Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 9: Thọ ký cho các vị tu học tiếp tụctu học hoàn tất

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9352)
Phẩm 9: Thọ ký cho các vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp)
Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch

Cuốn 4

Phẩm 9: Thọ ký cho các vị tu học tiếp tục 
tu học hoàn tất

Lúc ấy các tôn giả A nan Đà và La hầu La đều nghĩ, chúng ta tự xét nếu được đức Thế Tôn trao cho lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng thì thích thú biết bao. Các tôn giả ấy liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài và cùng thưa, bạch đức Thế Tôn, trong việc thọ ký chúng con cũng đáng có phần, chỉ có đức Thế Tôn là đấng chúng con nương tựa. Chúng con được thế giới này, kể cả chư thiên, nhân loạitu la, ai cũng biết đến. Họ biết A nan Đà con đây thường làm thị giả của đức Thế Tôn, coi giữ kho tàng chánh pháp của ngài; còn La hầu La con đây là con trai của đức Thế Tôn khi ngài chưa xuất gia. Nếu đức Thế Tôn trao cho chúng con lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, thì ước nguyện của chúng con đã đạt mà ước vọng của các chúng cũng thỏa. Bấy giờ hai ngàn vị đệ tử thanh văn của đức Thế Tôn mà sự tu học đang tiếp tục hay đã hoàn tất, cũng đều đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, vai bên phải trần pháp y, cùng đến trước đức Thế Tôn, chuyên chúchắp tay chiêm ngưỡng, cùng biểu lộ sự ước nguyện như ước nguyện của các tôn giả A nan Đà và La hầu La, rồi đứng cách một khoảng.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả A nan Đà, trong thì vị lai, tôn giả sẽ được thành Phật với danh hiệu Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, đủ mười đức hiệu. Tôn giả sẽ phụng sự sáu mươi hai ức chư Phật, coi giữ kho tàng chánh pháp của các ngài, sau đó thực hiện tuệ giác vô thượng, giáo hóa bồ tát nhiều bằng nhiều ức hằng sa, làm cho thành thục tuệ giác vô thượng. Quốc độ tên là Ngọn cờ siêu việt thường dựng cao lên, toàn cõi trong sạch, đất bằng lưu ly. Thời kỳ tên là Âm thanh tinh túy vang dội khắp cả. Sơn hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai sống lâu vô số thời kỳ vô số, giả sử có ai tính kể trong ngàn vạn ức thời kỳ vô số cũng không biết được. Giáo pháp nguyên chất tồn tại thế giới gấp đôi thì gian sống lâu, giáo pháp tương tự tồn tại thế giới gấp đôi giáo pháp nguyên chất. A nan Đà, Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai được nhiều ức hằng sa chư Phật ở khắp mười phương cùng nhau ca tụng tán dương thành quả của ngài.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Như Lai ngày nay

nói giữa chư Tăng,

rằng A nan Đà

người giữ chánh pháp,

tương lai phụng sự

chư vị Phật đà,

rồi thành một bậc

Biết đúng và khắp.

(2) Bậc ấy tên là

Sơn Hải Tuệ Vương.

Quốc độ trong sạch

và có tên là

Ngọn cờ Siêu việt

thường dựng cao lên.

(3) Ngài giáo hóa cho

chư vị bồ tát

số lượng nhiều bằng

cát của sông Hằng.

Uy đức ngài có

vô cùng lớn lao,

danh tiếng vang động

khắp cả mười phương.

(4) Vì thương chúng sinh,

ngài sống vô lượng.

Giáo pháp nguyên chất

gấp đôi sống lâu,

giáo pháp tương tự

gấp đôi nguyên chất.

(5) Hằng hà sa số

vô lượng chúng sinh

ở trong giáo pháp

của đức Phật ấy

gieo trồng nhân tố

tuệ giác Phật đà.

Bấy giờ trong đại hội, bồ tát mới phát tâm có tám ngàn vị cùng nghĩ rằng, đến như chư vị đại bồ tátchúng ta cũng không nghe thấy được thọ ký như vầy, vì nguyên nhân nào mà chư vị thanh văn lại được phán quyết như vậy? Đức Thế Tôn biết ý nghĩ ấy của các vị bồ tát mới phát tâm nên bảo, chư thiện nam tử, Như Lai cùng với tôn giả A nan Đà, và các vị đồng hàng với tôn giả ấy, đã từng ở nơi đức Không Vương Như Lai, đồng thời phát ra tâm chí mong cầu tuệ giác vô thượng. Nhưng tôn giả A nan Đà thường thích đa văn, còn Như Lai thường siêng tinh tiến, nên Như Lai thành tựu tuệ giác vô thượngtôn giả A nan Đà coi giữ kho tàng chánh pháp của Như Lai. Tôn giả ấy cũng coi giữ kho tàng chánh pháp của chư Phật vị lai, giáo hóa tác thành chư vị bồ tát. Bản nguyện tôn giả ấy là như vậy nên được thọ ký như trên.

Tôn giả A nan Đà đối diện đức Thế Tôn, đích thân nghe được lời ghi nhận của ngài trao cho, nghe được sự huy hoàng của quốc độ tương lai của mình, thì ước nguyện thỏa mãn, lòng rất hoan hỷ, được sự chưa từng có, tức khắc nhớ được kho tàng chánh pháp của nhiều ức chư Phật quá khứ, thông suốt vô ngại như thể hiện tại mới nghe, lại nhớ được cả bản nguyện của mình. Tôn giả thưa đức Thế Tôn với lời chỉnh cú sau đây.

(6) Thế Tôn quả thực

cực kỳ hiếm có:

làm con nhớ lại

kho tàng chánh pháp

của vô số Phật

thuộc thì quá khứ,

tựa như mới nghe

trong ngày hôm nay.

(7) Nay con không còn

nghi hoặc gì nữa;

đứng vững ở trong

tuệ giác Phật đà,

phương tiện mà làm

một vị thị giả

để được coi giữ

chánh pháp chư Phật.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả La hầu La, trong thì vị lai, tôn giả sẽ được thành Phật với danh hiệu Đạp Thất Bảo Hoa Như Lai, đủ mười đức hiệu. Tôn giả sẽ phụng sự chư Phật bằng số vi trần của mười thế giới và, y như đời này, tôn giả thường làm trưởng tử của các ngài. Sự huy hoàng của quốc độ, số lượng thời kỳ của sự sống lâu, đệ tử được giáo hóa, giáo pháp nguyên chất và tương tự, tất cả điều này của đức Đạp Thất Bảo Hoa Như Lai đều giống như của đức Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, không khác gì cả. Tôn giả cũng sẽ làm trưởng tử của ngài, và qua thì gian ấy rồi sẽ được tuệ giác vô thượng. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(8) Thì gian Như Lai

còn làm thái tử

thì La Hầu La

là vị trưởng tử,

Như Lai thành Phật

thì La Hầu La

tiếp nhận chánh pháp

mà làm pháp tử.

(9) Trong thì vị lai

tôn giả gặp được

vô số ức Phật,

cũng làm trưởng tử

chuyên tâm mà cầu

tuệ giác Phật đà.

(10) Hạnh nguyện kín đáo

của La Hầu La,

chỉ có Như Lai

mới thấu hiểu được,

thị hiện mà làm

trưởng tử Như Lai

là để khải thị

cho bao chúng sinh.

(11) La Hầu La đây

vô số lượng

vạn ức công đức

không thể tính kể.

Tôn giả sống trong

chánh pháp Như Lai

để cầu đạt được

tuệ giác vô thượng.

Đức Thế Tôn lại thấy hai ngàn vị tu học tiếp tụctu học hoàn tất tâm ý của họ mềm dịu, vắng lặng, trong suốt, chuyên chú nhìn ngài, nên ngài bảo tôn giả A nan Đà, tôn giả thấy hai ngàn vị còn học và học xong này chăng? Con thấy, bạch đức Thế Tôn. A nan Đà, các vị này sẽ phụng sự chư Phật nhiều bằng vi trần của năm chục thế giới, cung kính, tôn trọng, coi giữ kho tàng chánh pháp của các ngài, và cuối cùng thì đồng thời thành Phật ở khắp mười phương quốc độ, với danh hiệu đồng nhất là Bảo Tướng Như Lai, đủ mười đức hiệu. Lại cùng sống lâu một thời kỳ. Sự tráng lệ của quốc độ, chúng thanh văn và chúng bồ tát, giáo pháp nguyên chất và tương tự, tất cả cũng đồng đẳng. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(12) Hai ngàn thanh văn

trước Như Lai đây,

Như Lai phán quyết

vị lai thành Phật.

(13) Chư Phật Như Lai

mà các vị ấy

sẽ được phụng sự

thì như vi trần

Như Lai đã

so sánh ở trên.

Các vị coi giữ

kho tàng chánh pháp

của chư Phật ấy,

và rồi cuối cùng

được thành một bậc

Biết đúng và khắp.

(14) Tại các quốc độ

khắp cả mười phương,

tất cả các vị

đồng một danh hiệu,

đồng thời cùng ngồi

nơi bồ đề tràng,

để cùng thành tựu

tuệ giác vôthượng.

(15-Danh hiệu Bảo Tướng,

16) quốc độ, đệ tử,

giáo pháp nguyên chất,

giáo pháp tương tự,

tất cả điều này

đồng đẳng không khác.

Lại cũng đồng đẳng

sử dụng thần lực

giáo hóa cứu độ

mười phương chúng sinh,

danh tiếng vang dội

lan tràn khắp cả,

và rồi dần dần

cùng lúc nhập diệt.

Bấy giờ hai ngàn vị tu học tiếp tụctu học hoàn tất nghe đức Thế Tôn thọ ký cho như vậy, ai cũng hoan hỷ, phấn chấn, cùng nói lời chỉnh cú sau đây.

(17-Thưa đức Thế Tôn,

18) Ánh sáng đèn tuệ!

Chúng con nghe được

tiếng ngài thọ ký,

tâm thức chúng con

tràn ngập hoan hỷ,

y như được rưới

với nước cam lộ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12518)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14111)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10854)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10524)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11198)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12006)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13157)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13643)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33675)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13064)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11635)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17901)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11449)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11865)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11513)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18980)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12556)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11348)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13155)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15782)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11825)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11701)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12779)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12637)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13972)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13001)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12953)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13302)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12777)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12703)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11754)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11740)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12331)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12389)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19829)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11965)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11996)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16889)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12678)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15065)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16128)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12885)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12243)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11921)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11930)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13156)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16512)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12500)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11826)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19864)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11166)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11264)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10405)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11101)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10974)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10040)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11758)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant