Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 8: Năm trăm đệ tử tiếp nhận thọ ký

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9149)
Phẩm 8: Năm trăm đệ tử tiếp nhận thọ ký

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp)
Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch

Cuốn 4

Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận tam bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa.

Mở đầu kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:

Kính lạy kinh Diệu pháp Liên hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoatiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

__________

 

Phẩm 8: Năm trăm đệ tử tiếp nhận thọ ký

 

Lúc ấy tôn giả Phú lâu Na, từ nơi đức Thế Tôn, được nghe sự tùy nghi thuyết pháp của tuệ giácphương tiện, nghe trao cho chư vị đại đệ tử lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, nghe sự tương quan từ bao đời trước, nghe thần lực đại tự tại của đức Thế Tôn, nên được sự chưa từng có, tâm trí trong sáng, phấn chấn, tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, bước đến trước đức Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài, rồi đứng lui một khoảng, chiêm ngưỡng dung nhan của ngài mà mắt không tạm thời rời ra, trong lòng nghĩ rằng đức Thế Tôn rất kỳ lạ, việc ngài làm thật hiếm có. Ngài thích ứng với bao nhiêu thành phần của thế gian, sử dụng tuệ giácphương tiệnthuyết pháp cho họ, kéo họ ra khỏi mọi chỗ tham đắm vướng mắc. Đối với đức tính của đức Thế Tôn, lời nói chúng ta không thể nói hết. Chỉ có đức Thế Tôn mới biết ước nguyện căn bản trong tâm lý sâu xa của chúng ta.

Vào lúc ấy đức Thế Tôn bảo, chư vị tỷ kheo, chư vị thấy tôn giả Phú lâu Na đây không? Như Lai thường ca tụng tôn giả là người bậc nhất trong những người thuyết pháp, lại thường tán dương công đức của tôn giả tinh tiến duy trì và góp sức tuyên dương đối với chánh pháp của Như Lai: có năng lực ở trong bốn chúng mà trình bày, thuyết phục, khuyến khích và tán thưởng cho họ, giải thích phong phú chánh pháp của Như Laiích lợi lớn lao cho những người đồng hành phạn hạnh. Ngoại trừ Như Lai, không ai cùng tận được sự biện thuyết của tôn giả. Chư vị đừng nói tôn giả Phú lâu Na chỉ có năng lực duy trìtuyên dương chánh pháp của Như Lai mà thôi. Nơi chín mươi ức chư Phật quá khứ, tôn giả cũng đã duy trìtuyên dương chánh pháp của các ngài. Trong những người thuyết pháp của các ngài, tôn giả cũng đứng bậc nhất. Tôn giả rõ ràng thấu suốt về Không mà chư Phật ấy nói, được bốn trí thông suốt, thường xuyên thuyết pháp một cách xác tín, trong sạch, không còn nghi hoặc. Tôn giả có đủ thần lực bồ tát, và sống lâu bao nhiêu thì thực hành phạn hạnh bấy nhiêu. Người của mọi thời kỳ chư Phật ấy ai cũng nói vị này thật là thanh văn, và tôn giả cũng đem phương tiện như vậy mà ích lợi vô số trăm ngàn chúng sinh. Tôn giả lại giáo hóa vô lượng vô số chúng sinh, làm cho họ đứng trong tuệ giác vô thượng. Nói tóm, vì mục đích tịnh hóa quốc độtôn giả thường làm việc Phật làm là giáo hóa chúng sinh. Chư vị tỷ kheo, trong thời kỳ bảy đức Phật, tôn giả Phú lâu Na cũng là người đứng bậc nhất trong những người thuyết pháp. Thời kỳ chư Phật đương lai trong Hiền kiếp này, tôn giả cũng vẫn là người bậc nhất trong những người thuyết pháp, cũng vẫn duy trìtuyên dương chánh pháp của chư Phật ấy. Thời kỳ vị lai sau đó nữa, tôn giả cũng duy trìtuyên dương chánh pháp của vô lượng vô biên chư Phật, cũng giáo hóa ích lợi vô số chúng sinh cho họ đứng trong tuệ giác vô thượng, cũng vì mục đích tịnh hóa quốc độthường xuyên tinh tiến giáo hóa chúng sinh.

Khi hoàn bị dần dần về đường đi như vậy của bồ tát, qua vô lượng thời kỳ vô số rồi, tôn giả Phú lâu Na sẽ ở chính nơi quốc độ này mà thành tựu tuệ giác vô thượng, danh hiệuPháp Minh Như Lai, đủ mười đức hiệu. Pháp Minh Như Lai lấy những đại thiên thế giới nhiều bằng cát sông Hằng mà làm một cõi Phật của mình, đất là bảy chất liệu quí báu, bằng phẳng như bàn tay, không có núi gò, khe suối, ngòi lạch, hang hóc. Lầu đài bằng bảy chất liệu quí báu thì tràn đầy cõi Phật ấy. Cung điện chư thiên thì ở gần trong không gian, nên người với trời giao tiếp, hai bên thấy nhau được cả. Cõi Phật ấy không có đường dữ, nữ nhân cũng không. Mọi người đều sinh ra bằng sự biến hóa, không có dâm dục. Ai cũng có thần thông quảng đại, thân phát ánh sáng, bay đi tự tại, trí nhớ vững chắc, tinh tiến, trí tuệ. Thân người nào cũng màu hoàng kim, tự trang hoàng bằng ba mươi hai tướng tốt. Cả cõi Phật ấy ai cũng thường ăn bằng hai sự ăn: ăn bằng cái vui chánh pháp và ăn bằng cái vui thiền định. Có chúng chư bồ tát nhiều đến hàng ức trăm triệu, đều được thần thông quảng đại và bốn trí thông suốt, khéo léo giáo hóa các loại chúngsinh. Còn chúng chư thanh văn thì toán số không thể xác định, vị nào cũng trọn vẹn sáu thần thông, ba minh trítám giải thoát. Cõi Phật của đức Pháp Minh Như Lai sẽ có vô lượng thành quả trang nghiêm như vậy. Thời kỳ của ngài tên là Bảo Minh, cõi Phật của ngài tên là Thiện tịnh, và ngài sống lâu đến vô lượng thời kỳ vô số, giáo pháp tồn tại cũng cực kỳ lâu dài. Ngài nhập diệt rồi, những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu được xây dựng lên khắp cả cõi Phật.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Chư vị tỷ kheo,

hãy nghe cho kỹ:

con Phật hoàn thành

đường đi của mình

với những phương tiện

đã khéo học tập,

cho nên khó thể

nghĩ bàn về họ.

(2) Thấu hiểu chúng sinh

thích giáo pháp nhỏ

và rất e sợ

tuệ giác vĩ đại,

nên các vị ấy

chính là bồ tát

mà làm thanh văn

hay làm duyên giác.

(3) Áp dụng vô số

cách thức phương tiện,

các vị giáo hóa

đủ loại chúng sinh,

trong khi tự xưng

mình là thanh văn

cách biệt xa vời

tuệ giác của Phật.

(4) Các vị hóa độ

vô lượng các chúng,

làm cho ai nấy

đều được thành thục:

dẫu ai lúc đầu

ưa thích thấp nhỏ

và hơi biếng nhác,

nhưng rồi các vị

dần dần làm cho

sẽ thành Phật cả.

(5) Ở trong cất chứa

phẩm chất bồ tát

bề ngoài hiện ra

hình dáng thanh văn,

các vị tỏ ra

ít sự ham muốn

chán sự sống chết,

nhưng thật các vị

tựï làm trong sạch

cõi Phật của mình.

(6) Lại còn tỏ ra

tham sân si,

tỏ ra thích nghi

hình thức tà kiến.

(7) Đệ tử Như Lai

làm đến như vậy

để mà phương tiện

hóa độ chúng sinh.

Như Lai nói hết

những sự biểu hiện

giáo hóa như vậy,

chúng sinh nghe đến

tất có những người

hoài nghi lầm lẫn.

(8-Ngày nay tôn giả

9) Phú lâu Na đây,

nơi ngàn ức Phật

trong thì quá khứ

đã siêng thực hiện

đường đi của mình:

tuyên dương duy trì

chánh pháp chư Phật

để cầu đạt được

tuệ giác vô thượng.

Nên tôn giả đã

ở nơi chư Phật

làm người đứng đầu

trong hàng đệ tử

về sự đa văn

cùng với trí tuệ,

thuyết pháp một cách

không có e sợ,

có thể làm cho

các chúng hoan hỷ.

Tôn giả chưa từng

chán nản mỏi mệt

trong sự hổ trợ

việc làm của Phật.

(10) Tôn giả vượt đến

thần thông rộng lớn,

lại có đủ cả

bốn trí thông suốt,

biết rõ mọi người

trình độ lanh chậm,

rồi thường tuyên thuyết

về pháp trong sáng.

(11) Phô bày thích thú

nghĩa của pháp ấy,

giáo hóa chúng sinh

nhiều ngàn vạn ức

cho họ ngồi vào

cỗ xe vĩ đại,

và bằng cách ấy

tôn giả này

tự làm trong sạch

cõi Phật của mình.

(12) Trong thì vị lai

tôn giả lại còn

phụng sự vô số

chư Phật Như Lai,

duy trì tuyên dương

chánh pháp các ngài,

cũng để tịnh hóa

cõi Phật của mình.

(13) Thường xuyên vận dụng

các cách phương tiện,

tôn giả thuyết pháp

không sợ gì cả,

hóa độ các chúng

không thể tính kể

cho họ thành đạt

tuệ giác hoàn toàn.

(14) Phụng sự chư Phật

bằng cách kính giữ

kho tàng chánh pháp

quí báu bậc nhất,

sau đó tôn giả

được thành Phật đà

với danh hiệu

Pháp Minh Như Lai.

(15-Cõi Phật của ngài

16) tên là Thiện tịnh

do bảy chất quí

kết hợp mà thành.

Thời kỳ của ngài

tên là Bảo minh.

Chúng chư bồ tát

rất là đông nhiều,

số lượng đạt đến

vô số vạn ức,

toàn đã đạt được

thần thông quảng đại,

uy đức năng lực

hoàn bị đầy đủ,

những vị như vậy

đầy cõi của ngài.

(17) Chúng chư thanh văn

cũng là vô lượng,

đủ ba minh trí

tám giải thoát,

lại còn có được

bốn trí thông suốt,

những vị như vậy

lấy làm Tăng bảo.

(18) Toàn cõi Thiện tịnh

tất cả mọi người

đã đoạn trừ hết

những cách dâm dục,

thuần nhất như nhau

sinh bằng biến hóa,

ba mươi hai tướng

trang hoàng thân thể.

(19) Vui đẹp về pháp

vui đẹp về định,

người Thiện tịnh ăn

bằng hai sự ấy,

không còn tưởng đến

những cách ăn khác.

Cõi Phật như vậy

không có nữ nhân,

các nẽo đường dữ

cũng không còn có.

(20) Vị đại tỷ kheo

Phú lâu Na này,

mọi phẩm chất Phật

thành mãn cả rồi

sẽ được cõi Phật

trong sạch như vậy.

Nơi đó rất nhiều

chư vị hiền thánh

vô lượng việc

cùng loại như thế,

nay đây Như Lai

chỉ nói sơ lược.

Lúc ấy một ngàn hai trăm vị La hán, những bậc tâm đã tự tại, đều nghĩ rằng chúng ta rất hoan hỷ, được sự chưa từng có. Nếu chúng ta được đức Thế Tôn thọ ký cho như các vị đại đệ tử của ngài thì thật thích thú. Đức Thế Tôn biết rõ ý nghĩ trong lòng của chư vị ấy nên bảo tôn giả Đại ca Diếp, một ngàn hai trăm vị La hán này, Như Lai nay tuần tự trao cho họ lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng.

Đại ca Diếp, trong chúng La hán này, đại đệ tử của Như Laitỷ kheo Kiều trần Như sẽ phụng sự sáu vạn hai ngàn ức chư Phật, sau đó thành Phật với danh hiệu Phổ Minh Như Lai, đủ mười đức hiệu. Năm trăm vị trong số một ngàn hai trăm vị La hán, đại loại như các tôn giả Tần loa ca Diếp, Già da ca Diếp, Na đề ca Diếp, Ca lưu đà Di, Ưu đà Di, A nâu lâu Đà, Ly bà Đa, Kiếp tân Na, Bạc câu La, Châu Đà, Sa già Đà, đều sẽ được tuệ giác vô thượng và cùng một danh hiệu Phổ Minh Như Lai.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(21-Vị đại tỷ kheo

22) Kiều trần Như này

sẽ gặp vô lượng

chư Phật Như Lai,

trải qua thời kỳ

nhiều đến vô số

mới thành một bậc

Biết khắp và đúng.

(23) Thường xuyên phóng ra

ánh sáng rất lớn,

đầy đủ hết thảy

các thần thông lực,

danh tiếng vang động

khắp cả mười phương,

hết thảy chúng sinh

ai cũng tôn kính,

và thường tuyên thuyết

tuệ giác vô thượng,

vì vậy mà được

danh hiệu Phổ Minh.

(24-Quốc độ trong sạch,

25) bồ tát dũng mãnh,

ai cũng lên ngự

lầu đài đẹp đẽ,

bay dạo khắp cả

mười phương quốc độ,

đem những cúng phẩm

giá trị tối thượng

cung kính hiến lên

chư Phật Như Lai.

(26) Hiến cúng thế rồi

lòng rất hoan hỷ,

giây lát về lại

quốc độ của mình:

thần lực họ có

đến như thế ấy.

(27) Phổ Minh Như Lai

sống lâu đến số

sáu vạn thời kỳ,

giáo pháp nguyên chất

tồn tại gấp đôi

thì gian sống lâu.

(28) Giáo pháp tương tự

lại tồn tại đến

gấp đôi thì gian

giáo pháp nguyên chất.

Và khi giáo pháp

ẩn mất không còn

thì cả trời người

đều rất lo buồn.

*

(29) Còn năm trăm vị

tỷ kheo khác nữa

đều sẽ tuần tự

thành Phật đà,

và cùng danh hiệu

Phổ Minh Như Lai.

(30) Chư Phật như vậy

triển chuyển tuần tự

thọ ký cho nhau,

rằng khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

vị này kế vị

làm Phật giáo chủ,

giáo hóa thế gian

y như Như Lai

giáo hóa hiện giờ.

(31-Đến như quốc độ

32) đẹp sạch ra sao,

năng lực thần thông

quảng đại thế nào,

thanh văn bồ tát

nhiều đến bao nhiêu,

giáo pháp nguyên chất

giáo pháp tương tự

cùng với đời sống

nhiều ít thế nào,

hết thảy đều như

ở trên đã nói.

(33) Này Đại ca Diếp,

tôn giả đã biết

về năm trăm vị

Tâm tự tại rồi,

còn các vị khác

trong chúng thanh văn

tất cả cũng được

thọ ký như vậy.

Vị nào vắng mặt

trong đại hội này,

tôn giả truyền đạt

cho vị ấy biết.

Năm trăm vị La hán đối trước đức Thế Tôn được thọ ký rồi, hoan hỷ, phấn chấn, tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, đến trước đức Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài, hối lỗi, tự trách, bằng cách thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, chúng con thường có ý nghĩ tự cho đã được niết bàn cuối cùng. Ngày nay mới biết ý nghĩ ấy thật như một kẻ vô trí. Tại sao, vì chúng con phải được tuệ giác của Phật, vậy mà tự cho tuệ giác nhỏ mọn đã là đầy đủ.

Bạch đức Thế Tôn, ví như có kẻ đến nhà bạn thân, say rượu nằm ngủ. Bấy giờ người bạn sắp đi việc công, nên đem viên ngọc vô giá buộc vào áo trong của người ấy. Cho như vậy rồi đi. Người ấy ngủ say, không hay biết gì cả. Tỉnh dậy thì lang thang đến xứ khác. Vì cơm áo mà ra sức làm lụng rất cực nhọc. Và kiếm được chút ít thì tự cho đã đủ. Về sau người bạn thân gặp lại, thấy mà phải kêu lên, quái lạ cho một kẻ nam nhi, sao lại vì cơm áo mà đến nông nỗi này! Trước đây, tôi muốn làm cho anh yên vui sung sướng, mặc ý hưởng thụ năm thứ dục lạc, nên ngày tháng năm ấy, tôi đã đem viên ngọc vô giá buộc vào áo trong của anh. Nay đang còn kia. Sao anh không biết, để phải khó nhọc, lo lắng kiếm cách mới sống. Anh thật khờ dại. Bây giờ anh hãy đem viên ngọc ấy đổi lấy những thứ cần dùng, thì luôn luôn vừa ý, không còn thiếu thốn gì nữa.

Đức Thế Tôn cũng vậy. Khi ngài làm bồ tát, đã giáo hóa chúng con phát ra chí nguyện mong cầu tuệ giác của bậc Toàn giác, nhưng chúng con quên ngay, không hay biết gì hết. Được đạo quả La hán là tự cho đã niết bàn, như kẻ kiếm sống cực nhọc nên chỉ được chút ít mà tự cho đã đủ. Trong khi đó chí nguyện về tuệ giác của bậc Toàn giác vẫn còn y nguyên, không mất đi đâu cả. Ngày nay đức Thế Tôn thức tỉnh chúng con, bằng cách dạy rằng, chư vị tỷ kheo, cái mà chư vị được chưa phải niết bàn cuối cùng. Như Lai từ xưa đã dạy cho chư vị gieo trồng gốc rễ điều lành của Phật; chỉ vì phương tiện nên Như Lai nói cái chư vị được là niết bàn, vậy mà chư vị lại cho là thật được niết bàn. Bạch đức Thế Tôn, ngày nay chúng con mới biết mình thật là bồ tát, được nhận lời ghi về tuệ giác vô thượng. Do vậy mà chúng con cùng cực hoan hỷ, được sự chưa từng có.

Tôn giả Kiều trần Như, và các vị đồng đẳng, lặp lại ý nghĩa đã thưa bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(34) Chúng con nghe được

âm thanh tối thượng

của đức Thế Tôn

an ủi thọ ký,

lòng rất vui mừng

được chưa từng có.

Chúng con chí thành

kính lạy Thế Tôn,

một bậc Tuệ giác

không có giới hạn!

(35) Ngày nay chúng con

đối trước Thế Tôn

xin tự sám hối

lầm lỗi ngày xưa.

Vàng ngọc Thế Tôn

thật là vô lượng,

chúng con chỉ được

ít phần niết bàn,

mà đã in như

một kẻ vô trí

tự cho mình được

đầy đủ cả rồi.

(36) Như kẻ nghèo nàn

đến nhà bạn thân.

Bạn giàu có lớn

đãi đủ cỗ bàn;

(37) đem ngọc vô giá

buộc vào áo trong,

yên lặng biếu cho

để đó mà đi,

trong khi người nghèo

say ngủ không biết.

(38) Người nghèo thức dậy

lang thang xứ khác,

tìm kiếm cơm áo

để tự nuôi mình.

Kiếm sống như vậy

rất là cực nhọc.

(39) Và được chút ít

đã hài lòng rồi,

không còn ước nguyện

ưa thích gì nữa.

Không biết áo trong

có ngọc vô giá.

(40) Người bạn cho ngọc

sau gặp người nghèo,

trách mắng nghiêm khắc

rồi chỉ cho anh

viên ngọc vô giá

đã buộc áo trong.

(41) Người nghèo được ngọc

lòng rất vui thích.

Viên ngọc làm anh

giàu có của cải,

năm thứ dục lạc

mặc sức thụ hưởng.

(42) Chúng con cũng vậy.

Thế Tôn từ xưa

đã từng thương tưởng

giáo hóa chỉ dạy,

gieo vào chúng con

chí nguyện tối thượng.

(43) Chúng con vô trí

không hay không biết;

chỉ mới đạt được

ít phần niết bàn,

đã tự thỏa mãn

không cầu gì nữa.

(44) Ngày nay Thế Tôn

thức tỉnh chúng con:

cái chúng con được

chưa thật niết bàn;

đạt được tuệ giác

vô thượng của Phật,

bấy giờ mới là

niết bàn chân thật.

(45) Ngày nay chúng con

từ đức Thế Tôn

nghe sự huy hoàng

ngài thọ ký cho,

nghe sẽ tuần tự

thọ ký cho nhau,

thì cả thân tâm

tràn đầy hoan hỉ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13973)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10741)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10406)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11870)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13527)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33514)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11252)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12825)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12959)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11526)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17772)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11320)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11747)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11405)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18872)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12461)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11217)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13060)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15626)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11732)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11610)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12633)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12548)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13863)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12889)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12835)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13202)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12652)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12609)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11666)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11654)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12233)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12253)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19689)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11878)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11905)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16731)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12574)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14947)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15981)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12764)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12141)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11802)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13047)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16419)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13144)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12389)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11732)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19737)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11070)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11180)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10315)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11015)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10884)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9951)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11657)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant