Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 1: Mở đầu

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9370)
Phẩm 1: Mở đầu

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp)
Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch

CUỐN 1

 

Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận Tam bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa.

Mở đầu tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoatiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu Suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy Bồ tát Văn Thù, vị Pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Quan Âm, vị Đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

KINH PHÁP HOA

Phẩm 1: Mở đầu

Tôi nghe như vầy. Một thời đức Thế Tôn ở trong đỉnh Linh sơn, thuộc thành Vương Xá, cùng chúng đại Tỷ kheo mười hai ngàn vị, toàn là những bậc A La Hán mà sự sơ hở đã được tận diệt, sự phiền não không còn tái sanh, đã đạt được sự ích lợi của bản thân, đã dứt hết sự ràng buộc vào hiện hữu, tâm trí tự tại giải thoát. Tên các vị ấy là tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Đại Ca Diếp, tôn giả Tần Loa Ca Diếp, tôn giả Già Da Ca Diếp, tôn giả Na Đề Ca Diếp, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Chiên Diên, tôn giả A Nâu Lâu Đà, tôn giả Kiếp Tân Na, tôn giả Kiều Phạm Ba Đề, tôn giả Ly Bà Đa, tôn giả Tất Lăng Già, tôn giả Bạc Câu La, tôn giả Câu Hy La, tôn giả Nan Đà, tôn giả Tôn Đà Ra Nan Đà, tôn giả Phú Lâu Na, tôn giả Tu Bồ Đề, tôn giả A Nan Đà, tôn giả La Hầu La, đại loại như vậy, những vị A La Hánmọi người đều biết. Lại có hai ngàn vị tu học tiếp tụctu học hoàn tất, có Tỷ kheo ni Đại Thắng Sinh Chủ cùng với sáu ngàn người tùy thuộc, có thân mẫu tôn giả La Hầu LaTỷ kheo ni Trì Dự cùng với những người tùy thuộc, đều đến tụ tập.

Chúng đại Bồ tát có tám mươi ngàn, toàn là những vị không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng, được các pháp tổng trì, được các tài hùng biện mà trong đó có sự biện thuyết hoan hỷ, biện thuyết về pháp không thoái chuyển; đã phụng sự vô lượng trăm ngàn chư Phật, vun trồng các gốc rễ công đức ở nơi chư Phật ấây, và thường được chư Phật ấy tán dương; sửa mình bằng đức tính từ bi, khéo nhập vào tuệ giác Phật đà, thông suốt tuệ giác vĩ đại, đạt đến bờ bến bên kia; danh tiếng vang khắp vô lượng quốc độ, hoá độ vô số trăm ngàn chúng sanh. Tên các vị ấy là Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí, Bồ tát Thường Tinh Tấn, Bồ tát Bất Hưu Tức, Bồ tát Bảo Chưởng, Bồ tát Dược Vương, Bồ tát Dũng Thí, Bồ tát Bảo Nguyệt, Bồ tát Nguyệt Quang, Bồ tát Mãn Nguyệt, Bồ tát Đại Lực, Bồ tát Vô Lượng Lực, Bồ tát Việt Tam Giới, Bồ tát Hiền Hộ, Bồ tát Di Lạc, Bồ tát Bảo Tích, Bồ tát Đạo Sư, đại loại như vậy, tám mươi ngàn vị đại bồ tát đều đến tụ tập.

Chư Thiên thì có Đế Thích cùng hai mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc; Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, và bốn vị đại thiên vương, cùng mười hai ngàn thiên nhân tùy thuộc; Tự Tại thiên tử và Đại Tự Tại thiên tử cùng ba mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc; Phạn vương chủ thế giới hệ Kham nhẫn, cùng các Phạn vương đại loại Phạn vương Thi Khí, Phạn vương Quang Minh, và hai mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc, đều đến tụ tập. Các bộ khác thì có tám Long vương là Hỷ, Hiền Hỷ, Diêm Hải, Cửu Đầu, Đa Thiệt, Vô Nhiệt Não, Từ TâmHồng Liên Hoa, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Khẩn na la vương là Pháp và Diệu Pháp, Đại PhápTrì Pháp, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Càn thát bà vương là Nhạc và Nhạc Âm, Mỹ và Mỹ Âm, mỗi vị cùng mấy trăm ngày tùy thuộc; có bốn A tu la vươngTối Thắng, Dục Cẩm, Yến Cư và Hấp Khí, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Ca lâu la vương là Đại Uy Đức, Đại Thân, Đại MãnNhư Ý, mỗi vị cùng mấy trăm ngày tùy thuộc, đều đến tụ tập.

Nhân loại thì có con Hoàng hậu Vi Đề HyHoàng đế A Xà Thế, cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc, cũng đến tụ tập.

Tất cả các chúng trên đây, mỗi chúng đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, rồi lui lại mà ngồi mỗi chúng một chỗ.

Vào lúc này, đức Thế Tôn được bốn chúng vây quanh, hiến cúng, cung kính, tôn trọng, tán dương. Ngài nói cho các vị Bồ tát bản kinh Đại thừa tên Nghĩa Vô Lượng, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Nói kinh ấy rồi, đức Thế Tôn vẫn ngồi xếp bằng ở ngay giữa đại hộinhập định. Vị trí của Nghĩa Vô Lượng, thân thểtâm trí đều không dao động. Ngay khi ấy chư thiên mưa xuống hoa mạn đà, hoa mạn đà lớn, hoa mạn thù, hoa mạn thù lớn, rải trên đức Thế Tôn và cả đại hội. Khắp cõi Phật này chấn động đủ cả sáu cách. Trong đại hội, bốn chúngTỷ kheoTỷ kheo ni, Ưu bà tắcƯu bà di; tám bộ là thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la dà, toàn là những người không phải loài người, và các chúng khác mà trong đó có các vị quốc vương và các vị luân vương, hết thảûy các chúng như vậy đều được sự chưa từng có, hoan hỷ, chắp tay, và chuyên chú chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Còn đức Thế Tôn thì từ nơi tướng lông trắng giữa hai đầu của hai hàng lông mày phóng ra ánh sáng, chiếu soi mười tám ngàn thế giới hệ ở về hướng đông, không thế giới hệ nào mà không chiếu soi dưới đến Vô gián ngục trên đến Sắc cứu cánh. Làm cho đại hộithế giới hệ này mà thấy hết chúng sinh trong sáu loài của các thế giới hệ ấy; lại thấy chư Phật hiện tại của các thế giới hệ ấy, nghe kinh pháp của chư Phật ấy nói, thấy bốn chúng, những người hành đạođắc đạo trong các thế giới hệ ấy; lại thấy các vị bồ tát đi theo đường đi của bồ tát bằng các thứ yếu tố, các cách tin hiểu và các loại hình thức; lại thấy chư Phật nhập diệt, thấy sau đó xá lợi của chư Phật ấy được đem ra xây dựng những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quý báu mà tôn thờ.

Bấy giờ đức Di Lạc suy nghĩ, hôm nay đức Thế Tôn biểu hiện cảnh tượng thần biến. Vì lý do gì mà có điềm lành như vậy? Đức Thế Tôn đang nhập định, sự thể ngoài sự nghĩ bàn ấy biểu hiện cảnh tượng hiếm có này, ta nên hỏi ai, ai giải đáp được? Đức Di Lạc lại nghĩ, bồ tát Văn Thù, vị thái tử của đức Pháp vương, đã từng thân gần phụng sự vô lượng chư Phật quá khứ, tất đã thấy được cảnh tượng hiếm có này, vậy ta nên hỏi người. Cùng lúc, cả bốn chúng, tám bộ và các chúng khác, ai cũng nghĩ rằng, cảnh tượng thần biến biểu hiện bởi ánh sáng của đức Thế Tôn như vầy, nên đem hỏi ai? Đức Di Lạc muốn giải quyết nghi ngờ của mình, lại xét tâm trí của cả đại hội, nên hỏi bồ tát Văn Thù, vì lý do nào mà có điềm lành _ có cảnh tượng thần biếnđức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở về hướng đông, làm cho đại hội ở đây mà thấy hết mọi sự huy hoàng của các cõi Phật ấy? Đức Di Lạc muốn lặp lại ý nghĩa đã hỏi, nên hỏi bồ tát Văn Thù bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Văn Thù đại sĩ,

lý do nào

đức Thế Tôn,

vị thầy dẫn đạo,

từ nơi lông trắng

giữa hai đầu mày,

phóng ánh sáng lớn

chiếu soi khắp cả?

(2) Chư thiên mưa xuống

bao nhiêu hoa quí

mạn đà mạn thù,

và thổi làn gió

hơi thơm đàn hương,

đẹp lòng đại hội.

(3) Vì vậy mặt đất

cả quốc độ này

rực rỡ huy hoàng,

và cả quốc độ

đều chấn động lên

đủ hết sáu cách.

Làm cho bốn chúng

hoan hỷ tất cả,

cơ thể tâm trí

đều thấy thích thú,

cảm nhận sự thể

chưa bao giờ có.

(4) Chỉ một ánh sáng

phóng từ lông trắng

giữa hai đầu mày

chiếu soi hướng đông,

mà khiến một vạn

tám ngàn quốc độ

đều như màu sắc

ánh từ vàng ròng.

(5) Trong các quốc độ

được chiếu như vậy,

từ Vô gián ngục

đến Sắc cứu cánh,

hết thảy chúng sinh

thuộc cả sáu loài

sinh từ loài này

chết đến loài khác,

(6) hành vi lành dữ,

kết quả tốt xấu,

quốc độ này

mà thấy rõ cả.

(7) Lại thấy chư Phật,

chúa của thánh hiền,

tuyên thuyết kinh pháp

tinh túy bậc nhất,

bằng tiếng trong thanh

xuất lời hòa nhã

mà dạy bồ tát

vô số ức vạn.

(8) Bằng tiếng Phạn thiên

thâm thúy kỳ diệu

khiến người thích nghe,

chư Phật ở nơi

quốc độ của mình

diễn giảng chánh pháp,

vận dụng vô số

yếu tố, ví dụ,

soi sáng chánh pháp

thức tỉnh chúng sinh:

(9) Ai bị khổ não,

chán già bịnh chết,

thì nói cho họ

về pháp niết bàn,

để họ diệt tận

biên cương khổ não.

(10) Ai có phước đức

từng hiến cúng Phật,

chí cầu đạt được

chân lý cao hơn,

thì nói cho họ

về pháp duyên giác.

(11) Còn các con Phật

làm mọi hạnh nguyện

để cầu thành tựu

tuệ giác vô thượng,

thì nói cho họ

tuệ giác trong suốt.

*

(12) Văn Thù đại sĩ,

tôi ở nơi đây

mà thấy và nghe

đến như thế đó,

có ngàn ức việc.

Việc nhiều như vậy

nay tôi chỉ kể

một cách vắn tắt.

(13) Tôi thấy bồ tát

như cát sông Hằng,

của trong tất cả

thế giới hệ ấy,

đem mọi yếu tố

cầu tuệ giác Phật.

(14) Có người thực hành

hạnh nguyện bố thí:

bạc, vàng, san hô,

chân châu, ma ni,

xa cừ, mã não,

kim cương, của quí,

tôi tớ, xe thuyền,

vật để cỡi, chở,

(15) xe liễn, xe dư

trang hoàng vàng ngọc,

cũng rất hoan hỷ

mà đem hiến cho,

rồi hồi hướng cả

về nơi trí Phật,

(16) nguyện được xe Phật

cỗ xe bậc nhất

trong cả ba cõi,

được Phật tán dương.

(17) Hoặc có bồ tát

cho xe quí báu

kéo bởi bốn ngựa,

lại có lan can

mui trần hoa mỹ

mái riềm trang hoàng.

(18) Lại thấy bồ tát

cho thân cho thịt

cho tay cho chân

cho cả vợ con,

quyết chí đạt đến

tuệ giác vô thượng.

(19) Lại thấy bồ tát

cho đầu cho mắt

cho cả thân thể _

cho mà vui thích,

để cầu thành tựu

tuệ giác Phật đà.

(20) Văn Thù đại sĩ,

tôi thấy vua chúa

đi đến chỗ Phật

hỏi pháp vô thượng,

rồi từ bỏ liền

đất nước thịnh vượng,

bỏ cả cung điện

đình thần hậu phi,

(21) cạo sạch râu tóc

mà mặc pháp y.

(22) Hoặc thấy bồ tát

mà làm tỷ kheo,

chỉ ở một mình

nơi chỗ thanh vắng,

vui vẻ thích thú

đọc tụng kinh điển.

(23) Lại thấy bồ tát

dũng mãnh tinh tiến,

vào chốn núi sâu

suy nghĩ trí Phật.

(24) Lại thấy bồ tát

tách rời dục vọng,

thường xuyên trú ở

những chỗ trống vắng,

tu sâu thuyền định

được năm thần thông.

(25) Lại thấy bồ tát

chân đứng vững vàng

tư tưởng tập trung

hai tay chắp lại,

đem cả ngàn vạn

bài văn chỉnh cú

hoan hỷ ca tụng

các đấng Pháp vương.

(26) Lại thấy bồ tát

trí sâu, nhớ chắc

có thể thưa hỏi

chánh pháp nơi Phật,

nghe rồi tiếp nhận

ghi nhớ đủ cả.

(27) Lại thấy con Phật

đủ cả định tuệ,

áp dụng vô số

mọi sự ví dụ,

diễn giảng chánh pháp

cho các chúng khác;

(28) lại vui thuyết pháp

giáo hóa bồ tát,

chiến thắng ma vương

và binh đội nó,

rồi gióng lớn lên

tiếng trống chánh pháp.

(29) Lại thấy bồ tát

vắng bặt im lặng,

trời rồng cung kính

không lấy làm mừng.

(30) Lại thấy bồ tát

ở trong núi rừng

mà phóng ánh sáng

cứu khổ địa ngục,

thức tỉnh cho họ

hướng vào trí Phật.

*

(31) Lại thấy con Phật

chưa từng ngủ nghỉ,

kinh hành trong rừng

siêng cầu trí Phật.

(32) Lại thấy có vị

giới pháp đầy đủ,

uy nghi vẹn toàn,

sạch sẽ trong suốt

in như ngọc quí

để cầu trí Phật.

(33) Lại thấy con Phật

trụ vào sức nhẫn,

bao kẻ thượng mạn

mắng nhiếc đánh đập

vẫn nhẫn được cả

để cầu trí Phật.

(34) Lại thấy bồ tát

từ bỏ trò chơi,

bỏ luôn những kẻ

thân thuộc ngu dốt,

chỉ biết thân gần

những người thánh trí,

(35) chuyên nhất tâm ý

trừ bỏ loạn động,

trú ở núi rừng

tập trung tư tưởng,

trải qua ức vạn

những năm như vậy

để cầu thành tựu

tuệ giác Phật đà.

(36) Hoặc thấy bồ tát

cỗ bàn quí trọng,

thức uống, đồ ăn,

các loại dược phẩm,

đều đem hiến cúng

Phật bảo Tăng bảo.

(37) Y phục danh tiếng

thượng hảo hạng,

giá trị ngàn vạn

hoặc đến vô giá,

đều đem hiến cúng

Phật bảo Tăng bảo.

(38) Nhà cửa quí báu

bằng gỗ đàn hương,

trong đó đồ nằm

rất tốt và đẹp,

nhà và đồ ấy

nhiều đến vạn ức,

đều đem hiến cúng

Phật bảo Tăng bảo.

(39) Vườn rừng quang đãng,

trong đó đủ cả

hoa trái tốt nhiều,

suối chảy ao tắm,

đều đem hiến cúng

Phật bảo Tăng bảo.

(40) Đồng đẳng như vậy,

họ đem hiến cúng

đủ hết những thứ

rất là tinh tế,

mà lòng hoan lạc

không biết nhàm chán,

chí quyết đạt đến

tuệ giác vô thượng.

(41) Hoặc có bồ tát

bằng nhiều minh chứng,

nói về nguyên lý

tuyệt đối vắng lặng,

huấn dụ vô số

các loại chúng sinh.

(42) Hoặc thấy bồ tát

xét thấy bản thể

tất cả vạn hữu

in như hư không:

không những khái niệm

thuộc về nhị biên.

Lại thấy con Phật

tâm không vướng mắc,

đem tuệ mầu này

cầu tuệ vô thượng.

*

(43) Văn Thù đại sĩ,

có những bồ tát

Phật nhập diệt rồi

hiến cúng xá lợi.

(44) Lại thấy con Phật

dựng bao chùa tháp

nhiều bằng Hằng sa

tô điểm quốc độ.

(45) Tháp thì tráng lệ,

làm bằng bảy báu,

chiều cao có đến

năm ngàn do tuần,

chu vi rộng đến

hai ngàn do tuần.

(46) Mỗi một chùa tháp

cờ phan cả ngàn,

màn được kết ngọc,

chuông nhỏ hòa reo,

tám bộ thiên long,

loài người loài khác,

thường đem hiến cúng

hoa hương, kịch nhạc.

(47) Văn Thù đại sĩ,

những con Phật ấy

chính vì hiến cúng

xá lợi của Phật

mà cố trang hoàng

những ngôi chùa tháp,

nên cả quốc độ

tự nhiên tráng lệ

tuyệt diệu tuyệt hảo,

in như cây chúa

của trời Đế Thích

toàn bộ nở hoa.

*

(48) Thế Tôn chỉ phóng

một đường ánh sáng

mà làm cho tôi

và cả đại hội

thấy quốc độ này

đủ mọi vẻ đẹp.

(49) Những thần thông lực

của đức Thế Tôn

thật là hiếm có:

chỉ phóng một đường

ánh sáng rực rỡ

mà chiếu khắp cả

vô lượng quốc độ.

(50) Làm cho chúng tôi

nhìn cảnh tượng này

ai cũng cảm được

sự chưa từng có.

Phật tử Văn Thù,

xin hãy giải thích

cho nỗi nghi ngờ

của cả đại hội.

(51) Tất cả bốn chúng

thích thú trông ngóng,

nhìn vào nhân giả

và nhìn vào tôi.

(52) Ai cũng muốn biết

tại sao Thế Tôn

phóng ra ánh sáng

đến như thế này?

(53) Phật tử Văn Thù,

hãy đáp ứng gấp,

giải tỏa nghi ngờ

cho họ hoan hỷ:

ích lợi nào

đức Thế Tôn

phóng ra ánh sáng

đến như thế này -

(54) Chánh pháp tinh túy

đức Thế Tôn

đã chứng ngộ được

trong khi mới ngồi

nơi bồ đề tràng,

ngài muốn tuyên thuyết

về chánh pháp ấy,

hay muốn thọ ký?

(55) Ánh sáng Thế Tôn

đã làm hiện ra

cho chúng tôi thấy

bao nhiêu cõi Phật

đẹp và sáng lên

với những ngọc quí,

lại được thấy cả

chư vị Phật đà,

thì đó không phải

sự kiện nhỏ.

(56) Văn Thù đại sĩ,

nên biết tất cả

bốn chúng tám bộ

và các chúng khác,

nhìn xem nhân giả

nói cho rhế nào?

Lúc ấy bồ tát Văn Thù nói với đức Di Lạc, và các vị đại sĩ khác, chư vị thiện nam tử, theo tôi suy xét thì đức Thế Tôn hiện nay muốn nói chánh pháp vĩ đại, đổ mưa chánh pháp vĩ đại, thổi loa chánh pháp vĩ đại, đánh trống chánh pháp vĩ đại, diễn nghĩa chánh pháp vĩ đại. Chư vị thiện nam tử, nơi chư Phật quá khứ, tôi đã từng thấy điềm lành như vậy. Các ngài phóng ra ánh sáng này rồi là nói về chánh pháp vĩ đại. Do đó, chư vị nên biết, đức Thế Tôn hiện nay phóng ra ánh sáng thì cũng sẽ làm như vậy. Muốn làm cho chúng sinh ai cũng nghe biết được cái pháp mà cả thế gian đều khó tin, nên đức Thế Tôn biểu hiện điềm lành như vầy.

Chư vị thiện nam tửû, như trong quá khứ, lâu đến rất nhiều thời kỳ vô số, bấy giờ có đức Phật danh hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, đủ mười đức hiệu: bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giáùc hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời. Ngài tuyên thuyết chánh pháp một cách phần đầu phần giữa phần cuối ba phần đều tuyệt hảo, nghĩa lý sâu xa, lời tiếng tuyệt diệu, thuần nhất không tạp, đủû hết sắc thái phạn hạnh trắng trong. Ấy là người cầu Thanh văn thì nói mà đáp ứng bằng bốn chân lý, để họ vượt qua sinh, già, bịnh, chết, cứu cánh niết bàn; người cầu Duyên giác thì nói mà đáp ứng bằng mười hai duyên khởi; còn các vị Bồ tát thì nói mà đáp ứng bằng sáu ba la mật, làm cho họ được tuệ giác vô thượng, nghĩa là thành bậc Tuệ giác biết tất cả.

Kế đó lại có đức Phật cũng tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, kế đó nữa lại có đức Phật cũng tên Nhật Nguyệt Đăng Minh. Như vậy có hai mươi ngàn đức Phật đều cùng một tên, tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, và cùng một họ, họ Phả La Đọa. Di Lạc đại sĩ, đại sĩ nên biết, đức Phật đầu tiên cũng như đức Phật cuối cùng đều cùng một tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, cùng đủ mười đức hiệu, và pháp mà các ngài tuyên thuyết cũng phần đầu phần giữa phần cuối ba phần đều tuyệt hảo. Đức Phật cuối cùng, khi chưa xuất gia, có tám vương tử, thứ nhất tên Hữu Ý, thứ hai tên Thiện Ý, thứ ba tên Vô Lượng Ý, thứ tư tên Bảo Ý, thứ năm tên Tăng Ý, thứ sáu tên Trừ Nghi Ý, thứ bảy tên Hướng Ý, thứ tám tên Pháp Ý. Cả tám vương tử đều uy đức tự tại, thống lãnh bốn đại lục. Khi nghe phụ hoàng xuất gia, thành tựu tuệ giác vô thượng, thì tám vương tử ấy cùng bỏ ngôi vua mà xuất gia theo, phát tâm Đại thừa, thường hành phạn hạnh, và cùng làm pháp sư, vì đã từng gieo trồng các gốc rễ điều lành ở nơi ngàn vạn đức Phật. Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng đã nói bản kinh Đại thừa tên Nghiã Vô Lượng, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Nói kinh ấy rồi, đức Phật ấy cũng đã ở ngay giữa đại hộingồi xếp bằng, nhập định vị trí của nghiã vô lượng, thân thểtâm trí đều không dao động. Lúc ấy chư thiên cũng mưa xuống hoa Mạn Đà, hoa Mạn Đà lớn, hoa Mạn Thù, hoa Mạn Thù lớn, rải trên đức Phật và cả đại hội. Khắp cõi Phật này cũng chấn động đủ hết sáu cách. Trong đại hội, bốn chúng, tám bộ và các chúng khác, hết thảy các chúng như vậy cũng được sự chưa từng có, hoan hỷ, chắp tay, chuyên chúchiêm ngưỡng đức Phật. Còn đức Phật thì cũng từ nơi tướng lông trắng giữa hai đầu của hai hàng lông mày phóng ra ánh sáng, chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở về hướng đông, không cõi Phật nào mà không chiếu soi khắp cả, y như những cõi Phật mà ngày nay chư vị đang thấy.

Di Lạc đại sĩ, đại sĩ nên biết, trong đại hội lúc ấy có hai mươi ức bồ tát ưa thích nghe pháp. Các vị bồ tát này thấy ánh sáng của Phật chiếu khắp các cõi Phật như vậy thì cũng được sự chưa từng có, và cũng muốn biết mục đích của ánh sáng ấy. Bấy giờ có một vị bồ tát tên Diệu Quang, có tám trăm đệ tử. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh xuất định, nhân bồ tát Diệu Quang mà nói bản kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Ngài nói đến sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ, không đứng dậy khỏi pháp tòa. Đại hội thính giả lúc ấy cũng ngồi một chỗ, trải qua sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ mà thân thểtâm trí đều bất động, nghe đức Phật nói thì cho rằng chỉ bằng thì gian một bữa ăn. Cả đại hội không một ai mà thân thể hay tâm trí sinh nhác sinh mệt. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói kinh Pháp Hoa trong sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ rồi, liền ở giữa đại hội các chúng phạn vương, ma vương, sa môn, bà la môn, và chư thiên, nhân loại, tu la, tuyên ngôn rằng giữa đêm hôm nay Như Lai sẽ nhập niết bàn hoàn toàn.

Bấy giờ có bồ tát tên Đức Tạng, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh liền thọ ký cho, bằng cách nói với chư vị Tỷ kheo, rằng vị bồ tát Đức Tạng này sẽ kế tiếp làm Phật, danh hiệu Tịnh Thân, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và kháép. Thọ ký rồi, ngay giữa đêm ấy, đức Phật nhập niết bàn hoàn toàn. Sau đó bồ tát Diệu Quang ghi nhớ Pháp Hoa, diễn giảng cho người trọn tám mươi thời kỳ bậc nhỏ. Tám vương tử con đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều tôn thờ bồ tát Diệu Quang làm thầy, bồ tát ấy giáo hóa, làm cho tám vương tử vững chắc đối với tuệ giác vô thượng. Tám vương tử, sau đó, phụng sự rất nhiều ức đức Phật rồi, được thành Phật cả, và vị thành Phật cuối cùng danh hiệu là Nhiên Đăng. Trong tám trăm đệ tử của bồ tát Diệu Quang, có một vị tên là Cầu Danh, đam mê danh lợi, dẫu cũng đọc tụng kinh pháp mà không thông suốt, phần nhiều quên mất, nên mới có cái tên Cầu Danh. Nhưng vị này cũng nhờ sự gieo trồng các gốc rễ điều lành mà được gặp rất nhiều ức đức Phật, hiến cúng, cung kính, tôn trọngtán dương. Di Lạc đại sĩ, đại sĩ nên biết bồ tát Diệu Quang lúc ấy đâu phải ai khác, mà chính là tôi đây, còn bồ tát Cầu Danh thì chính là đại sĩ. Ngày nay thấy điềm lành như vầy so với ngày xưa không khác gì cả, nên tôi nghĩ rằng đức Thế Tôn hiện nay sẽ tuyên thuyết về bản kinh Đại thừa tên là Pháp Hoa, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn.

Lúc ấy, ở giữa đại hội, bồ tát Văn Thù muốn lập lại ý nghiã đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(57) Tôi nhớ quá khứ

vô số thời kỳ,

đức Phật đà,

bậc tôn cao nhất,

danh hiệu ngài là

Nhật Nguyệt Đăng Minh.

(58) Đức Phật đà ấy

tuyên thuyết chánh pháp

hóa độ vô lượng

các loại chúng sinh,

vô số ức

các vị Bồ tát,

làm cho vào được

tuệ giác Phật đà.

(59) Có tám vương tử

con của Phật sinh

lúc chưa xuất gia,

thấy Phật xuất gia

cũng xuất gia theo

thực hành phạn hạnh.

(60) Bấy giờ Phật nói

bản kinh đại thừa

tên Nghĩa Vô Lượng,

giảng giải rộng rãi

nghĩa lý vô lượng

cho cả đại hội.

(61) Phật tuyên thuyết xong

bản kinh ấy rồi,

liền ngồi xếp bằng

ngay trên pháp tòa,

nhập định Vị trí

của nghĩa vô lượng.

(62) Chư thiên mưa xuống

hoa mạn đà la,

và trống chư thiên

tự kêu vang rền;

tám bộ thiên long

dùng hoa trống ấy

hiến cúng lên bậc

tôn cao nhất người.

(63) Toàn cõi Phật này

đồng thời chấn động.

Và rồi đức Phật

phóng ra ánh sáng

từ nơi lông trắng

giữa hai đầu mày,

biểu hiện đủ cả

cảnh tượng hiếm có.

*

(64) Ánh sáng như vậy

chiếu soi một vạn

tám ngàn cõi Phật

ở về hướng đông,

biểu hiện cho thấy

tất cả những chỗ

các loại chúng sinh

sinh ra chết đi,

hành động lành dữ,

hưởng chịu tốt xấu.

(65) Lại được nhìn thấy

có những cõi Phật

toàn thể trang hoàng

bằng bao vàng ngọc,

ánh lên màu sắc

lưu ly pha lê;

đại hội thấy được

đến như thế này

là do ánh sáng

của Phật chiếu soi.

(66) Lại thấy tất cả

tám bộ thiên long

cùng với nhân loại

tại mỗi quốc độ

cùng nhau hiến cúng

đức Phật của mình.

(67) Lại thấy chư Phật

tự thành Phật tuệ,

thân như núi vàng

cực kỳ tráng lệ.

Các ngài ở giữa

đại hội thánh hiền

diễn giảng nghĩa ý

của pháp sâu xa,

thì trông giống như

những tượng vàng thật

hiện trong các khối

lưu ly trong suốt.

(68) Trong mỗi cõi Phật,

thanh văn vô số,

cũng nhờ ánh sáng

của Phật chiếu soi

mà thấy rõ cả

chúng thanh văn ấy.

(69) Thấy chư tỷ kheo

ở trong núi rừng,

tinh tiến giữ giới

như giữ ngọc sáng.

(70) Lại thấy bồ tát

nỗ lực bố thí

kiên trì nhẫn nhục,

số bồ tát ấy

nhiều như hằng sa

mà thấy được cả,

là do ánh sáng

của Phật chiếu soi.

(71) Thấy các bồ tát

tinh tiến nhập định

một cách sâu xa,

thân tâm bất động,

đem thiền định ấy

cầu trí vô thượng.

(72) Thấy các bồ tát

biết rất thấu suốt

thật tướng vắng lặng

của tất cả pháp,

thuyết thật tướng ấy

nơi quốc độ mình,

đem bát nhã này

cầu thành trí Phật.

(73) Bấy giờ bốn chúng

được thấy đức Phật

Nhật Nguyệt Đăng Minh

biểu hiện thần lực

đến như thế ấy,

lòng họ hoan hỷû

và cùng hỏi nhau,

rằng cảnh tượng này

lý do nào

mà Phật biểu hiện?

*

(74) Khi ấy đức Phật,

đấng mà trời người

ai cũng tôn thờ,

vừa mới xuất định,

tức thì khen ngợi

bồ tát Diệu Quang:

(75) Ông là con mắt

của cả thế gian!

Ai cũng qui về

tin tưởng nơi ông!

Ông kính giữ được

kho tàng chánh pháp!

Kho tàng chánh pháp

mà rồi Như Lai

sẽ nói hết ra,

chỉ ông chứng biết!

(76) Đức Phật khen ngợi

làm cho bồ tát

Diệu Quang hoan hỷ,

rồi nói Pháp Hoa

suốt hết sáu mươi

thời kỳ bậc nhỏ.

(77) Và pháp tối thượng

tuyệt diệu như vậy

được Phật tuyên thuyết

mà không đứng dậy

rời khỏi pháp tòa,

pháp sư Diệu Quang

vẫn tiếp nhận được

và ghi nhớ cả.

(78) Đức Phật tuyên thuyết

về kinh Pháp Hoa

làm cho các chúng

hoan hỷ cả rồi,

liền trong ngày ấy

ngài bảo các chúng:

(79) Thật tướng các pháp

Như Lai đã đem

nói cho các người.

Giữa đêm hôm nay

Như Lai sẽ nhập

niết bàn hoàn toàn.

(80) Các người cần phải

một lòng tinh tiến

chuyên chú vào pháp

Như Lai đã nói,

còn sự phóùng dật

nên tránh thật xa;

vì lẽ chư Phật

rất là khó gặp,

vạn ức thời kỳ

mới thấy một lần.

(81) Đệ tử của Phật

nghe Phật loan báo

sắp sửa nhập diệt,

ai cũng đau buồn

nghĩ Phật nhập diệt

sao mà mau chóng.

(82) Vị chúa thánh triết

và vua các pháp

an ủi các chúng:

sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi

các người đừng lo.

(83) Bồ tát Đức Tạng

tâm trí thấu triệt

thật tướng thuần khiết,

sẽ kế Như Lai

thành đức Phật đà

danh hiệu Tịnh Thân,

và cũng hóa độ

vô lượng các chúng.

(84) Rồi giữa đêm ấy

đức Phật nhập diệt

như củi mà hết

thì lửa cũng tắt.

Sau đó xá lợi

được phân bủa ra

xây dựng lên

vô số bảo tháp.

(85) Chư vị tỷ kheo

tỷ kheo ni

số lượng nhiều đến

như cát sông Hằng,

lại càng nỗ lực

tinh tiến hơn lên

để cầu đạt được

tuệ giác vô thượng.

*

(86) Phần ngài Diệu Quang,

pháp sư bồ tát,

kính giữ kho tàng

chánh pháp của Phật,

trải qua tám mươi

thời kỳ bậc nhỏ

tuyên thuyết rộng rãi

Diệu Pháp Liên Hoa.

(87) Còn tám vương tử

thì nhờ bồ tát

Diệu Quang khai hóa,

tất cả đều được

vững chắc đối với

tuệ giác vô thượng,

nên sau gặp được

vô số Phật đà.

(88) Các vị phụng sự

chư Phật như vậy,

cùng nhau đi theo

con đường vĩ đại,

nên kế tiếp nhau

được thành Phật cả,

và theo thứ tự

thọ ký cho nhau.

(89) Đức Phật cuối cùng,

vị trời nhất trời,

danh hiệu ngài là

Nhiên Đăng Như Lai,

bậc thầy dẫn đạo

các vị hiền triết,

độ cho giải thoát

vô số các chúng.

(90) Pháp sư Diệu Quang

có một đệ tử

tính thường biếng nhác

đam mê danh lợi,

(91) cầu hồ danh lợi

một cách không chán,

nên hay giao du

với nhà dòng dõi,

bỏ bê kinh pháp

đã được tụng tập,

nên hay quên mất

chứ không thông suốt.

(92) Vì lý do ấy

có tên Cầu Danh.

(93) Nhưng cũng thực hành

đủ các pháp lành,

gặp được vô số

chư vị Phật đà,

phụng sự hiến cúng

Phật đà như vậy

và cũng đi theo

con đường vĩ đại,

hoàn thiện sáu pháp

đến bờ bên kia,

nên nay lại gặp

Sư tử họ Thích.

(94) Thì gian sau ngài,

sẽ kế làm Phật

với danh hiệu

Di Lạc từ tôn,

cứu độ rộng rãi

các loại chúng sinh

mà số lượng ấy

không thể tính kể.

*

(95) Sau khi đức Phật

Nhật Nguyệt Đăng Minh

nhập niết bàn rồi,

người hay biếng nhác

chính là đại sĩ,

còn vị pháp sư

bồ tát Diệu Quang

bản thân tôi.

(96) Chính tôi xưa kia

Ở nơi đức Phật

Nhật Nguyệt Đăng Minh

đã từng thấy được

điềm lành ánh sáng

như tôi vừa nói.

(97) Vì vậy tôi biết

Thế Tôn ngày nay

chủ ý muốn nói

về kinh Pháp Hoa.

(98) Cảnh tượng hiện nay

giống điềm lành cũ,

và là phương tiện

của chư Thế Tôn:

Thế Tôn ngày nay

phóng ánh sáng lớn

là để hổ trợ

phát hiện thật tướng.

(99) Chư vị nên biết

chủ ý như vậy,

và hãy chắp tay

nhất tâm mà chờ.

Thế Tôn sẽ đổ

nước mưa chánh pháp,

sung túc những người

cầu tuệ giác Phật.

(100) Tất cả những người

cầu ba cỗ xe

nếu có điều gì

hoài nghi hối tiếc,

thì vị Toàn giác

sẽ giải trừ cho -

giải trừ sạch hết,

không còn sót lại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11533)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11249)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17862)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9852)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11881)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12466)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12560)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19475)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13019)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11519)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12661)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12520)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12090)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16510)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant