Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 6: Thọ ký

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9913)
Phẩm 6: Thọ ký

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp)
Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch

Cuốn ba

Phẩm 6: Thọ ký

Nói những lời chỉnh cú trên đây rồi, đức Thế Tôn tuyên cáo với toàn thể đại hội các chúng: Đại đệ tử của Như Laitôn giả Đại Ca Diếp đây, trong thì vị lai, sẽ được phụng sự ba trăm vạn ức chư Phật Như Lai, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương, tuyên thuyết rộng rãi vô số chánh pháp vĩ đại của các ngài, rồi thân cuối cùng thành đức Phật đà danh hiệu Quang Minh Như Lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độ tên Quang Đức, thời kỳ tên Đại trang nghiêm. Quang Minh Như Lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại hai mươi thời kỳ bậc nhỏ. Quốc độ huy hoàng, không có những thứ dơ và xấu như ngói sỏi gai góc và đại tiểu tiện lợi. Quốc độ ấy lại bằng thẳng, không có cao thấp, hầm hố gò đống. Đất bằng lưu ly, cây ngọc thành hàng, dây hoàng kim phân chia lề đường. Rải các hoa quí, đâu cũng sạch sẽ. Trong quốc độ ấy chúng bồ tát vô số ngàn ức, chúng thanh văn cũng vô lượng như vậy. Không có việc ma; vua ma và dân ma tuy có, nhưng toàn là những kẻ hộ trì Phật pháp. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa đã nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Này chư tỷ kheo,

Như Lai sử dụng

con mắt Phật đà

nhìn thấy tôn giả

Đại Ca Diếp đây

trong thì vị lai

vô số thời kỳ

sẽ thành Phật đà.

(2) Vị lai tôn giả

phụng sự hiến cúng

ba trăm vạn ức

chư Phật Như Lai,

tuệ giác Phật

mà tu phạn hạnh.

(3) Sau khi phụng sự

chư Phật Như Lai

phước tuệ tối thượng

biết khắp tất cả,

thì thân cuối cùng

được thành đức Phật.

(4- Quốc độ sạch sẽ,

6) lưu ly làm đất.

Có lắm cây ngọc

hàng lối bên đường.

Dây vàng chia đường

ai thấy cũng thích.

Cây phát hương thơm,

rải xuống hoa quí

đủ loại đẹp lạ,

sử dụng trang hoàng.

Đất ấy bằng thẳng,

không có hố đồi.

(7) Chúng chư bồ tát

thì hết tính toán,

tâm trí thuần hóa

được đại thần lực,

kính giữ kinh pháp

đại thừa của Phật.

(8) Chúng chư thanh văn

toàn thân cuối cùng,

không còn phiền não,

làm con Pháp vương,

số lượng các ngài

cũng khó tính toán,

dùng mắt chư thiên

đếm cũng không nổi.

(9) Quang Minh Như Lai

sống lâu mười hai

thời kỳ bậc nhỏ,

giáo pháp nguyên chất

tồn tại hai mươi

thời kỳ bậc nhỏ,

giáo pháp tương tự

tồn tại cũng vậy.

Quang Minh Như Lai

việc ngài như thế.

Bấy giờ tôn giả Mục kiền Liên, tôn giả Tu bồ Đềtôn giả Ca chiên Diên, đều chấn động cả người, chuyên chúchắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mắt không rời ngài một thoáng, và đồng thanh thưa ngài bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(10) Bạch đức Thế Tôn

bậc đại hùng lực!

thưa đấng Pháp vương

dòng họ Thích Ca!

xin ngài thương xót

hết thảy chúng con,

ban cho chúng con

tiếng nói của Phật.

(11) Thế Tôn nếu biết

thâm tâm chúng con,

trao cho chúng con

lời ghi làm Phật,

thì như rưới nước

cam lộ mát ngọt

làm cho chúng con

hết nóng được mát.

(12) Y như những kẻ

đến từ nước đói,

bỗng gặp cỗ bàn

của đức vua lớn,

nhưng còn nghi sợ

chưa dám dùng liền,

nếu được vua bảo

mới dám ăn dùng.

(13) Chúng con cũng vậy,

thường nghĩ nhược điểm

của pháp thấp nhỏ,

không biết làm sao

sẽ được tuệ giác

vô thượng của Phật.

(14) Dẫu chúng con nghe

Thế Tôn đã nói

chúng con rồi ra

sẽ làm Phật cả,

nhưng còn lo sợ

chưa dám dùng ngay.

(15) Nếu được đội ơn

Thế Tôn thọ ký,

chúng con mới được

yên vui hoàn toàn.

(16) Bạch đức Thế Tôn,

đấng đại hùng lực

thường muốn yên vui

cho cả thế giới!

xin ngài ban cho

lời ghi làm Phật,

như kẻ đang đói

cần bảo dùng đi!

Đức Thế Tôn biết lòng mong ước của các vị đại đệ tử, nên bảo chư vị tỷ kheo, vị tôn giả Tu bồ Đề này trong thì vị lai, phụng sự nhiều lần trăm triệu chư Phật Như Lai, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương, thường tu phạn hạnh, đi trọn đường đi bồ tát, và thân cuối cùng được thành Phật đà, danh hiệuDanh Tướng Như Lai, đủ mười đức hiệu. Thời kỳ của ngài tên là Hữu bảo, quốc độ của ngài tên là Bảo sinh. Quốc độ ấy bằng thẳng, đất là pha lê, cây ngọc tráng lệ, không có núi đồi, hầm hố, cát sỏi, gai góc, tiện lợi dơ bẩn. Hoa quí phủ đất, đâu cũng sạch sẽ. Người quốc độ ấy đều ở đài ngọc và lầu ngọc. Đệ tử của đức Danh Tướng Như Lai thuộc chúng thanh văn thì vô lượng vô biên, toán số ví dụ không thể xác định; thuộc chúng bồ tát thì nhiều lần trăm triệu. Danh Tướng Như Lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại hai mươi thời kỳ bậc nhỏ. Danh Tướng Như Lai thường đứng trong không gianthuyết pháp cho các chúng, hóa độ vô lượng bồ tátthanh văn. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa đã nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(17) Này chư tỷ kheo,

nay bảo chư vị

hãy cùng nhất tâm

nghe Như Lai nói.

Vị đại đệ tử

Tu bồ Đề này

sẽ thành Phật đà

hiệu là Danh Tướng.

(18) Sau khi phụng sự

vô số chư Phật,

đi theo đường hướng

chư Phật đã đi,

dần dần hoàn chỉnh

tuệ giác vĩ đại;

(19) thì thân cuối cùng

đủ bâm hai tướng,

trang nghiêm tráng lệ

tựa như núi ngọc.

(20) Quốc độ của đức

Danh Tướng Như Lai

đẹp sạch bậc nhất

ai thấy cũng thích.

Ngài ở trong không

của quốc độ ấy

thuyết pháp hóa độ

vô lượng các chúng.

(21) Trong giáo pháp ngài

có nhiều bồ tát,

toàn là những bậc

các căn lanh lợi,

chuyển đẩy bánh xe

pháp không thoái chuyển.

Quốc độ của ngài

thường lấy các vị

bồ tát như vậy

làm sự trang hoàng.

(22) Chúng chư thanh văn

không thể tính toán,

được ba minh trí

và sáu thần thông,

đặt mình vững vàng

trong tám giải thoát,

vị nào cũng có

uy đức rất lớn.

(23) Danh Tướng Như Lai

thuyết pháp thì hiện

vô lượng thần biến

siêu việt nghĩ bàn,

chư thiên nhân loại

nhiều bằng hằng sa

đều chắp tay lại

nghe nhận lời ngài.

(24) Ngài sống mười hai

thời kỳ bậc nhỏ,

giáo pháp nguyên chất

tồn tại hai mươi

thời kỳ bậc nhỏ,

giáo pháp tương tự

cũng được tồn tại

với thì gian ấy.

Đức Thế Tôn lại bảo chư vị tỷ kheo, Như Lai bây giờ lại tuyên cáo với chư vị, vị tôn giả Ca chiên Diên này, trong thì vị lai, đem những cúng phẩm mà hiến cúng, phụng sự tám ngàn ức chư Phật Như Lai, cung kính, tôn trọng. Sau khi các ngài nhập diệt, đối với ngài nào tôn giả Ca chiên Diên cũng xây dựng bảo tháp cao một ngàn do tuần, và chu vi năm trăm do tuần, toàn đem bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu và mai khôi, bảy chất liệu quí báu như vậy hợp lại tạo thành. Lại hiến cúng các bảo tháp ấy bằng các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù và tràng phan. Sau đó tôn giả Ca chiên Diên còn phụng sự hai vạn ức chư Phật Như Lai nữa, cũng với sự hiến cúng như trên. Phụng sự chư Phật Như Lai, đi trọn đường đi bồ tát rồi, tôn giả Ca chiên Diên sẽ thành đức Phật đà với danh hiệuDiêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độ của ngài bằng thẳng và đất là pha lê, cây ngọc tráng lệ, dây hoàng kim phân chia lề đường, hoa đẹp phủ đất, khắp nơi sạch sẽ, ai nhìn cũng thích. Không có bốn đường dữ là địa ngục, ngạ quỉ, súc sinhtu la, mà lại có nhiều chư thiênnhân loại. Còn thanh văn chúng và bồ tát chúng thì vô số vạn ức, trang hoàng cho quốc độ ấy. Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại hai mươi thời kỳ bậc nhỏ. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa đã nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(25) Chư vị tỷ kheo,

nhất tâm mà nghe!

Như Lai lại nói

lời không sai lầm.

(26) Đại Ca chiên Diên

sẽ đem bao nhiêu

cúng phẩm tốt đẹp

hiến cúng chư Phật.

Chư Phật nhập diệt,

dựng tháp bảy báu

và đem hoa hương

hiến cúng xá lợi.

(27-Nên thân cuối cùng

28) được tuệ giáùc Phật,

trở thành một đấng

Biết đúng và khắp,

với một quốc độ

cực kỳ sạch sẽ,

hóa độ vô số

vạn ức chúng sinh,

lại được mười phương

ai cũng hiến cúng.

Ánh sáng của ngài

không ai hơn được

nên được danh hiệu

Diêm Phù Kim Quang.

(29) Bồ tát thanh văn

đã cắt buộc ràng

vào cõi sống chết

thì nhiều vô số,

làm cho trang nghiêm

quốc độ của ngài.

Đức Thế Tôn lại bảo đại hội các chúng, bây giờ Như Lai lại tuyên cáo với chư vị, vị tôn giả Mục Kiền Liên này, trong thì vị lai, đem những cúng phẩm mà hiến cúng tám ngàn chư Phật Như Lai, cung kính, tôn trọng. Sau khi các ngài nhập diệt, đối với ngài nào tôn giả Mục Kiền Liên cũng xây dựng bảo tháp cao đến một ngàn do tuần và chu vi rộng đến năm trăm do tuần, toàn đem bảy chất liệu qúy báu hợp lại tạo thành. Lại đem các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù và tràng phan mà hiến cúng bảo tháp ấy. Sau đó tôn giả phụng sự hai trăm vạn ức chư Phật Như Lai nữa, cũng với sự hiến cúng như trên, rồi thành đức Phật đà với danh hiệu Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Như Lai, đủ mười đức hiệu. Thời kỳ của ngài tên là Hỷ Mãn, quốc độ của ngài tên là Ý Lạc. Quốc độ ấy bằng thẳng và đất là pha lê, cây ngọc tráng lệ, rải hoa ngọc chân châu, đâu cũng sạch sẽ, ai thấy cũng thích. Rất nhiều chư thiênnhân loại. Bồ tátThanh văn thì vô lượng vô số. Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Như Lai sống lâu hai mươi bốn thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian bốn mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại bốn mươi thời kỳ bậc nhỏ. Đức Thế tôn lập lại ý nghiã đã nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(30) Đệ tử Như Lai

Đại Mục Kiền Liên

bỏ thân này rồi

được gặp tám ngàn

hai trăm vạn ức

chư Phật Như Lai.

(31) Để được thực hiện

tuệ giác Phật đà,

tôn giả tôn kính

phụng sự các ngài,

nơi chỗ các ngài

thường tu phạn hạnh.

(32-33) Vô lượng thời kỳ

tôn giả kính giữ

tất cả giáo pháp

của chư Phật ấy.

Và khi các ngài

nhập Niết bàn rồi

tôn giả xây dựng

những tháp bảy báu,

lại dựng trụ vàng

tiêu biểu lâu dài,

rồi đem hoa hương

và tấu nhạc khí

cung kính hiến cúng

những tháp Phật ấy.

(34) Dần dần hoàn bị

đường đi Bồ tát,

tại cõi Ý Lạc

thành Phật với hiệu

Đa Ma La Bạt

Đàn Hương Như Lai.

(35) Đức Như Lai ấy

sống lâu hăm bốn

thời kỳ bậc nhỏ,

thường xuyên tuyên thuyết

giáo pháp Phật đà

cho cả trời người.

(36) Đệ tử Thanh văn

vô số vô lượng

nhiều bằng hằng sa,

đủ ba minh trí

và sáu thần thông

uy đức rất lớn.

(37) Đệ tử Bồ tát

vô lượng vô biên,

trí nhớ cứng chắc

tinh tiến thường trực,

đối với trí Phật

không ai thoái chuyển.

(38) Phật nhập diệt rồi

giáo pháp nguyên chất

tồn tại bốn chục

thời kỳ bậc nhỏ,

giáo pháp tương tự

tồn tại cũng vậy.

Đệ tử Như Lai

uy đức toàn vẹn

số có năm trăm,

sẽ được thọ ký

trong thì vị lai

đều thành Phật đà.

Và sự tương quan

từ thời xa xưa,

liên hệ Như Lai

cùng với chư vị,

Như Lai sắp nói,

chư vị khéo nghe!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33129)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6520)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11240)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30425)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7962)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12158)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12229)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12780)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34710)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9827)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52235)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10722)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10491)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10696)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10444)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13050)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16231)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21805)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9594)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7100)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10370)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12712)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12759)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16205)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16507)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13836)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16559)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12095)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13785)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14302)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9177)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11729)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16278)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14325)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16185)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12681)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12059)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11784)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15642)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11494)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14011)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11995)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12606)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14972)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11943)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13106)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14509)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20654)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13187)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10924)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20668)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14331)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20341)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17626)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13998)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31842)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12004)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant