vậy làm cho sung mãn, được đưa đến chánh niệm tỉnh giác.
(X) (30) Trên Tất Cả
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp vô thượng này. Thế nào là sáu?
2. Thấy vô thượng, nghe vô thượng, lợi đắc vô thượng, học tập vô
thượng, phục vụ vô thượng, tùy niệm vô thượng. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là thấy vô thượng?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người đi xem voi báu, đi xem ngựa
báu, đi xem châu báu, hay đi xem các vật lớn nhỏ, hay đi xem Sa-môn, hay
Bà-la-môn có tà kiến, có tà hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây có phải là
thấy không? Ta nói rằng: Ðây là không thấy". Sự thấy ấy, này các
Tỷ-kheo, là hạ liệt, là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh,
không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham,
đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các
Tỷ-kheo, ai đi yết kiến Thế Tôn hay đệ tử Thế Tôn, với
lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín, thời này các
Tỷ-kheo, đây là thấy vô thượng, đưa đến thanh tịnh cho các loài
chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng
ngộ Niết-bàn, tức là đi yết kiến Như Lai hay đệ tử Như Lai,
với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là thấy vô thượng, đây là thấy vô thượng. Còn
nghe vô thượng là gì?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người đi nghe tiếng trống, đi
nghe tiếng sáo, đi nghe tiếng ca, hay đi nghe tiếng cao thấp khác
nhau, hay đi nghe pháp các Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này
các Tỷ-kheo, đây có phải là nghe không? Ta nói rằng: "Ðây là không
nghe". Sự nghe ấy, này các Tỷ-kheo, là hạ liệt, là hèn hạ, là
phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không liên hệ đến mục đích, không
đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ,
Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai đi đến để nghe pháp của Như Lai hay của
đệ tử Như Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng
thuần tín, thời này các Tỷ-kheo, đây là sự nghe vô thượng, đưa
đến thanh tịnh cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu,
đạt được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là đi nghe pháp của
Như Lai hay của đệ tử Như Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an
trú, nhứt hướng thuần tín. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghe vô
thượng, đây là thấy vô thượng, nghe vô thượng. Còn lợi đắc vô thượng
là gì?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người được con, được vợ, được
tài sản, được các vật cao thấp khác nhau, được lòng tin vào các Sa-môn hay
Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây có lợi đắc hay
không? Ta nói rằng: "Ðây là không lợi đắc". Lợi đắc ấy, này các
Tỷ-kheo, là hạ liệt, là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh,
không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham,
đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các
Tỷ-kheo, ai được lòng tin vào Như Lai hay của đệ tử Như Lai, với
lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín, thời này các
Tỷ-kheo, đây là đắc lợi vô thượng, đưa đến thanh tịnh cho các
loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý,
chứng ngộ Niết-bàn, tức là được lòng tin vào Như Lai hay của đệ tử
Như Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đắc lợi vô thượng, đây là thấy vô
thượng, nghe vô thượng, đắc lợi vô thượng. Còn học tập vô thượng là
gì?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người học tập về voi,
học tập về ngựa, học tập về xe, học tập về cung pháp,
học tập về kiếm pháp, học tập về các nghề cao thấp sai
biệt hay học tập theo các Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà
hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây là có học tập hay không? Ta nói rằng:
"Ðây là không học tập". Học tập ấy, này các Tỷ-kheo, là
hạ liệt, là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không liên
hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn
diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai
học tập Tăng thượng giới, học tập tăng thượng định, học tập
tăng thượng tuệ trong Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết, với lòng
tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín, này các
Tỷ-kheo, đây là học tập vô thượng, đưa đến thanh tịnh cho các
loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý,
chứng ngộ Niết-bàn, tức là học tập Tăng thượng giới, học tập
tăng thượng định, học tập tăng thượng tuệ trong Pháp và Luật do Như
Lai tuyên thuyết, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng
thuần tín. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là học tập vô thượng, đây
là thấy vô thượng, nghe vô thượng, lợi đắc vô thượng, học tập vô
thượng. Còn phục vụ vô thượng là như thế nào?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người phục vụ Sát-đế-ly, phục
vụ Bà-la-môn, phục vụ gia chủ, phục vụ các người cao thấp sai biệt hay
phục vụ Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này các Tỷ-kheo,
đây là có phục vụ hay không? Ta nói rằng: "Ðây là không phục vụ".
Phục vụ ấy, này các Tỷ-kheo, là hạ liệt, là hèn hạ, là phàm phu,
không xứng Thánh hạnh, không liên hệ đến mục đích, không đưa
đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ,
Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai phục vụ Như Lai hay đệ tử Như Lai,
với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín, này các
Tỷ-kheo, đây là phục vụ vô thượng, đưa đến thanh tịnh cho các loài
chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng
ngộ Niết-bàn, tức là phục vụ Như Lai hay đệ tự Như Lai, với lòng tin
an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là phục vụ vô thượng, đây là thấy vô thượng, nghe vô
thượng, lợi đắc vô thượng, học tập vô thượng, phục vụ vô thượng. Và
thế nào là tùy niệm vô thượng?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tùy niệm được con, tùy
niệm được vợ, tùy niệm được tài sản, tùy niệm được cao thấp
sai biệt hay phục vụ Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này
các Tỷ-kheo, đây là có tùy niệm hay không? Ta nói rằng: "Ðây là
không tùy niệm". Tùy niệm ấy, này các Tỷ-kheo, là hạ
liệt, là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không liên hệ
đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an
tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai tùy niệm
Như Lai hay đệ tử Như Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú,
nhứt hướng thuần tín, này các Tỷ-kheo, tùy niệm ấy là vô thượng,
đưa đến thanh tịnh cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt
khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là tùy
niệm Như Lai hay đệ tử Như Lai, với lòng tin được an trú, với lòng
ái mộ được an trú, nhứt hướng thuần tín. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là tùy niệm vô thượng.
Này các Tỷ-kheo, có sáu tùy niệm này:
Ai được thấy tối thắng,
Và được nghe vô thượng,
Ðược lợi đắc vô thượng,
Vui học tập vô thượng,
An trú trong phục vụ,
Tu tập chuyên tùy niệm,
Liên hệ đến viễn ly,
Ðạt an ổn, bất tử,
Hoan hỷ, không phóng dật,
Thận trọng, hộ trì giới,
Khi thời đã chín muồi
Ðau khổ được đoạn tận.