Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 14: Sống yên vui

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9309)
Phẩm 14: Sống yên vui

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp)
Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch

CUỐN 5

Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận tam bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa.

Mở đầu tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoatiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

________

Phẩm 14: Sống yên vui

Vào lúc bấy giờ, Văn Thù đại sĩ, vị thái tử của đức Pháp vương, thưa với ngài rằng, bạch đức Thế Tôn, các vị bồ tát này thật hiếm có. Các vị kính thuận đức Thế Tôn nên phát ra thệ nguyện cao cả, nguyện ở trong thời kỳ dữ dội sau này mà kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng diễn giảng kinh ấy. Nhưng bạch đức Thế Tôn, bồ tát đại sĩ ở trong thời kỳ dữ dội sau này, làm thế nào để diễn giảng Pháp Hoa? Đức Thế Tôn dạy, Văn Thù, bồ tát đại sĩ ở trong thời kỳ dữ dội sau này, muốn diễn giảng Pháp Hoa thì phải đặt mình vững chắc vào trong bốn cách sống yên vui.

Cách sống yên vui thứ nhất là đặt mình vững chắc vào phạm vi đi và phạm vi thân của bồ tát, mới có năng lực diễn giảng Pháp Hoa cho mọi người.

Văn Thù, phạm vi đi của bồ tát là gì? Là bồ tát đi trong đường đất nhẫn nhục, ôn hòa, khéo thuận, không thô bạo, không kinh hoảng. Hơn nữa, đối với các pháp thì không đi theo pháp nào mà chỉ nhìn thật tướng của các pháp ấy, cũng không đi theo sự không nhận thức các pháp. Như vậy gọi là phạm vi đi của bồ tát.

Phạm vi thân của bồ tát là gì? Là bồ tát không thân gần quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng. Không thân gần tu sĩ ngoại đạo, Ni kiền tử. Không thân gần những kẻ tạo ra văn bút, thi catác phẩm trần tục. Không thân gần những kẻ theo chủ thuyết xuôi với đời hay chủ thuyết ngược với đời. Cũng không thân gần những kẻ chơi những trò chơi hung hãn như đâm nhau, vật nhau; những kẻ hóa trang, ảo thuật. Không thân gần chiên đà la và những kẻ ác luật nghi như nuôi heo dê gà chó, săn bắn chài lưới. Tất cả những kẻ trên đây có khi đến với bồ tát, thì bồ tát nên thuyết pháp cho họ mà không ước vọng gì về danh lợi. Lại không thân gần bốn chúng cầu niết bàn của thanh văn, không hỏi thăm, không ở chung trong phòng, chỗ kinh hành hay trong giảng đường. Các vị ấy có khi đến với bồ tát thì bồ tát tùy nghi thuyết pháp mà không ước vọng gì về danh lợi. Văn Thù, đối với thân thể nữ nhân, bồ tát không vì những hình dáng phát sinh tư tưởng về dục mà thuyết pháp cho họ, cũng không ham gặp. Đến nhà người, đừng nói chuyện với thiếu nữ, xử nữ, quả phụ... Đừng gần mà thân thiết với năm loại người phi nam. Đừng một mình đến nhà người; có lý do phải đến một mình thì chuyên tâm nghĩ nhớ đến Phật. Thuyết pháp cho nữ nhân thì không cười bày răng, không để hở ngực, và đến nỗi vì chánh pháp cũng không thân thiết với nữ nhân, huống chi vì gì khác. Không thích nuôi đệ tử sa di nhỏû tuổi, trẻ con, cũng không thích cùng thầy với họ. Thường ưa ngồi thiền, ở chỗ không bị quấy nhiễu, tập trung mà sửa chữa tâm mình. Văn Thù, như vậy gọi là phạm vi thân thứ nhất của bồ tát. Bồ tát lại xét thấy các pháp là Không _ thấy thật tướng các pháp: không thác loạn, không dao động, không suy thoái, không chuyển biến ; thấy như hư không: không phải những sự sở hữu của tư duy, không phải những sự mô tả của ngôn ngữ, không phát sinh, không xuất hiện, không nổi dậy, không danh từ, không khái niệm; thấy thật là không thật: không số lượng, không giới hạn, không trở ngại, không ngăn cách_ chỉ do sự tương quan mà có, và từ sự nhận thức thác loạn mà phát sinh và diễn tả. Thường thích quán sát về thật tướng như vậy. Đó là phạm vi thân thứ hai của bồ tát.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đãï nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Thời ác sau này,

vị bồ tát nào

không có e sợ,

muốn nói Pháp Hoa,

(2) thì phải vào nơi

chỗ đi chỗ thân.

Thường xa quốc vương,

cùng với vương tử,

(3) đại thần, quan trưởng,

kẻ chơi hung hãn,

kẻ làm ảo thuật,

kẻ chiên đà la,

và những tu sĩ

các phái ngoại đạo.

(4) Cũng không thân gần

người tăng thượng mạn,

học giả thuộc cả

ba tạng tiểu thừa,

tỷ kheo phá giới,

La hán giả danh.

(5-Những tỷ kheo ni

6) ưa thích cười giỡn,

những nữ tín đồ

quá ham ngũ dục,

với những người ấy

đều chớ thân gần.

sự thể này

nên coi như là

tìm kiếm niết bàn

ngay trong hiện tại.

(7) Những người trên đây

bằng tâm lý tốt

đến chỗ bồ tát

để được nghe nói

về tuệ giác Phật,

bồ tát phải đem

sự không khiếp sợ,

và không ẩn ý

ước vọng danh lợi,

thuyết pháp cho.

(8) Quả phụ, xử nữ,

và những phi nam,

đừng nên gần gũi

làm người thân thiết.

(9-Cũng đừng thân gần

12) thầy trò thợ thịt.

Săn bắn chài lưới

vụ lợi sát hại,

sinh sống bằng nghề

buôn bán thịt cá,

ma cô tú bà

buôn bán nữ sắc,

những kẻ như vậy

cũng đừng thân gần.

(13) Đô vật hung hãn,

các loại trò chơi,

cũng như dâm nữ

đều không thân gần.

Đừng ngồi chỗ khuất

và ngồi một mình

mà thuyết chánh pháp

cho các nữ nhân,

khi thuyết chánh pháp

thì đừng đùa giỡn.

(14) Đi vào khất thực

nơi chỗ dân cư

thì phải đi với

một vị tỷ kheo,

nếu không có được

vị tỷ kheo ấy

thì phải chuyên tâm

nghĩ nhớ đến Phật.

(15) Như vậy gọi là

chỗ đi chỗ thân;

nhờ hai chỗ ấy

thuyết pháp yên vui.

(16) Lại không đi theo

pháp cao vừa thấp,

hữu vi vô vi,

thật với không thật.

(17) Cũng không phân biệt

này đây là nam

này đây là nữ,

không biết không thấy

không tìm ra được

các pháp là thật.

(18) Như vậy gọi là

chỗ bồ tát đi.

(19) Tất cả các pháp

không phải thật có:

không phải thường còn

không phải sinh diệt,

đó là chỗ thân

của bậc có trí.

(20) Nhận thức thác loạn

nên thấy các pháp

có không, thật giả,

và sinh với diệt.

(21) Ở chỗ trống vắng

tập trung tâm trí,

an nhiên bất động

như núi Tu di,

mà xét các pháp

thì thấy là Không.

(22) Tựa như hư không

không gì cố định:

không là phát sinh

cũng không xuất hiện,

không là suy thoái

cũng không dao động,

vĩnh viễn nhất quán,

ấy là chỗ thân.

(23) Sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

bấy giờ nếu có

tỷ kheo bồ tát

nhập vào chỗ đi

và chỗ thân này,

thì nói Pháp Hoa

không có khiếp nhược.

(24-Có lúc vị ấy

25) vào trong tịnh thất,

ghi nhớ chính xác

xét pháp theo nghĩa,

rồi xuất thiền định

giảng Pháp Hoa;

diễn giảng khai thị

cho hàng quốc vương,

vương tử, thần dân,

bà la môn,

mà tâm an nhiên

không có khiếp nhược.

Văn Thù đại sĩ,

như vậy gọi là

bồ tát đứng vững

nơi cách thứ nhất,

có thể ở trong

thời ác sau này

tuyên thuyết phong phú

Diệu Pháp Liên Hoa.

Văn Thù, sau khi Như Lai nhập diệt, trong thời kỳ giáo pháp cuối cùng, ai muốn diễn giảng Pháp Hoa thì phải đặt mình vững chắc vào trong cách sống yên vui thứ hai. Là miệng chỉ diễn giảng hay đọc tụng kinh điển, không thích nói nhược điểm của người, của kinh điển. Không khinh ngạo các vị diễn giảng khác. Không nói những sự tốt xấu giỏi dở của mọi người. Đối với thanh văn, không đem tên ra mà nói xấu hay khen tốt. Tâm lý oán ghét hiềm khích không hề nổi dậy, là vì khéo tu cái tâm yên vui. Ai muốn nghe pháp cũng không nghịch ý họ. Họ hỏi gì thì không trả lời bằng giáo pháp cỗ xe thấp nhỏ, chỉ đem giáo pháp cỗ xe vĩ đại mà giảng giải, làm cho họ đạt được tuệ giác Biết tất cả. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(26-Bồ tát là người

30) luôn luôn thư thái

yên vui thuyết pháp.

Một cái pháp tòa

được sắp đặt cho

nơi chỗ sạch sẽ.

Trước đó tắm rửa

sạch hết dơ bẩn,

lấy dầu xoa mình,

mặc áo sạch mới.

Trong ngoài sạch rồi

đến ngồi pháp tòa,

tùy người thưa hỏi

mà giảng nói cho.

Đối diện tỷ kheo

tỷ kheo ni,

hoặc ưu bà tắc

với ưu bà di,

quốc vương vương tử

quần thần sĩ dân,

đều đem nghĩa lý

tinh túy sâu xa

mà nói cho họ

với mặt hiền hòa.

(31) Có ai gạn hỏi,

đáp theo nghĩa lý;

yếu tố, ví dụ,

diễn giảng, phân tích,

dùng những cách này

làm họ phát tâm

tăng dần lợi ích

vào tuệ giác Phật.

(32) Loại bỏ biếng nhác,

tách xa bực dọc,

đem tâm từ bi

mà thuyết chánh pháp.

(33) Ngày đêm thường thuyết

chánh pháp vô thượng,

đem mọi yếu tố

và lắm ví dụ

khai thị cho người

làm ai cũng vui.

(34) Đồ mặc đồ nằm

đồ ăn đồ uống

cùng với thuốc thang,

đối với tất cả

những thứ như vậy

không mong ước gì.

(35) Chỉ một tâm nguyện

nguyện nhờ thuyết pháp

mà mình với người

cùng được thành Phật,

và đó chính là

những sự ích lợi,

lạc thú, hiến cúng

vô cùng lớn lao.

(36) Sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

bấy giờ nếu có

tỷ kheo bồ tát

có thể diễn giảng

Diệu Pháp Liên Hoa,

thì lòng không còn

ganh tị, tức bực,

không bị quấy phá

không gặp trở ngại,

không còn lo rầu

không ai thóa mạ,

(37) không bị khủng bố,

hành hung, xua đuổi,

vì đã đứng vững

trong sự ẩn nhẫn.

(38) Người có trí tuệ

khéo tu tâm mình

bằng cách sống theo

cách sống yên vui

mà ở trên đây

Như Lai đã dạy,

thì bao hiệu quả

mà người ấy có,

vạn ức thời kỳ

áp dụng toán số

hay sự ví dụ

nói cũng không hết.

Văn Thù, cách sống yên vui thứ ba là, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo pháp sắp ẩn mất, những người kính giữ Pháp Hoa thì đừng ôm giữ tâm lý ganh ghét, dua nịnhdối trá. Đừng khinh khi thóa mạ những người học tập tuệ giác của Phật, đừng tìm kiếm điều hay cái dở của những người ấy. Đối với bốn chúng tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc,ưu bà di, đối với các vị cầu cỗ xe thanh văn, cỗ xe duyên giác, cỗ xe bồ tát, thì đừng quấy rối, làm cho họ thắc mắc, hối tiếc, bằng cách nói rằng các người cách xa tuệ giác của Phật, không bao giờ thực hiện được tuệ giác Biết tất cả, vì lẽ các người là những kẻ bất thường, biếng nhác đối với tuệ giác ấy. Đừng bàn chơi các pháp, cãi cọ lẫn nhau. Đối với chúng sinh thì nghĩ đến đại bi, đối với Phật đà thì nghĩ là từ phụ, đối với bồ tát thì nghĩ là đại sư. Đối với bồ tát mười phương thì tôn kính sâu xa, đối với chúng sinh đủ loại thì thuyết pháp bình đẳng. Nhưng thuận với chánh pháp nên không nói nhiều cũng không nói ít, thậm chí đối với những người ưa thích chánh pháp một cách sâu xa cũng không vì họ mà nói nhiều. Văn Thù, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo pháp sắp ẩn mất, các vị bồ tát có ai thành tựu cách sống yên vui thứ ba này thì lúc diễn giảng Pháp Hoa không ai quấy phá được. Người ấy còn được đồng học rất tốt, chung nhau đọc tụng Pháp Hoa; được các chúng đến nghe mà nghe rồi nhớ được, nhớ rồi tụng được, tụng rồi giảng được, giảng rồi tự mình sao chép hay khuyên người sao chép, và hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương đối với cuốn kinh ấy. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(39) Muốn giảng Pháp Hoa,

phải bỏ tâm lý

ganh tức, ngạo mạn,

dua nịnh, tà ngụy,

mà thường tu sửa

đức tính chất trực.

(40) Đừng khinh miệt người,

cũng đừng bàn chơi

đối với các pháp,

đừng làm người khác

thắc mắc hối tiếc

bằng cách nói rằng

các người không thể

thành đức Phật đà.

(41) Con Phật như vậy

diễn giảng Pháp Hoa

thường xuyên ôn hòa

và hay ẩn nhẫn,

từ bi giáo hóa

tất cả các chúng,

không hề sinh ra

tâm tư biếng nhác.

(42) Chư đại bồ tát

mười phương hướng,

vì thương chúng sinh

du hóa khắp cả;

thì với các ngài

phải nên tôn kính,

rằng đó là bậc

đại sư của tôi.

(43) Đối với chư vị

Đại giác Thế Tôn

thì thờ làm bậc

từ phụ tối thượng.

Dẹp bỏ tất cả

tâm lý kiêu căng,

nên thuyết chánh pháp

không gặp trở ngại.

(44) Cách sống thứ ba

là như thế ấy,

người có trí tuệ

phải giữ cho đúng.

Đồng nhất tâm mình

với cách sống vui,

thì được vô lượng

các chúng tôn kính.

Văn Thù, cách sống yên vui thứ tư là, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo pháp sắp ẩn mất, bồ tát có vị nào kính giữ Pháp Hoa thì đối với những người tại giaxuất gia phải có lòng lành, đối với những người không phải bồ tát phải có lòng thương; nên nghĩ như vầy: những người ấy mất mát rất lớn nếu không nghe không biết không hay, không hỏi không tin không hiểu gì về sự phương tiện tùy nghi thuyết pháp của đức Thế Tôn, nghĩa là không hỏi không tin không hiểu gì về Pháp Hoa. Dầu vậy, ta vẫn nguyện rằng khi được tuệ giác vô thượng rồi, tùy những người này ở vào bất cứ vị trí nào, ta cũng đem thần thông lựctrí tuệ lực mà dẫn dắt cho họ được đứng vào trong Pháp Hoa. Văn Thù, sau khi Như Lai nhập diệt, bồ tát có ai thành tựu cách sống yên vui thứ tư này thì diễn giảng Pháp Hoa không có lầm lỗi, thường được bốn chúng, được quốc vương, vương tử, đại thần, dân chúng, bà la môn, cư sĩ, và mọi thành phần khác, cùng hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương. Chư thiên ở trong không gian, vì nghe pháp nên cũng thường xuyên theo hầu. Khi vị ấy ở những nơi thôn xóm thành thị, hoặc ở những chỗ núi rừng thanh vắng, có ai đến muốn gạn hỏi, thì chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà hộ vệ vị ấy, làm cho người nghe ai cũng hoan hỷ. Tại sao, vì Pháp Hoabản kinh được sự giữ gìn của thần lực chư Phật quá khứ vị lai cùng với hiện tại. Văn Thù, trong vô lượng quốc độ, kinh Pháp Hoa này đến nỗi cái tên còn khó được nghe đến, huống chi được nhìn thấy, thọ trì đọc tụng đối với kinh ấy.

Văn Thù, ví như vị luân vương hùng cường, muốn sử dụng uy thế làm cho các nước thần phục. Nhưng các quốc vương không tuân lịnh. Luân vương phải động binh chinh phạt. Và thấy tướng sĩ chiến đấu ai có công thì luân vương mừng, tùy công mà thưởng bằng cách hoặc cho ruộng đất, nhà cửa, thôn xóm, thành thị, hoặc cho y phục và những đồ trang sức thân thể, hoặc cho những thứ quí báu như bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, hoặc cho voi ngựa, xe thuyền, tôi tớ, dân chúng. Chỉ viên ngọc sáng trong bối tóc thì không đem cho, vì chỉ trên đỉnh đầu của luân vương mới nên có viên ngọc sáng ấy. Nếu đem cho thì tướng sĩ của luân vương tất hết sức kinh dị. Văn Thù, Như Lai cũng vậy, nhờ định lựctuệ lực mà có quốc gia chánh pháp, ngự trị ba cõi. Nhưng chúa tể các loại ma không chịu khuất phục. Tướng sĩ hiền thánh của Như Lai phải chiến đấu với chúa tể các loại ma ấy. Và ai có công thì Như Lai hoan hỷ, ở giữa bốn chúng mà nói cho họ các kinh pháp để họ đẹp dạ, thưởng cho họ bao nhiêu là tài sản chánh pháp đại loại như thiền định, giải thoát, căn bảnnăng lực thuần khiết, lại ban cho họ đô thành niết bàn, tuyên ngôn họ được niết bàn để dẫn đạo cho lòng họ hoan hỷ. Nhưng không nói cho họ kinh Pháp Hoa này.

Văn Thù, vị luân vương thấy tướng sĩ ai có công lớn mới rất mừng, và đem viên ngọc sáng, một viên ngọc khó có ai tin nổi giá trị của nó, từ lâu luân vương để trong bối tóc, không bừa bãi cho ai mà nay thưởng cho. Như Lai cũng vậy, làm vị pháp vương vĩ đại trong cả ba cõi, đem chánh pháp giáo hóa hết thảy chúng sinh, thấy tướng sĩ hiền thánh chiến đấu với ma hợp thể, ma phiền não và ma chết chóc mà ai có công lớn diệt ba độc, vượt ba cõi, phá lưới ma, thì bấy giờ Như Lai rất hoan hỷ, và đem kinh Pháp Hoa, bản kinhnăng lực làm cho chúng sinh đạt đến tuệ giác của bậc Toàn giác, hết thảy thế gian phần nhiều oán ghét khó tin, trước đây chưa nói bao giờ mà nay nói cho. Văn Thù, Pháp Hoapháp thoại bậc nhất của chư Phật. Trong các pháp thoại, Pháp Hoa sâu xa hơn hết, nên cuối cùng Như Lai mới nói mà ban cho, như vị luân vương hùng cường giữ mãi viên ngọc sáng, ngày nay mới đem ban thưởng. Văn Thù, Pháp Hoa là kho tàng bí mật của chư Phật, ở trên hết trong các kinh pháp, Như Lai giữ gìn từ lâu, không nói bừa bãi, ngày nay mới đem phát lộ cho chư vị.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(45) Thường xuyên nhẫn nhục,

xót thương tất cả,

mới diễn giảng được

kinh Phật tán dương.

(46) Trong thời cuối cùng,

kính giữ Pháp Hoa,

thì với những vị

tại gia xuất gia

cùng với những vị

không phải bồ tát,

phải có từ bi

thương người không nghe

không tin Pháp Hoa

là rất mất mát.

(47) Nguyện rằng khi được

tuệ giác Phật đà

thì dùng phương tiện

nói cho Pháp Hoa,

để làm cho họ

đứng trong pháp ấy.

*

(48) Ví như luân vương

năng lực hùng cường,

thấy các tướng sĩ

chiến đấu có công,

thì đem tưởng thưởng

đủ cả mọi vật:

voi ngựa xe thuyền,

đồ trang sức mình,

cùng với nhà đất,

thôn xóm thị thành.

(49) Hoặc cho y phục,

các thứ vàng ngọc,

tôi tớ tài sản

vui vẻ cho cả.

(50) Nhưng ai mạnh nhất

làm việc khó làm,

mới mở bối tóc

lấy cho ngọc sáng.

(51) Như Lai cũng vậy:

làm vua các pháp,

sức mạnh lớn

là sức nhẫn nhục,

có kho báu lớn

là kho tuệ giác,

vận dụng đại từ

cùng với đại bi

giáo hóa thế giới

một cách đúng cách.

(52) Là thấy mọi người

chịu bao khổ não,

muốn thoát khổ não

nên chiến với ma;

Như Lai vì họ

nói các chánh pháp,

đem phương tiện khéo

nói bao khế kinh.

(53) Khi biết mọi người

đắc lực cả rồi,

cuối cùng nói cho

kinh Pháp Hoa này;

tựa như luân vương

lấy viên ngọc sáng

để trong bối tóc

đem ra ban thưởng.

(54) Pháp Hoa tôn quí

trên hết các kinh,

Như Lai giữ gìn

không nói bừa bãi.

Nay mới đúng lúc

nói cho chư vị.

(55) Sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

những ai tìm kiếm

tuệ giác Phật đà,

muốn được yên vui

giảng nói Pháp Hoa

thì phải thân gần

bốn cách sống vui.

*

(56) Đọc tụng Pháp Hoa

thì không lo bực,

cũng không đau ốm,

sắc tướng sáng tươi;

không sinh hay sống

ở trong những chỗ

nghèo nàn khốn cùng

thấp hèn xấu xí.

(57) Ai cũng thích nhìn

như mến hiền thánh.

Đồng tử chư thiên

làm người phục dịch.

(58) Dao gậy vô phương,

độc tố hết phép.

Ai muốn mắng chưởi

miệng lưỡi tắc nghẽn.

(59) Như sư tử chúa

đi đâu chẳng sợ.

Trí tuệ chiếu sáng

như mặt trời chiếu.

(60) Trong mộng thì thấy

toàn việc tốt đẹp.

Được thấy Như Lai

ngồi tòa sư tử,

đang thuyết pháp cho

tỷ kheo bao quanh.

(61) Được thấy tám bộ

chư thiên thiện thần

nhiều bằng hằng sa

cung kính chắp tay,

và thấy chính mình

thuyết pháp cho họ.

(62) Được thấy Như Lai

thân đầy tướng quí

toàn màu hoàng kim,

phóng ra vô số

các tia ánh sáng

chiếu soi khắp cả,

lại còn sử dụng

âm thanh Phạn thiên

tuyên thuyết diễn giảng

các loại chánh pháp.

(63) Lại thấy Như Lai

nói pháp tối thượng

cho cả bốn chúng,

và thấy bản thân

ở trong bốn chúng

chắp tay ca tụng,

(64) nghe pháp, hoan hỷ,

và hiến cúng ngài,

được pháp tổng trì

thành trí bất thoái.

(65) Và thấy Như Lai

biết mình vào sâu

tuệ giác Phật đà

nên thọ ký cho

sẽ thành một đấng

Biết rất chính xác,

bằng cách nói rằng

này thiện nam tử,

sau này ông được

cái trí vô lượng

là trí vĩ đại

của chư Phật đà,

(66) với một quốc độ

tráng lệ sạch sẽ

và lớn đến nỗi

không cõi nào bằng;

trong quốc độ ấy

cũng có bốn chúng

chắp tay lắng nghe

chánh pháp tối thượng.

(67) Lại thấy bản thân

ở trong núi rừng,

tu tập thiện pháp

thấu suốt thật tướng,

vào sâu thiền định

thấy chư Như Lai.

(68) Thấy thân Như Lai

toàn màu hoàng kim,

tướng quí trăm phước

cực kỳ trang nghiêm;

thấy mình nghe pháp

Như Lai tuyên thuyết,

và đem pháp ấy

nói lại cho người.

Những người đọc tụng

Diệu Pháp Liên Hoa

thì thường được có

mộng đẹp như vậy.

(69) Lại mộng thấy mình

làm vị quốc vương,

rời bỏ cung điện

cùng với hoàng gia,

bỏ cả năm thứ

dục lạc thượng thặng,

và rồi đi đến

nơi bồ đề tràng;

(70) ngồi tòa sư tử

dưới cây bồ đề,

và qua bảy ngày

suy tầm tuệ giác

là được hoàn thành

tuệ giác của Phật;

(71) sau khi hoàn thành

tuệ giác vô thượng,

đứng lên chuyển đẩy

bánh xe chánh pháp,

giảng diễn chánh pháp

cho cả bốn chúng

trải qua đến cả

vạn ức thời kỳ;

(72) giảng diễn chánh pháp

thuần khiết tinh túy,

giáo hóa cứu độ

vô lượng chúng sinh,

sau đó nhập vào

niết bàn hoàn toàn,

tựa như đèn tắt

khói cũng không còn.

(73) Chính trong thời kỳ

dữ dội sau này,

ai diễn giảng được

cái pháp bậc nhất,

thì người như vậy

được đại lợi ích

là những hiệu quả

đã nói trên đây.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11536)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12458)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10670)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12003)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15190)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10510)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16419)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12566)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12784)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17885)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8994)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12940)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10217)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15189)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14151)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14063)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24418)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10591)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant