Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10287)
Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp)
Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch

Cuốn 4

Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa

Khi ấy đức Thế Tôn bảo chư vị bồ tát, bốn chúng và các chúng nhân loại chư thiên, rằng trong thì quá khứ, Như Lai đã cầu Pháp Hoa trong vô lượng thời kỳ, không biếng nhác, không mỏi mệt. Trong nhiều thời kỳ, Như Lai thường làm quốc vương, phát nguyện cầu tuệ giác vô thượng, lòng không thoái lui hay lệch khỏi mục đích ấy. Để hoàn thiện sáu pháp ba la mật nên quốc vương nỗ lực bố thí, lòng không tiếc lẫn gì hết về voi ngựa, bảy thứ quí báu, về quốc thành, thê tử, về tôi tớ, tùy tùng, về đầu mắt, tủy não, thân thịt, tay chân; tính mạng cũng không nuối tiếc. Bấy giờ dân chúng sống lâu vô lượng. Quốc vương vì cầu chánh pháp nên bỏ ngôi vua, ủy thác chính sự cho thái tử, rồi đánh trống truyền lịnh mà cầu chánh pháp khắp nơi, rằng ai có khả năng nói cho ta về pháp đại thừa thì ta sẽ cung phụng phục dịch suốt đời. Bấy giờ có một vị tiên đến tâu, tôi biết bản kinh đại thừa tên là Pháp Hoa. Quốc vương không trái ý tôi thì tôi sẽ dạy cho. Quốc vương nghe vị tiên nói, vui mừng rộn rã, tức thì đi theo vị ấy, cung phụng mọi sự vị ấy cần đến. Những việc hái trái, múc nước, nhặt củi, dọn ăn, đến nỗi đem thân làm giường làm ghế cũng không mỏi mệt cơ thể hay tâm trí. Quốc vương lúc ấy phụng sự như vậy đến cả ngàn năm, vì chánh pháp mà siêng năng một cách tinh chuyên, cung đốn hầu hạ không thiếu sót điều gì. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(42) Như Lai nhớ lại

trong thì quá khứ,

vì cầu cho được

chánh pháp vĩ đại,

nên dẫu làm vua

của cả một nước,

vẫn không đam mê

năm thứ dục lạc.

(43) Đánh chuông gióng trống

tuyên cáo khắp nơi,

rằng ai biết được

chánh pháp vĩ đại

mà đem giảng giải

thuyết trình cho ta,

thì ta đích thân

làm kẻ tôi tớ.

Bấy giờ vị tiên

tên là Vô Tỷ

đến tâu với vua

rằng tôi có biết

chánh pháp tinh túy

hiếm nhất thế gian.

(44) Vua thực hành được

thì tôi dạy cho.

Nghe vị tiên nói

vua rất vui đẹp,

tức thì đi theo

cung phụng cần dùng.

Ngay việc nhặt củi

kiếm trái hái rau

cũng vẫn kính cẩn

cung phụng đúng lúc.

(45) Dồn hết tâm tình

vào pháp tinh túy,

nên cả thân tâm

không nhác không mệt.

Khắp vì tất cả

bao loại chúng sinh

mà cố nỗ lực

cầu pháp vĩ đại,

chứ không vị gì

bản thân của mình,

cũng không cầu hồ

thú vui ngũ dục.

(46) Như Lai cố ý

làm đại quốc vương

siêng cầu cho được

chánh pháp vĩ đại,

do đó mà được

thành đức Phật đà,

và bây giờ đây

cố đem chánh pháp

vĩ đại như vậy

nói cho các người.

Đức Thế Tôn bảo chư vị tỷ kheo, quốc vương lúc ấy nay là Như Lai, còn vị tiên lúc ấy nay là Đề bà đạt Đa mà làm cho Như Lai hoàn bị sáu pháp ba la mật, bốn tâm vô hạn, ba mươi hai tướng quí, tám mươi vẻ đẹp, thân màu hoàng kim, mười đại năng lực, bốn sự không sợ, bốn sự nhiếp hóa, mười tám sự đặc biệt, sức mạnh thần thông, sức mạnh tuệ giác, trở thành bậc Biết khắp và đúng, hóa độ sâu rộng các loại chúng sinh, toàn là do người bạn tốt Đề bà đạt Đa.

Như Lai nay tuyên cáo với tất cả bốn chúng, Đề bà đạt Đa sau này qua vô lượng thời kỳ rồi, sẽ được thành Phật danh hiệuThiên Vương Như Lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độ của ngài tên là Thiên Đạo. Ngài tồn tại hai mươi thời kỳ bậc giữa, tuyên thuyết cho chúng sinh một cách rộng rãi về chánh pháp tinh túy, làm cho hằng sa chúng sinh được tuệ giác La hán, vô lượng chúng sinh phát tâm Duyên giác, hằng sa chúng sinh phát tâm Tuệ giác vô thượng, thực hiện tuệ giác Không sinh, đạt đến địa vị Không thối chuyển. Thiên Vương Như Lai nhập niết bàn rồi, giáo pháp nguyên chất tồn tại hai mươi thời kỳ bậc giữa, xá lợi toàn thân được xây dựng tôn thờ trong ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu, cao sáu chục do tuần, chu vi bốn chục do tuần. Chư thiên, nhân loại, ai cũng đem bông hoa đa dạng, các hương liệu, vải vóc, vòng hoa, tràng phan, bảo cái, kịch nhạc, ca khúc và thi thơ mà lễ bái và hiến cúng bảo tháp tuyệt diệu như vậy, và sự lễ bái hiến cúng này làm cho vô lượng chúng sinh được tuệ giác La hán, vô lượng chúng sinh được tuệ giác Duyên giác, không thể nghĩ bàn chúng sinh phát Tâm tuệ giác vô thượng, đến bậc Không thoái chuyển.

Chư vị tỷ kheo, trong thì vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào nghe được phẩm Đề bà đạt Đa này của kinh Pháp Hoa mà lòng trong sáng, tin kính cẩn, không ngờ vực, không lầm lẫn, thì người ấy không sa vào địa ngục ngạ quỉ súc sinh, mà lại sinh trong nhân loại chư thiên, hay sinh trước chư Phật ở bất cứ phương hướng nào. Và sinh ở đâu cũng thường được nghe kinh Pháp Hoa. Sinh trong nhân loại hay chư thiên thì hưởng thụ sự yên vui tuyệt diệu và hơn hết, còn sinh trước chư Phật thì hóa sinh bằng hoa sen.

*

Bấy giờ Trí Tích, vị bồ tát thị tùng đức Đa Bảo Phật đà, vốn ở phương dưới, bạch với ngài hãy trở về quốc độ của mình. Đức Thích Ca Thế Tôn bảo bồ tát Trí Tích, thiện nam tử, hãy chờ một lát. Quốc độ này có vị bồ tát tên là Văn Thù, các vị đáng gặp nhau, luận thuyết chánh pháp tinh túy rồi về. Lúc bấy giờ bồ tát Văn Thù ngồi trên hoa sen có cả ngàn cánh, lớn như bánh xe, các vị bồ tát tùy tùng cũng ngồi trên hoa sen quí báu, từ Diêm hải long cung trong biển cả, đột nhiên vọt lên, lên cao trong không gian, lướt đến Linh sơn, bước xuống hoa sen, lại chỗ đức Thích Ca Thế Tôn và đức Đa Bảo Phật đà, đem đầu mặt kính lạy ngang chân hai ngài. Làm sự tôn kính như vậy rồi, bồ tát Văn Thù bước qua chỗ bồ tát Trí Tích, hỏi thăm nhau và ngồi một bên. Bồ tát Trí Tích hỏi bồ tát Văn Thù, nhân giả đến long cung giáo hóa chúng sinh số lượng được mấy? Bồ tát Văn Thù nói, số lượng ấy vô lượng, không thể tính kể, không thể miệng nói hay trí lường mà biết được. Xin nhân giả đợi một chút, sẽ tự có chứng cứ. Nói chưa xong thì vô số bồ tát cũng ngồi hoa sen quí báu, từ biển vọt lên, lướt đến Linh sơn, ở trong không gian. Các vị bồ tát này toàn do bồ tát Văn Thù hóa độ, hoàn bị phong cách bồ tát, và cùng luận thuyết sáu pháp ba la mật. Gốc của các vị này là thanh văn, ở trong không gian mà nói về việc làm thanh văn, nhưng nay thì ai cũng thực hành nguyên lý Không của đại thừa. Bồ tát Văn Thù nói với bồ tát Trí Tích, sự giáo hóa của tôi ở trong biển cả là như vậy. Bồ tát Trí Tích liền dùng những lời chỉnh cú sau đây vừa tán dương vừa hỏi bồ tát Văn Thù.

(47) Bậc đại trí đức

dũng mãnh tinh tiến!

bằng chánh pháp nào

ngài giáo hóa được

vô lượng bồ tát

đại hội này

và chính tôi đây

đã thấy như kia?

(48) Ngài giảng thật tướng,

thuyết minh thế nào

đối với giáo pháp

cỗ xe duy nhất,

hướng dẫn đầy đủ

các vị như vầy

làm cho chóng được

tuệ giác vô thượng?

Bồ tát Văn Thù nói, trong biển cả tôi chỉ thường xuyên tuyên thuyết Pháp Hoa. Bồ tát Trí Tích hỏi, kinh ấy cực kỳ sâu xa tinh túy, quí báu nhất trong các kinh, thế giới hiếm có; trong biển cả có hay không có người nỗ lực tinh tiến, thực hành được kinh ấy và thành Phật được một cách mau chóng? Bồ tát Văn Thù nói, có. Long Nữ của Diêm Hải long vương mới tám tuổi mà trí tuệ, lợi căn, khéo biết trình độhành vi của chúng sinh. Được pháp tổng trì, tiếp nhận và ghi nhớ đủ hết kho tàng bí yếu sâu xa của chư Phật tuyên thuyết. Vào sâu thiền định, thấu suốt các pháp. Trong khoảng đơn vị ngắn nhất của thì gian mà phát lộ Tuệ giác vô thượng, thành bậc Không cò thoái chuyển. Đủ các tài hùng biện. Thương chúng sinh y như thương con đỏ. Công đức hoàn hảo. Lòng nghĩ, miệng nói, toàn là tinh túy cao cả. Từ bi, khiêm nhượng, chí ý hòa nhã. Long Nữ ấy có đủ năng lực đạt đến Tuệ giác vô thượng. Bồ tát Trí Tích nói, tôi thấy đức Thích Ca Thế Tôn trải qua vô lượng thời kỳ, làm những khổ hạnh khó làm, chứa công dồn đức, cầu tuệ giác vô thượng không lúc nào ngừng nghỉ. Quan sát cả đại thiên thế giới này thì thấy không có chỗ nào, dầu chỉ bằng hạt cải mà thôi, mà không phải là chỗ ngài xả bỏ thân mạngchúng sinh, sau đó mới được thành tựu tuệ giác vô thượng. Tôi không tin Long Nữ nào đó chỉ trong khoảnh khắc mà thành được một bậc Biết đúng và khắp. Nói bàn chưa xong, Long Nữ đột nhiên xuất hiện trước mắt, đem cả đầu mặt lễ bái tôn kính đức Thế Tôn rồi đứng lui một khoảng, dùng lời chỉnh cú sau đây mà tán dương ngài.

(49) Thế Tôn thấu suốt

thật tướng tội phước,

ánh sáng của ngài

soi khắp mười phương.

Thân ngài: pháp thân,

tinh túy, trong suốt,

đủ ba mươi hai

tướng đại trượng phu.

(50) Pháp thân như vậy

còn được trang hoàng

bằng cả tám chục

vẻ đẹp tùy thuộc.

Nhân loại, chư thiên,

long vương, thiện thần,

ai cũng kính ngưỡng,

tất cả chúng sinh

ai cũng tôn thờ

như bậc đồng tông.

(51) Nghe đức Văn Thù

nói con chóng thành

tuệ giác vô thượng,

việc ấy chỉ có

Thế Tôn đại giác

chứng biết cho con;

con sẽ tuyên dương

chánh pháp đại thừa,

hóa độ giải thoát

chúng sinh đau khổ.

Lúc ấy tôn giả Xá lợi Phất nói với Long Nữ, thiện nữ nói thành đạt mau chóng tuệ giác vô thượng, việc ấy thật khó tin. Tại sao, vì thân thể nữ nhân dơ bẩn, không phải là vật dụng chứa đựng chánh pháp, thiện nữ làm sao mà thành được tuệ giác vô thượng _ Trong khi tuệ giác vô thượng của Phật thì xa xôi, mênh mông, trải qua vô số thời kỳ, siêng và khổ mà tích lũy công hạnh, thực hành đủ hết các pháp ba la mật, sau đó mới hoàn thành. Huống chi thân thể nữ nhân còn có năm sự bị cản trở, ấy là không được làm Phạn vương, Đế thích, Ma vương, Luân vươngPhật thân. Như vậy thân thể thiện nữ làm sao thành Phật, mà lại thành Phật mau chóng? Long Nữ có một viên ngọc quí, giá bằng cả đại thiên thế giới. Bấy giờ Long Nữ hai tay nâng viên ngọc ấy hiến lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nhận liền. Long nữ thưa bồ tát Trí Tíchtôn giả Xá lợi Phất, con hiến ngọc quí, đức Thế Tôn nhận cho con, việc này mau chóng không? Rất mau chóng; hai ngài trả lời như vậy. Long Nữ thưa, đem thần lực của các ngài nhìn sự thành Phật của con, thì sự ấy còn mau hơn việc này. Tức thì toàn thể đại hội các chúng lúc ấy cùng thấy, trong khoảnh khắc đột nhiên, Long Nữ biến thành nam tử, đầy đủ phong cách bồ tát, lướt qua thế giới hệ Vô cấu ở hướng nam, ngồi trên đài sen quí báu, thành bậc Biết đúng và khắp, với cái thân đủ hết ba mươi hai tướng quí và tám mươi vẻ đẹp, tuyên thuyết chánh pháp tinh túy cho chúng sinh mười phương. Tại quốc độ Kham nhẫn này, các vị bồ tát, các vị thanh văn, tám bộ thiên long, tất cả nhân loại và loài khác, từ xa thấy sự thành Phậtthuyết pháp của Long Nữ thì tâm thần người nào cũng rất hoan hỷ, vọng xa mà lạy. Thế giới hệ Vô cấu thì vô lượng chúng sinh nghe pháp đều lý giải, tỏ ngộ, được sự không thoái chuyển, vô lượng chúng sinh nữa được nhận sự thọ ký về tuệ giác vô thượng, và thế giới hệ ấy chấn động đủ cả sáu cách. Thế giới hệ Kham nhẫn thì ba ngàn người đứng vào vị trí không thoái chuyển, ba ngàn người nữa phát triển tuệ giác vô thượng và được nhận sự thọ ký về tuệ giác ấy. Bồ tát Trí Tích, tôn giả Xá lợi Phất, và cả đại hội các chúng, đều yên lặng mà tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22251)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15997)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15013)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18922)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14430)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18611)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14398)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13560)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13539)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11804)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13220)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13642)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13918)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13240)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15012)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16146)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11075)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16436)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11882)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17577)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13688)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12838)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14840)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16369)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13117)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12069)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12741)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12876)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12754)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14150)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14091)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16446)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12367)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11293)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11012)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13177)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13879)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13145)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12989)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13482)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12707)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13951)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10209)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13685)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16247)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12955)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11626)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12650)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10778)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10970)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10923)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11863)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12734)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12601)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11297)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant