Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 3: Chủ Yếu, Bố Cục Và Nội Dung

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8874)
Chương 3: Chủ Yếu, Bố Cục Và Nội Dung

KINH PHÁP HOA TINH YẾU
Bhikkhu Thích Thái Hòa

Chương III:
Chủ Yếu, Bố Cục Và Nội Dung

Chủ yếu, bố cục và nội dung kinh Pháp Hoa, có rất nhiều nhà Phật học Pháp Hoa đã phân tích và toát yếu.

Tuy nhiên, ở đây tôi xin giới thiệu tổng quát như sau:

1. Giáo lý chủ yếu:

Kinh Pháp Hoa có ba chủ ý chính:

1.1 Tuyên bố hết thảy chúng sanh đều có Phật tính và đều có khả năng thành Phật, dù chúng sanh đó phạm vào các tội cực ác, nhưng Phật tính cũng không mất, hễ có điều kiện thì họ cũng sẽ thành Phật như thường.

1.2 Tuyên bố pháp Nhất Thừacon đường duy nhất để thành tựu Phật quả. Và chư Phật xuất thế là chỉ vì mục đích này, ngoài mục đích này không có mục đích nào khác.

1.3 Tuyên bố pháp Tam Thừaphương tiện cho bước đầu giáo hóa. Phật thừa mới là chủ đích hoằng pháp của Phật.

2. Bố cục:

Hiện ở Đại Chính Tân Tu, ta có ba bản dịch Pháp Hoa:

2.1 Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, do Ngài La Thập dịch, gồm có 28 phẩm, 7 cuốn.

Nhưng, nguyên bản dịch của Ngài La Thập 406 T.L, chỉ có 27 phẩm.

Năm 475 T.L, Pháp Hiển du hành Ấn Độ, đến Khotan, ông tìm thấy phẩm Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) bằng Phạn văn và ông đem bản Phạn văn này về nhờ Pháp Ý người Ấn phiên dịch sang Hán, và sau đó bổ sung vào bản Pháp Hoa nguyên dịch của Ngài La Thập, khiến bản dịch này có đủ 28 phẩm như hiện nay.

Lại nữa, ở phẩm Phổ Môn, bản dịch của Ngài La Thập do thế hệ sau bổ sung phần thi kệ.

Và như vậy, Pháp Hoa 28 phẩm, được những thế hệ sau bổ sung đầy đủ được xem là định bản và phần nhiều các nhà Phật học Pháp Hoa căn cứ vào định bản này để chú giảiphổ biến.

2.2 Chánh Pháp Hoa kinh, do Ngài Trúc Pháp Hộ dịch, 286 T.L, gồm có 10 cuốn, 27 phẩm. Trong đó không có phẩm Đề Bà Đạt Đa và cũng không có phần thi kệ của phẩm Phổ Môn.

2.3 Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, do Ngài Xà Na Quật Đa và Cấp Đa dịch, 601 T.L, gồm có 7 cuốn, 27 phẩm.

Trong đó, không có phẩm Đề Bà Đạt Đa, nhưng phẩm Phổ Môn có phần kệ tụng.

Lại nói thêm, Phạn văn bằng Devanagari hiện có ở Buddhist Sanskrit Texts No 6, cũng không có phẩm Đề Bà Đạt Đa, nhưng phẩm Phổ Môn có phần thi kệ và chỉ có 27 phẩm.

Ngài Trí Khải (538-597) -Tổ sư Thiên Thai Tông Trung Hoa, đã căn cứ Pháp Hoa 28 phẩm của Ngài La Thập để chia bố cục kinh Pháp Hoa có hai phần: tích môn và bản môn.

*Tích môn là khía cạnh, dấu tích, khía cạnh lịch sử.

Mười bốn phẩm đầu nói về tích môn hay nói về mặt lịch sử.

Bố cục trong phần Tích môn lại có ba:

*Tự phần: phẩm Tựa.

*Chánh tông phần: Từ phẩm Phương Tiện đến một phần hai phẩm Pháp Sư.

*Lưu thông phần: Từ nửa phẩm Pháp Sư còn lại đến phẩm An Lạc, tức là phẩm thứ 14.

*Phần Tích môn, phẩm Phương Tiện là chủ yếu.

*Bản môn là khía cạnh bản thể, khía cạnh siêu lịch sử:

Mười bốn phẩm sau nói về bản môn.

Mười bốn phẩm sau là nói về báo thân viên mãn của Phật Thích Ca.

Bố cục bản môn cũng có ba phần:

*Tự phần: Nửa phần đầu của phẩm Tùng Địa Dõng Xuất là tựa phần thuộc bản môn.

*Chánh tông phần: Từ nửa phần sau của phẩm Tùng Địa Dõng Xuất đến nửa phần đầu của phẩm Phân Biệt Công Đức là chánh phần thuộc bản môn.

*Lưu thông phần: Từ nửa phần sau của phẩm Phân Biệt Công Đức cho đến phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát là phần nói về công đức lưu thông.

Phẩm Như Lai Thần Lực và phẩm Chúc Lụy là nói về Pháp lưu thông.

Các phẩm còn lại là nói về hạnh nguyện lưu thông.

Trong bản môn, phẩm Như Lai Thọ Lượng là chủ yếu.

Ngoài hai bố cục ấy, có vị đề nghị thêm phần hạnh môn Pháp Hoa.1 Nghĩa là bố cục kinh Pháp Hoa có ba phần gồm: tích môn, bản môn và hạnh môn.

Ngoài những phân chia bố cục kinh Pháp Hoa ở trên. Tôi xin đóng góp thêm cho sự phân chia bố cục này như sau:

* Phẩm Tựa là phần giới thiệu tổng quát về giáo, hạnh, nguyện, quả và đại nguyện của kinh Pháp Hoa.

* Từ phẩm Phương Tiện đến phẩm An Lạc Hạnh, là nói về giáo và hạnh của Pháp Hoa.

Giáo Pháp Hoa là từ phẩm Phương Tiện cho đến phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký.

Hạnh Pháp Hoa là từ phẩm Pháp Sư đến phẩm An Lạc Hạnh.

* Từ phẩm Tùng Địa Dõng Xuất đến phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát là nguyện và quả Pháp Hoa.

- Nguyện Pháp Hoa là phẩm Tùng Địa Dõng Xuất.

- Quả Pháp Hoa là từ phẩm Như Lai Thọ Lượng đến phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát.

* Những phẩm còn lại là nói về Đại nguyện Pháp Hoa. Nghĩa là nguyện yểm trợ và hoằng truyền kinh Pháp Hoa trong mọi thời gian, trong mọi không gian và trong mọi hình thức.

3. Nội dung:

Kinh Pháp Hoa bản dịch của Ngài La Thập có 28 phẩm, ý chính của mỗi phẩm xin tóm lược như sau:

Phẩm Tựa:

 Giới thiệu tổng quát về giáo, hạnh, nguyện, quả và đại nguyện của kinh Pháp Hoa.

Đức Phật đã giới thiệu trực tiếp kinh Pháp Hoa cho hội chúng tại đỉnh Linh Sơn bằng ánh sáng của thiền định.

Sau đó, Ngài Di Lặc phát khởi nhận thức bằng ngôn ngữ quy ước của con người. Và Ngài Văn Thù Sư Lợi đã giới thiệu tổng quát Pháp Hoa cho hội chúng bằng ngôn ngữ trải nghiệm của chính mình.

Phẩm Phương Tiện:

 Đức Phật Thích Ca chính thức nói kinh Pháp Hoa, có bốn điểm chủ yếu như sau:

a. Đức Phật Thích Ca khẳng định sự có mặt của chư Phật trong cuộc đời là chỉ làm một việc duy nhất là: “Vì muốn khai mở sự hiểu biết của Phật cho chúng sanh, khiến cho họ thành tựu sự thanh tịnh mà có mặt trong đời; vì muốn chỉ bày sự hiểu biết của Phật cho chúng sanhhiện ra trong đời; vì muốn chúng sanh chứng ngộ sự hiểu biết của Phật mà hiện ra trong đời và vì muốn chúng sanh thể nhập con đường hiểu biết của Phật mà hiện ra trong đời”.

b. Đức Phật nói với Tôn giả Xá Lợi Phất rằng: “Chỉ có một việc thường làm của các Đức Như Laigiáo hóa Bồ Tát; và chỉ sử dụng sự thấy biết của Phật để chỉ bày cho chúng sanh giác ngộ mà thôi; và cũng chỉ có sử dụng duy nhất Phật Thừa để thuyết pháp cho chúng sanh, nên ngoài Phật Thừa không có một Thừa nào khác. Chư Phật mười phương cũng đều là như vậy”.

c. Đức Phật lại nói với Tôn giả Xá Lợi Phất rằng: “Nếu ai là đệ tử của Như Lai, tự cho mình là A La Hán, là Độc Giác mà không nghe, không biết rằng, các Đức Như Lai, Đấng Giác Ngộ chỉ có một việc là giáo hóa Bồ Tát, thì những vị ấy không phải là A La Hán, không phải là Độc Giác, không phải là đệ tử của Đức Như Lai”.

d. Đức Phật nói với Tôn giả Xá Lợi Phất rằng: “Pháp của Như Lai thành tựu, pháp ấy khó hiểu và hiếm có bậc nhất, chỉ có Như LaiNhư Lai mới có khả năng thấu triệt thực tướng của các pháp. Nghĩa là tướng các pháp là như vậy; tính là như vậy; thể là như vậy; năng lực là như vậy; tác dụng là như vậy; nhân là như vậy; duyên là như vậy; quả là như vậy; báo là như vậy; gốc rễ ngọn ngành tuyệt đối bình đẳng là như vậy”.2

Bốn điểm này là chủ yếu của phẩm Phương Tiện mà cũng là chủ yếu của kinh Pháp Hoa.

Nên, khi Đức Phật nói xong bốn điểm này là Ngài đã nói xong kinh Pháp Hoa cho những đối tượng đương cơ.

Những phẩm tiếp theo là diễn giảng rộng rãi mà không phải là then chốt.

Phẩm Thí Dụ:

Phẩm này có ba điểm chủ yếu như sau:

a. Nói về sự tin hiểu của Tôn giả Xá Lợi Phất với pháp Nhất Thừa.

Tôn giả Xá Lợi Phất đã phát biểu sự tin hiểu đối với pháp Nhất Thừa qua hai ý như sau:

*Ý thứ nhất:

Tôn giả Xá Lợi Phất đã bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Con từ trước đến nay, suốt từ ngày liền đêm luôn luôn tự khắc trách. Nhưng hôm nay, từ Đức Thế Tôn con lại được nghe giáo pháp mà trước đó chưa từng nghe và chưa từng có, mọi nghi ngờ trong lòng con giờ đây dứt sạch, thân tâm được thư thái ổn định.

Ngày nay, con mới biết mìnhPhật tử chân thật, sinh ra từ giáo huấn của Ngài, hóa sanh từ chánh pháp của Ngài và được dự phần vào chánh pháp của Phật”.3

*Ý thứ hai:

Tôn giả bạch với Đức Thế Tôn trong bài kệ tụng như sau:

 “Con quyết định làm Phật

 Được trời, người cung kính

 Chuyển pháp luân vô thượng

 Giáo hóa các Bồ Tát”.4

Phát biểu hai ý này, chứng tỏ Tôn giả Xá Lợi Phất đã lãnh hội được pháp Nhất ThừaĐức Phật đã dạy trực tiếp cho Tôn giả ở phẩm Phương Tiện.

b. Do lãnh hội được pháp Nhất Thừa, nên Tôn giả đã được Đức Phật thọ ký thành Phật trong tương lai.

Và trước khi thọ ký, Đức Phật đã nhắc lại bản nguyện bồ đề của Tôn giả vốn đã từng phát nguyện và đã tu học dưới sự dìu dắt của Ngài từ vô lượng kiếp trước.

Sau khi Đức Phật đã nhắc cho Tôn giả Xá Lợi Phất nhớ lại bản nguyện Bồ Tát của mình và liền thọ ký cho Tôn giả thành Phật trong tương lai.

Việc Đức Phật thọ ký cho Tôn giả Xá Lợi Phất, là chủ ý chính của phẩm này.

 c. Đức Phật tiếp tục hiển thị giáo lý Nhất Thừa qua thí dụ nhà lửa và ba xe cho các vị Đại A La Hán như Đại Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Tu Bồ ĐềCa Chiên Diên cũng như nhiều vị Thanh Văn A La Hán khác trong hội chúng.

Đây chỉ phần minh họa.

Phẩm Tín Giải:

Chủ yếu của phẩm này là nói hàng Thanh Văn tin và hiểu pháp Nhất Thừa của Đức Phật dạy qua pháp dụ nhà lửa và ba xe.

Do đó, họ nhận ra Tam Thừaphương tiện và những gì họ chứng đắc bấy lâu nay đều là do Phật phương tiện để dạy pháp Nhất Thừa, khiến họ phải đạt tới Niết Bàn của Phật.

Họ rất cảm kính ơn đức giáo hóa của Phật.

Làm Phật là việc họ không bao giờ dám nghĩ tới mà nay họ lại được. Họ được là nhờ phương tiện khéo léo của Phật.

Và để chứng minh cho sự tin hiểu của họ đối với pháp Nhất Thừacứu cánh, Tam Thừaphương tiện, họ đã đưa ra ví dụ trưởng giả và gã cùng tử.

Phẩm Dược Thảo:

Chủ yếu của phẩm này, Đức Phật dùng thí dụ “cỏ thuốc” để dụ cho Tam Thừa là từ Nhất Thừa mà biểu hiện.

Và ngay từ buổi đầu, Đức Phật đã thuyết pháp Nhất Thừa một cách bình đẳng, nhưng do căn cơ của người nghe không đồng, nhân duyên tu học khác nhau, thành ra có sự sai biệt.

Và dù có sai biệt thế nào đi nữa, thì Đức Như Lai vẫn sử dụng mọi phương tiện để thuyết pháp thích hợp, khiến cho tất cả sự tu học rốt cùng đều thành tựu Phật đạo.

Nên, ví dụ “cây cỏ” là để minh họa cho chủ ý này.

Phẩm Thọ Ký:

Chủ yếu của phẩm này là Đức Phật thọ ký cho bốn vị Đại A La Hán đứng đầu chúng Thanh Văn, để xác quyết Niết Bàn A La Hán mà những vị này chứng đắc từ trước đến giờ chưa phải là chân thật, chỉ là phương tiện đối cơ giáo hóa của Ngài.

Niết Bàn của Phật mới là chân thật. Và Niết Bàn ấy, chỉ đạt được bằng con đường Bồ Tát hạnh mà không phải là Thanh Văn hạnh.

Nên, ở phẩm này Đức Phật nói pháp Nhất Thừa bằng chính hành động thọ ký của Ngài, và những vị được thọ ký này, tin và hiểu pháp Nhất Thừa một cách vững chãi bằng chính hành động tiếp nhận sự thọ ký ấy từ Đức Thế Tôn một cách thành khẩn.

Phẩm Hóa Thành Dụ:

Chủ yếu của phẩm này là Đức Phật trình bày giáo lý Nhất Thừa cho hàng Thanh Văn qua nhân duyên.

Nghĩa là nhân duyên thầy-trò, thân hữu liên hệ với nhau đối với pháp Nhất Thừa từ Đức Phật Đại Thông Trí Thắng đã trải qua cách đây “tam thiên trần điểm kiếp”.

Và từ đó, Đức Phật đã sử dụng phương tiện của Nhất Thừa để dìu dắt hàng đệ tử, khiến cho tất cả đều chứng nhập Nhất Thừa, hiện nay phương tiện ấy vẫn đang còn tiếp tục sử dụng.

Thí dụ, Hóa thành là minh họa chủ ý này. Và qua thí dụ này, Đức Phật chính thức xác định, Niết Bàn của A La Hán là do Ngài phương tiện thiết lập, nay đã đúng lúc cần phải phế bỏ để tiến tới Niết Bàn đích thực của Phật.

Phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký:

Chủ yếu của phẩm này là Đức Phật tiếp tục dạy pháp Nhất Thừa cho 500 đệ tử Thanh Văn bằng chính hành động thọ ký của Ngài.

Đức Phật xác định rằng, những đệ tử Thanh Văn được thọ ký này, họ là “nội bí Bồ tát, ngoại hiện Thanh văn”. Họ cũng đã từng phát khởi đại nguyện Bồ Tát, họ đã từng làm các Phật sự với tâm nguyện Bồ Tát, nhưng đến nay họ quên mất, tưởng hạnh Thanh Văn là thật.

Do đó, Đức Phật đã nhắc nhở cho họ nhớ lại bản nguyện Bồ Tát của họ. Và khi họ nhớ lại đại nguyện Bồ Tát của họ là họ liền được Phật thọthành Phật trong tương lai.

Nên, phẩm này Đức Phật thuyết pháp Nhất Thừa cho Thanh Văn bằng cách nhắc nhở họ nhớ lại đại nguyện Bồ Tát của họ.

Và quý vị này đã nhớ lại bản nguyện của mình, bằng cách đưa ra ví dụ “hạt ngọc minh châu nằm sẵn trong chéo áo” để ví rằng, tu tập mà quên mất đại nguyện Bồ Tát thì nghèo, nhớ lại bản nguyện Bồ Tát là tức khắc trở thành giàu có.

Ví như gã nghèo do quên mất “hạt minh châu trong chéo áo” đã trở nên nghèo cùng, có người chỉ cho liền nhớ lại và đem ra tiêu dùng thì trở thành kẻ giàu có.

Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký:

Chủ yếu phẩm này, Đức Phật tiếp tục giảng pháp Nhất Thừa bằng chính hành động thọ ký cho những vị đã hoàn tất hay chưa hoàn tất pháp học Thanh Văn.

Ngài thọ ký bằng cách nêu rõ bản hạnh và gọi tên từng vị để thọ ký tương lai thành Phật, như trường hợp Tôn giả A NanLa Hầu La.

Tôn giả A Nan đã từng duy trì kho tàng chánh pháp của chư Phật quá khứ, hiện đang tiếp tục và sẽ tiếp diễn đến chư Phật trong tương lai.

Tôn giả La Hầu La bản hạnh đã từng làm trưởng tử của các Đức Như Lai, khi chưa xuất gia trong quá khứ, hiện tại cũng đang như vậy và tương lai cũng sẽ tiếp tục như vậy.

Nên, phẩm này Đức Phật lại tiếp tục nêu rõ bản hạnh, bản nguyện của các vị Thanh Văn để thọ ký, bằng cách biệt ký hay tổng ký.

Hai ngàn vị còn lại Đức Phật cũng đã tổng thọ ký cho họ đều thành Phật tương lai.

Như vậy, ta thấy từ phẩm 2 đến phẩm 9 của kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã có ba cách trình bày pháp Nhất Thừa.

*Cách một: Nói thẳng về giáo pháp Nhất Thừa cho hàng Thanh Văn thượng căn, tiêu biểuTôn giả Xá Lợi Phất.

*Cách hai: Nói pháp Nhất Thừa cho Thanh Văn trung căn qua thí dụ, như các Tôn giả Đại Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Đại Ca Diếp, Ca Chiên Diên.

*Cách ba: Nói pháp Nhất Thừa cho Thanh Văn hạ căn qua nhân duyên, như Tôn giả Phú Lâu Na, Kiều Trần Như,… cho đến bao gồm cả những vị đã hoàn tất hay chưa hoàn tất pháp học Thanh Văn.

Tám phẩm này, đã nói lên việc sử dụng phương tiện của Nhất Thừa để giáo hóa hàng Thanh Văn thừa, khiến tất cả đều quy về Nhất Thừa của Phật đã thành công.

Phẩm Pháp Sư:

Chủ yếu của phẩm này là nói về phẩm hạnh hay là căn bản Giới Định Tuệ của một vị Pháp sư Pháp Hoa.

Đối với phẩm hạnh, vị Pháp sư phải có khả năng thọ trì, đọc tụng, diễn giảng kinh Pháp Hoa.

Đối với căn bản Giới Định Tuệ, vị Pháp sư phải có đầy đủ ba chất liệu:

1. Giới căn bản của Pháp Hoabản nguyện đại bi.

2. Định căn bản của Pháp Hoa là tâm nhu hòa nhẫn nhục.

3. Tuệ căn bản của Pháp Hoa là phải thấy rõ Tánh Không ở nơi hết thảy pháp.

Đó là những nội dung chủ yếu của phẩm này.

Phẩm Hiện Bảo Tháp:

Việc hiện bảo thápxuất hiện toàn thân xá lợi của Phật Đa Bảo là chủ yếu nói lên hạnh nguyện Pháp Hoa.

Hạnh nguyện ấy là bất diệt giữa các pháp đang sinh diệt.

bảo tháp cũng như toàn thân xá lợi của Đức Phật Đa Bảo xuất hiện để làm chứng cứ, pháp Nhất Thừa do Đức Phật Thích Ca tuyên thuyết là đúng bản hạnh và nguyện của chư Phật. Pháp ấy là chân thật bất diệt, khuyến khích thính chúng phát tâm tu tập, giữ gìntruyền bá khắp nơi.

Đó là chủ yếu của phẩm này.

Phẩm Đề Bà Đạt Đa:

Phẩm này trình bày pháp Nhất Thừabình đẳng. Không những bình đẳng giữa người thiện và người ác, giữa người thân và người thù, giữa nam và nữ mà còn bình đẳng giữa các chủng loại khác nhau.

Nên, Đức Phật thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa thành Phật, mặc dù hiện tại Đề Bà Đạt Đa là người gây nhiều độc ác và chống đối Đức Phật kịch liệt.

Tuy vậy, Đức Phật biết Phật tính nơi Đề Bà Đạt Đa vẫn nguyên vẹn, bản hạnh Pháp Hoa nơi Đề Bà Đạt Đa không mất, nếu hội đủ nhân duyên thì tất cả đều được phục hồi nguyên vẹn. Nên đây là điểm chủ yếu mà Đức Phật thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa thành Phật trong tương lai.

Trước khi thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa thành Phật, Đức Phật còn nói: “Đề Bà Đạt Đa là người bạn tốt của Ngài, nhờ người bạn này mà Ngài đã thành tựu sáu pháp ba la mật, bốn tâm vô lượng, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,…”.5

Và sau khi thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa xong, Đức Phật còn nói cho đại chúng biết: “Nếu ai nghe được phẩm Đề Bà Đạt Đa trong kinh Pháp Hoa này mà tâm thanh tịnh, tin tưởng kính trọng, không nghi ngờ, không lầm lẫn, thì người ấy sẽ không sa vào các ác đạo mà thường sinh ra trước mặt chư Phật mười phương. Và sinh ở đâu cũng thường được nghe kinh Pháp Hoa. Sinh trong nhân loại hay chư thiên thì được hưởng sự yên vui vi diệu, và nếu sinh trước mặt chư Phật thì hóa sinh từ hoa sen”.6

Thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa và nói lời khuyến khích xong, Đức Phật lại chứng minh việc Long nữ thành Phật là do hạnh nguyện hoằng truyền kinh Pháp Hoa của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi tại cung rồng Diêm Hải.

Dù là kẻ cực ác, nhưng đã từng có bản hạnh Nhất Thừa, thì vẫn có đầy đủ điều kiện căn bản để thành Phật. Và cho dù loài súc sanh nữ, nhưng đã có căn duyên với Pháp Hoa và đã nỗ lực thực hành cũng như hoằng truyền kinh ấy, thì việc thành Phật không phải là chuyện xa lạ mà nó sẽ xảy ra ngay trước mặt.

Đó là những chủ ý của phẩm này.

Phẩm Khuyến Trì:

Chủ yếu của phẩm này là khuyến khích duy trìphát khởi hạnh nguyện hoằng truyền kinh Pháp Hoa.

Bồ Tát Dược Vươngtùy thuộc đã phát khởi hạnh nguyện hoằng truyền Pháp Hoa vào thời đại chúng sanh xấu ác.

Các vị Đại A La Hán và tất cả Thanh Văn đã được thọ kýphát khởi hạnh nguyện hoằng truyền kinh Pháp Hoa ở cõi nước khác.

Các Tỷ khưu ni được Phật thọ ký ở phẩm này cũng phát nguyện hoằng truyền kinh Pháp Hoa ở cõi khác.

Trước khi thọ ký cho tất cả Tỷ khưu ni, Đức Phật gọi bà Kiều Đàm Di (bà Ma Ha Bà Xà Bà Đề) mà nói rằng:

“Này Kiều Đàm Di! Trước đó Như Lai đã nói tổng quát rằng, hết thảy Thanh Văn đều đã thọ ký”.7

Với sự thọ ký này, gọi là “tổng ký”, tức là thọ ký hết thảy hàng Thanh Văn đều được thành Phật tương lai, kể cả năm ngàn người Thanh Văn tăng thượng mạn bỏ hội chúng ra về từ buổi đầu.

Đến phẩm này họ cũng được Đức Phật “tổng ký” và đều khuyến khích phát khởi hạnh nguyện Bồ Tát bằng cách hoằng truyền kinh Pháp Hoa.

Và quan trọng nhất của phẩm này là các Bậc Đại sĩ phát nguyện hoằng truyền kinh Pháp Hoa vào thời đại xấu ác, với sứ mệnh đầy đủ ba tính chất gồm: từ bi, nhẫn nhục và không tiếc thân mạng.

Phẩm An Lạc Hạnh:
 
Chủ yếu phẩm này là nói hạnh Pháp Hoa phải có mặt trong đời sống của người hoằng truyền.

Phải hoằng truyền Pháp Hoa chính bằng đời sống mà không phải là một mớ lý thuyết suông.

đời sống ấy phải thể hiện qua bốn mặt gồm:

- Thân hành Pháp Hoa.

- Khẩu hành Pháp Hoa.

- Ý hành Pháp Hoa.

- Nguyện hành Pháp Hoa.

Sống đời Pháp Hoa như thế sẽ đạt tới thành quả lớn, sẽ được hiến tặng tuệ giác như Đấng Pháp Vương, giống như Vua ở đời hiến tặng hạt minh châu trên búi tóc cho những quân sĩ chiến thắng.

Do đó, phẩm này chủ ý là nói người nào đã phát nguyện hoằng truyền kinh Pháp Hoa thì người đó phải có đời sống ấy.

Phẩm Tùng Địa Dõng Xuất:

Nội dung của phẩm này có những điểm như sau: 

1. Đức Phật Thích Ca từ chối sự phát nguyện nhiệt tình hoằng truyền kinh Pháp Hoathế giới này của những vị Bồ Tát từ thế giới khác.

Đức Phật từ chối sự phát nguyện của các vị Bồ Tát ấy là tại bởi các vị Bồ Tát ấy chưa có kinh nghiệm đối với chúng sanh nơi thế giới này để hoằng truyền kinh Pháp Hoahiệu quả.

Chúng sanhthế giới này được hình thành từ năm sự dơ bẩn và họ thường biểu hiện những sự dơ bẩn ấy trong đời sống của họ, bởi vậy những vị Bồ Tát từ thế giới khác không đủ năng lực kham nhẫn để hoằng truyền kinh Pháp Hoathế giới này.

Năm sự dơ bẩn ấy gồm:

- Kiếp trược: Thời đại vẩn đục, nghĩa là thời đại của sự hoại diệt.

- Kiến trược: Sự hiểu biết của họ rất thấp kémvẩn đục.

- Phiền não trược: Tâm lý vẩn đụcthấp kém.

- Chúng sanh trược: Đời sống và hành xử với nhau hết sức thấp kém, vẩn đục.

- Mạng trược: Đời sống của họ rất ngắn ngủi, nhưng họ lại nuôi dưỡngbảo vệ đời sống ấy bằng những hành động hết sức kém cỏi.

2. Các vị Bồ Tát từ lòng đất của thế giới này vọt lên, là những vị Bồ Tát đã từng trải nghiệm với những khổ đau của thế giới này, đã từng lăn lộn với năm sự vẩn đục ấy, và từ đó họ tôi luyện hạnh nguyện để vượt ra. Họ vượt ra từ những trải nghiệm khổ đau của chính họ và từ những tác động khổ đau ở nơi thế giới này.

Các vị Bồ Tát ấy gồm có bốn chúng

Chúng thứ nhất là do Bồ Tát Thượng Hạnh dẫn đầu

Chúng này đã vượt lên đỉnh cao của tuệ giác từ sự quán chiếu khổ đau của chính mình và của chúng sanh ở nơi thế giới mà mình đang cộng trú để phát khởi hạnh nguyện rộng lớn là: “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành = Phật đạo không gì hơn, thề nguyện đều viên thành”, nên chúng Bồ Tát này, gọi là chúng Bồ Tát do Thượng Hạnh dẫn đầu.

Chúng thứ hai là do Bồ Tát Vô Biên Hạnh dẫn đầu

Chúng này đã vượt ra khỏi sự khổ đau do ngu dốt của chính mình, và sự khổ đau cũng như sự ngu dốt của thế giới mà mình đang cộng trú, để thành tựu tuệ giác vô thượng bằng sự phát khởi hạnh nguyện rộng lớn là: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học = pháp môn không kể xiết, thề nguyện đều tu học”, nên chúng Bồ Tát này, gọi là chúng Bồ Tát do Vô Biên Hạnh dẫn đầu.

Chúng thứ ba là do Bồ Tát Tịnh Hạnh dẫn đầu

Chúng này vượt ra khỏi khổ đau của cá nhâncộng đồng từ những tập khởi ô nhiễm của môi trường tâm thức cá nhânxã hội, để thành tựu tuệ giác vô thượng, bằng sự phát khởi hạnh nguyện rộng lớn là: “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn = phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch”, nên chúng Bồ Tát này, gọi là chúng Bồ Tát do Tịnh Hạnh dẫn đầu.

Và chúng Bồ Tát thứ tư do Bồ Tát An Lập Hạnh dẫn đầu.

Chúng này thiết lập hạnh an lạc một cách vững chãi từ sự chấm dứt khổ đau, do sự phát khởi hạnh nguyện rộng lớn là: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ = chúng sanh không số lượng, thệ nguyện đều độ khắp”, nên chúng Bồ Tát này gọi là chúng Bồ Tát do An Lập Hạnh dẫn đầu.

Bốn chúng Bồ Tát này do Đức Phật Thích Ca huấn luyện từ trong lò lửa khổ đau của thế giới này, nên họ mới đủ mọi năng lực để phát nguyện hoằng truyền kinh Pháp Hoa cho chúng sanh ở nơi thế giới này, nhằm chuyển hóa Khổ đế của thế giới này thành An Lập Hạnh, chuyển hóa Tập đế của thế giới này thành Tịnh Hạnh, chuyển hóa Đạo đế ở nơi thế giới này thành Vô Biên HạnhDiệt đế ở nơi thế giới này thành Thượng Hạnh.

Đó là chủ ý của phẩm này, và do chủ ý thâm sâu, vi diệusiêu việt như vậy, làm cho hội chúng kinh ngạc, khiến Bồ Tát Di Lặc phát khởi thỉnh vấn, làm duyên khởi để Đức Phật dạy phẩm Như Lai Thọ Lượng.

Phẩm Như Lai Thọ Lượng:

Phẩm này nói về báo thân viên mãn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Báo thân ấy không bị sinh diệt chi phối, bởi vì đó là kết quả từ hạnh nguyện Pháp Hoa tạo thành, đã từ vô lượng kiếp.

Đức Phật Thích Ca lịch sử đang nói Pháp Hoa bằng trực tiếp, bằng thí dụ, bằng nhân duyênthọ ký cho hết thảy hàng Thanh Văn thành Phật trong tương lai ấy, là từ nơi Phật báo thân viên mãn này mà biểu hiện.

Các vị Bồ Tát từ lòng đất vọt lên cũng do từ báo thân viên mãn vô lượng thời gian này giáo hóa mà tạo nên.

Do đó, báo thân của Phật Thích Ca không hề nhập diệt, vẫn luôn luôn thường trú. Và làm căn bản cho mọi ứng hóa thân của Phật Thích Ca biểu hiện cùng một lúc mà có mặt khắp mọi không gian để thuyết giảng Pháp Hoa cho hết thảy chúng sanh khắp cả vô biên thế giới.

Đây là điểm chủ yếu của phẩm này, nên phẩm này là điểm sâu thẳm, là bản thể thâm diệu của các phẩm Pháp Hoa được Đức Phật diễn nói từ trước và là căn bản tạo nên các thành quả của Pháp Hoađại nguyện của Pháp Hoa ở các phẩm về sau.

Phẩm Phân Biệt Công Đức:

Chủ yếu của phẩm này là nói về thành quả tốt đẹp do tin và hiểu đối với báo thân viên mãn không sinh diệt của Phật từ hạnh nguyện Pháp Hoa đem lại.

Nên, phẩm này đặc biệt nhấn mạnh đến đức tin Pháp Hoa.

Phẩm Tùy Hỷ Công Đức:

Phẩm này chủ yếu là nói thành quả hay phước báo tốt đẹp của người tùy hỷ đối với kinh Pháp Hoa.

Thành quả ấy là thành quả tốt đẹp đối với tất cả tướng hảo của loài người. Người ấy có đầy đủ tiện nghi đi lại, có vị trí cao đẹp trong cõi nhân thiênđời sống sinh ra trong môi trường của các vị Bồ Tát có pháp Tổng Trì tối thượng.

Phẩm Pháp Sư Công Đức:

Chủ yếu phẩm này là nói những thành quả tốt đẹp đối với sáu căn của vị Pháp sư Pháp Hoa, do công phu tu tập, thọ trì, đọc tụng, diễn giảng, ấn hành kinh Pháp Hoa mà đem lại.

Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát:

Chủ ý của phẩm này là nói về thành quả tốt đẹp do thực hành hạnh nguyện Pháp Hoa đem lại của Đức Phật Thích Ca.

Tiền thân của Đức Phật Thích CaBồ Tát Thường Bất Khinh.

Vị Bồ Tát ấy, đã phát nguyện thọ trì kinh Pháp Hoa từ Đức Phật Oai Âm Vương đã trải qua vô lượng kiếp cho đến ngày nay chưa hề gián đoạn.

Bởi vậy, báo thân bất hoại, siêu việt thời gian của Phật Thích Ca là do từ hạnh nguyện Pháp Hoa này mà tạo thành, và hiện thân Đức Phật Thích Ca có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp đang thuyết Pháp Hoa cho hội chúng tại đỉnh Linh Sơn, đang đưa Tam Thừa trở về với Nhất Thừa và đang thọ ký cho hết thảy Thanh Văn thành Phật, đó là thành quả từ hạnh nguyện Pháp Hoa của Bồ Tát Thường Bất Khinh này.

Do đó, phẩm này là nói hạnh nguyện lâu nhất, nhẫn nhụckiên trì nhất của Pháp Hoa và là thành quả cao nhất của hạnh nguyện ấy.

Phẩm Như Lai Thần Lực:

Chủ yếu của phẩm này là nói về sự yểm trợ cho những ai thực hành đời sống Pháp Hoaphát khởi đại nguyện hoằng truyền đời sống ấy của Như Lai bằng năng lực thần thông.

Như Lai thần lựcthần lực được biểu hiện từ nơi Như Lai thọ lượng, nghĩa là từ nơi báo thân bất hoại siêu việt thời giankhông gian mà biểu hiện thần lực.

Thần lực ấy có bốn điểm như sau:

1. Thần lực đưa ra tướng lưỡi rộng dài đến Phạm thiên:

Đức Thế Tôn biểu hiện thần lực này là để hiển thị cho đại chúng biết rằng: Những gì Đức Như Lai thuyết giáo từ khi chuyển pháp luân tại Vườn Nai cho đến bây giờ là xuyên suốt chân thật – chỉ nói một lời.

Lại nữa, những gì mà Như Lai trình bày trong kinh Pháp Hoa này, từ phẩm Phương Tiện đến phẩm Như Lai Thần Lực này là pháp Nhất Thừa xuyên suốt thống nhất.

Và lại nữa, pháp Nhất ThừaNhư Lai vừa trình bày cho hội chúng đó cũng chỉ là một lưỡi, một lời, đúng như một lưỡi, một lời của chư Phật mười phươngba đời.

Chư Phật phân thân, từ báo thân không sinh diệt đang hoằng truyền Pháp Hoa khắp cả mười phương cũng chỉ nói một lưỡi, nói một lời, Nhất Thừachân thật, Tam Thừaphương tiện.

Và chỉ có lời nói chân thật ấy, mới là sức mạnh phi thường để yểm trợ cho những ai phát nguyện sống đời sống Pháp Hoa và hoằng truyền đời sống ấy.

2. Hết thảy lỗ chân lông của Như Lai đều phóng ra vô lượng, vô biên ánh sáng có màu sắc và chiếu soi khắp các thế giới trong mười phương:

Đức Thế Tôn biểu hiện thần lực này để hiển thị rằng, chân lý là tỏa sáng cùng khắp mọi nơibất diệt.

Và chỉ có chân lý mới có sức mạnh phi thường xóa tan ảo vọng, để yểm trợ cho những ai nguyện sống đời sống Pháp Hoa và hoằng truyền đời sống ấy.

3. Chư Phật phân thân, đằng hắng cùng một lúc:

Thần lực này của chư Phật, nhằm hiển thị rằng: Phật báo thân và chư Phật phân thân bất cứ thời gian nào và không gian nào, cũng cùng một phát nguyện thống nhất. Sống bằng đời sống kinh Pháp Hoaphát nguyện hoằng truyền kinh ấy.

đồng thời phát nguyện yểm trợ cho những ai đang hành Pháp Hoa và hoằng truyền pháp ấy.

Và như vậy, chỉ có nguyện lực thống nhất mới có sức mạnh phi thường để yểm trợ người có đời sống Pháp Hoa và hoằng truyền pháp ấy.

4. Chư Phật búng tay cùng lúc:

Thần lực này của chư Phật, nhằm hiển thị rằng, mọi hoạt dụng của Phật báo thân và chư Phật phân thân là thống nhất với nhau, đối với pháp Nhất Thừa.

Và như vậy, chỉ có hoạt dụng thống nhất đối với Phật Thừa, mới có năng lực phi thường để bảo chứng cho những ai sống đời Pháp Hoa và hoằng truyền đời sống ấy.

Đức Như Lai đã sử dụng những thần lực như vậy để yểm trợ cho những vị thực hành đại nguyện Pháp Hoa.

Yểm trợ đại nguyện Pháp Hoa bằng thần lực là chủ yếu của phẩm này.
 
Phẩm Chúc Lụy:

Chúc lụy hay phó chúc hoặc ký thác, phẩm nầy có bốn điểm chủ yếu sau:

1. Trực tiếp phó chúc:

Đức Phật đứng dậy từ pháp tòa, bằng tất cả thần lực, đưa tay xoa đỉnh đầu của các Bồ Tát Đại Sĩ và nói lời phó chúc:

“Pháp Tuệ giác Vô thượng này rất khó được, Như Lai đã trải qua vô số thời gian tu tập mới có được, ngày nay đem giao phó cho quý vị. Quý vị hãy hết lòng truyền bá pháp ấy, làm cho sự lợi ích của pháp ấy tăng lên một cách rộng lớn”.8

Đây là lời phó chúc chính thức của Đức Như Lai đến các vị Bồ Tát Đại Sĩ.

2. Lời căn dặn:

Đức Như Lai căn dặn lời hết sức quan trọng như sau:

“Nếu trong tương lai có người nào tin tưởng được tuệ giác Như Lai, thì quý vị hãy giảng kinh Pháp Hoa này cho họ, khiến cho họ đều đạt được tuệ giác của Như Lai.

Và nếu ai chưa tin tưởng kinh này, thì quý vị nên đem giáo lý sâu xa khác của Như Lai mà trình bày cho họ bằng nhiều cách.

Nếu làm được như vậy là quý vị đã báo đáp được ân đức chư Phật”.

3. Tiếp nhậnphụng hành:

Sau lời phó chúc của Đức Thế Tôn, các vị Bồ Tát Đại Sĩ vui mừng không kể xiết, liền cúi đầu hướng đến Đức Thế Tôn nói lời tín kính và phụng hành như sau:

“Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con nguyện xin cùng nhau phụng hành, đúng như lời huấn dụ của Đức Thế Tôn. Xin Đức Thế Tôn đừng lo nghĩ”.

Sau lời thưa tiếp nhận phó chúc của các Bồ Tát Đại Sĩ, việc phó chúc của Đức Thế Tôn đã hoàn thành.

Và những gì Đức Như Lai dạy về giáo, hạnh, nguyện và quả của pháp Nhất Thừa đã thành tựu viên mãn.

4. Thỉnh mời trở về quốc độ:

Sau khi đã hoàn thành mọi thủ tục phó chúc, Đức Thế Tôn thỉnh mời các Đức Phật phân thân trở về quốc độ của mình và cũng thỉnh mời tháp Đức Phật Đa Bảo về chốn cũ.

Trong hội chúng bấy giờ, ai cũng cảm thấy hoan hỷ, vui sướng.

Như vậy, chủ yếu của phẩm này là vừa phó chúc kinh Pháp Hoa cho các vị Bồ Tát Đại Sĩ tiếp tục hoằng truyền và đồng thời cũng tổng kết thuyết pháp hoàn tất pháp Nhất Thừa của Đức Thế Tôn về bốn mặt giáo, hạnh, nguyện và quả.

Còn các phẩm sau của phẩm này là nói về đại nguyện Pháp Hoa của các Đại Bồ Tát.

Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự:

Chủ ý phẩm này là nói Bồ Tát Dược Vương tu tập đạt được “hiện nhất thiết sắc thân tam muội”, là nhờ nghe kinh Pháp Hoa từ Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, và đã tinh cần thực hành Pháp Hoa không biết mỏi mệt.

Do tu tập Pháp Hoathành đạt thiền định “hiện nhất thiết sắc thân”, nên Bồ Tát Dược Vương đã đốt thân từ sự thành đạt ấy, để cúng dường chư Phật và kinh Pháp Hoa.

Việc đốt thân cúng dường của Bồ Tát Dược Vương có một ý nghĩa hết sức thâm diệu, đó là dâng hiến toàn vẹn pháp do Bồ Tát chứng ngộ từ đời sống Pháp Hoa lên cúng dường chư Phật, để biểu lộ lòng biết ơn sâu xa đức giáo hóa bằng Pháp Hoa của các Ngài và pháp thâm diệu được chứa đựng trong kinh.

một lần khác, Bồ Tát Dược Vương trong quá khứ cũng lại đốt hai cánh tay để cúng dường như vậy.

Bồ Tát đốt thân cúng dường là để khẳng định tự thân thực chứng Pháp Hoa và lại một lần nữa đốt cánh tay cúng dường để khẳng định khả năng hoằng truyền chánh pháp, khiến cho tất cả Thánh giả trong Tam Thừa đều hội nhập Nhất Thừa.

Nên chủ ý của phẩm này là nói lên đại nguyện hoằng truyền kinh Pháp Hoa của Bồ Tát Dược Vương bằng năng lực khổ hạnh qua sự “thiêu thân cúng dường”.

Và chính do sự “thiêu thân cúng dường” ấy là khẳng định, việc do tu tập Pháp Hoathành tựu định “hiện nhất thiết sắc thân” của Ngài là chân thật.

Định “hiện nhất thiết sắc thân” là thứ thiền định có khả năng biểu hiện sắc thân một cách tự tại.

Do có khả năng ấy, nên Bồ Tát mới có khả năng biểu hiện nhiều hình thức, nhiều thân tướng thích hợp để hoằng truyền kinh Pháp Hoa đến với hết thảy mọi hình sắc và mọi giới loại trong mọi không gian mà không lẫn tiếc thân mạng. Sẵn sàng đem thân mạng để phụng sự chánh pháp.

Đó là chủ ý cao nhất của phẩm này.

Phẩm Diệu Âm Bồ Tát:

Chủ yếu phẩm này là nói Bồ Tát Diệu Âm hoằng truyền kinh Pháp Hoa qua năng lực của thiền định hiện nhất thiết sắc thân.

Do đạt được thiền định này, nên Bồ Tát Diệu Âm có thể sử dụng mọi thân tướng thích hợp với mọi đối tượng để hoằng truyền kinh Pháp Hoa.

Và do chứng đắc năng lực thiền định này mà Bồ Tát Diệu Âm có thể biểu hiện từ thế giới của Pháp Hoa lý tưởng trở thành thế giới của Pháp Hoa hiện thực, bằng tất cả những năng lực hoạt dụng của đại nguyện qua thiền định.

Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn:

Chủ yếu của phẩm này là nói Bồ Tát Quán Thế Âm hoằng truyền kinh Pháp Hoa bằng tâm đại bi toàn diện.

Toàn diện đối với Pháp: Đối với Pháp, Bồ Tát Quán Thế Âm hoằng truyền Pháp Hoa bằng cách chỉ bày cho hết thảy chúng sanh đều đi vào được cửa “thực tướng của hết thảy pháp”.

Toàn diện đối với Tâm: Đối với Tâm, Bồ Tát Quán Thế Âm hoằng truyền kinh Pháp Hoa bằng cách phát Bồ đề tâm, tu tập Bồ tát hạnh, không còn bất cứ sợ hãi nào đối với các ách nạn.

Toàn diện đối với chủng loại: Bồ Tát Quán Thế Âm hoằng truyền kinh Pháp Hoa sử dụng hết thảy thân, cùng một lúc có thể biến thể cùng khắp để thuyết pháp với thân thể thích ứng với hết thảy chủng loại chúng sanh.

Toàn diện đối với thời gian: Bồ Tát Quán Thế Âm có mặt cùng một lúc khắp mọi thời gian để tuyên dương diệu pháp.

Toàn diện đối với không gian: Bồ Tát Quán Thế Âm cùng một lúc mà Ngài có mặt khắp mọi không gian để giáo hóa chúng sanh bằng tâm Đại bi của Ngài.

Do đó, chủ yếu của phẩm này là nói Bồ Tát Quán Thế Âm hoằng truyền kinh Pháp Hoa bằng tâm Đại bi một cách toàn diện.

Phẩm Đà La Ni:

Chủ yếu phẩm này là yểm trợ các vị Pháp sư Pháp Hoa bằng năm thần chú.

Trong năm thần chú yểm trợ ấy, thần chú yểm trợ đáng chú ý nhất là thần chú của quý vị quỷ La sát.

La sát là loài quỷ độc ác ăn thịt người và tàn bạo nhất của thế gian, nhưng khi tất cả họ nghe Đức Phật thuyết giảng kinh Pháp Hoanăng lực của kinh Pháp Hoa đã đánh thức Phật tính nơi loài quỷ dữ này, khiến Phật tính trong họ sinh khởi và họ đã phát khởi đại nguyện hộ trì vị Pháp sư hoằng truyền kinh Pháp Hoa.

Điều này mới là điểm chủ yếu của phẩm này.

Ở phẩm 12, Đức Phật đã thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa làm Phậtxác nhận Phật tính ở nơi người tạo tội ngũ nghịch, dù đọa địa ngục vô gián, nhưng vẫn không mất, hễ có duyên thì sinh khởi. Cũng ở phẩm này, Đức Phật đã chứng minh cho Long nữ thành Phật, là xác nhận rằng, dù nhân xấu bị đọa làm loài súc sinh, nhưng Phật tính không mất, hễ đủ duyên thì sinh khởi làm Phật. Ở phẩm Đà La Ni này, các quỷ La sát nữ đã phát tâm hộ trì vị Pháp sư hoằng truyền Pháp Hoa bằng thần chú, được Phật ấn chứng. Điều này là minh chứng rằng, dù gieo nhân ác, bị đọa làm loài quỷ dữ, nhưng Phật tính không mất, hễ có đủ cơ duyên thì Phật tính biểu hiện, phát khởi đại nguyện và đều có thể thành Phật trong tương lai.

Vậy, kinh Pháp Hoa không phải chỉ có thần lực chuyển hóa hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát thành Phật, mà còn có thần lực cực kỳ phi thườngchuyển hóadìu dắt các loại chúng sanh ở nơi ba ác đạođịa ngục, ngạ quỷsúc sanh cũng đều làm Phật nữa.

Đây là điểm độc đáo của kinh Pháp Hoa và là điểm sâu thẳm vi diệu của phẩm này.

Phẩm Diệu Trang Nghiêm Bổn Sự:

Chủ yếu của phẩm này là nói kinh Pháp Hoanăng lực Phật hóa gia đình và Phật hóa xã hội qua nhà nắm quyền lực, bằng đại nguyện Pháp Hoa qua sự tác chứng của bản thân.

Vua Diệu Trang Nghiêm ở trong thân tộc là cha của hai hoàng tử Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn và ở mặt xã hội là vua, tức là vị nắm quyền lực cao nhất, nhưng lại là người tôn thờ chủ thuyết sai lầm.

Tịnh TạngTịnh Nhãn biết rõ vai trò của vua cha hết sức quan trọng đối với hạnh phúc của hoàng tộcxã hội, nếu vua cha tiếp tục đi theo chủ thuyết sai lầm, thì không những bản thân vua cha thiệt hại, mà còn gây thiệt hại lớn lao cho hoàng tộcxã hội.

Mặc dù hai hoàng tử hết sức thương cha, thương hoàng tộcnhân dân, nhưng đứng trước tình trạng ấy hết sức khó xử.

Khó xử vì con không thể nào nói đạo đức cho cha, dân không thể nào nói đạo đức cho vua, mà nhất là trong một xã hội gia trưởng và vương quyền, điều ấy lại càng không thể.

Ngôn ngữ điêu luyện và luận lý sắc bén không còn là phương tiện xử lý có hiệu quả trong trường hợp này, biết vậy nên Tịnh TạngTịnh Nhãn đã sử dụng phương tiện thần thông bằng chính bản thân mình đã dày công tu tập và chứng đạt từ Pháp Hoa tam muội và các thiền định khác của Bồ Tát để chuyển hóa tà kiến của vua cha.

Và điều ấy đã thực sự xảy ra. 

Vua Diệu Trang Nghiêm nhìn sự biểu hiện phép lạ của hai hoàng tử như vậy, lòng rất hoan hỷ, hướng lên hai vị hoàng tử và hỏi Thầy của hai con là ai. Hai vị hoàng tử trả lời, Thầy của chúng con là Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, hiện đang giảng dạy kinh Pháp Hoa. Vua nói, cha muốn yết kiến Ngài, chúng ta nên cùng đi.

Vua Diệu Trang Nghiêm đã đến yết kiến Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, được Ngài dạy cho kinh Pháp Hoa, khiến vua vui mừng, phát tâm vô thượng và đã được Đức Phật ấy thọ ký thành Phật trong tương lai.

Vua tu tập Pháp Hoa rất tinh cần và thưa với Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai rằng: “Hai người con này là Thiện tri thức của con, đã giúp con làm sống dậy những gốc rễ tốt đẹp của con từ đời trước”.

Như vậy, chủ ý của phẩm này là Phật hóa gia đình, Phật hóa nhà nắm quyền lựcxã hội bằng đại nguyện Pháp Hoa, qua phong cách của bậc Thiện tri thức (người bạn tốt và chân tình), có nội dung của tuệ giác Pháp Hoa, mà phương tiện sử dụng không nhất địnhthần thông, mà chính là phương tiện trí lực. Ấy là sức mạnh của tuệ giác vận dụng, để thích ứng, làm thay đổi tình trạng tà kiến nơi đối tượng.

Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát:

Bồ Tát Phổ Hiềnvô số Bồ Tát khác từ phương Đông đến đỉnh Linh Sơn để nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng kinh Pháp Hoa.

Bồ Tát Phổ Hiền đã thưa với Đức Thế Tôn rằng, sau khi Ngài nhập diệt làm thế nào để được kinh Pháp Hoa?

Đức Phật dạy cho Phổ Hiền Bồ Tát có bốn yếu tố để được Pháp Hoa sau này:

1. Được chư Phật hộ niệm.

2. Gieo trồng gốc rễ công đức.

3. Ở trong đoàn thể kiên định theo chánh pháp.

4. Phát nguyện cứu độ chúng sanh.

Sau khi nghe bốn điểm này từ Đức Thế Tôn, Bồ Tát Phổ Hiền phát nguyện hộ trì người thọ trì, đọc tụng, diễn giảng kinh Pháp Hoa, không những bằng đại nguyện, bằng thần chú mà còn bằng trực tiếp, khiến cho người ấy không bị quên bởi bất cứ câu chữ nào.

Ở phẩm Tựa của kinh Pháp Hoa, Bồ Tát Văn Thù có mặt để trả lời cho Bồ Tát Di Lặc về ánh sáng thiền định Pháp Hoa của Đức Thế Tôn phóng ra từ chặng giữa mày, là tiêu biểu cho vị Bồ Tát có khả năng thâm nhập chân lý bằng trí tuệ Pháp Hoa hay trí tuệ toàn giác bằng chính sự trải nghiệm.

Ở phẩm cuối của kinh Pháp Hoa, Bồ Tát Phổ Hiền xuất hiện từ phương Đông, có mặt trong phần bế mạc Pháp Hoa, là tiêu biểu cho vị Bồ Tát có khả năng hay tuệ giác thực hiện, giữ gìn và chuyển vận Pháp Hoa đến khắp mọi nơi, tạo thành chất liệu và sức mạnh của sự sống, mà không còn có bất cứ một sức mạnh nào có thể địch nổi.

Nên, phẩm này cũng là phẩm lưu thông của kinh Pháp Hoa.

Do đó, chủ ý của phẩm này nói cho ta biết, Pháp Hoa không còn là pháp thoạipháp thoại đã biến thành hành động của sự sống cùng khắp trong mọi không gian và trong mọi thời gian và là Pháp bất diệt, không cùng tận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10252)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12234)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11529)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28682)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11929)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12902)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11344)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12257)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17279)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52698)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35370)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21216)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10589)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19098)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12307)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13210)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14272)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15960)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13628)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16713)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17403)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12434)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11522)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11474)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20260)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18817)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19421)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12108)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12191)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13744)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14887)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13861)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15423)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11298)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17022)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20043)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13748)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11631)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14940)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12893)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22751)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14476)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11544)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16776)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18240)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11858)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11413)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15723)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18786)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18261)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant