Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương V: Ra Ngoài Lộ Trình (Vìthimutta)

21 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9097)
Chương V: Ra Ngoài Lộ Trình (Vìthimutta)

ABHIDHAMMATTHASANGAHA
THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN

Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải)
Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973

CHƯƠNG NĂM
VÌTHIMUTTA (Ra ngoài lộ trình): CÁC ÐỀ TÀI ÐƯỢC BÀN ÐẾN

I. PÀLI VĂN. 

- 1) Vìthicittavasenevam pavattiyamudìrito, Pavattisangaho nàma sandhiyan dàni vuccati.

2) Catasso bhùmiyo, catubbidhà patisandhi, cattàri kammàni, catudhà maranuppatti ceti vìthimuttasangahe cattàri catukkàni veditabbàni.

II. THÍCH VĂN. 

- Pavattiyamudìrito: Ðã giải thích sự diễn tiến của tâm. Vìthicittavasena: Theo lộ trình của tâm. Sandhiyam: Sự nối liền. Dàni: Nay. Cuccati: Nói đến. Maranuppatti: Nhân của chết. Vìthimuttasangaho: Sự tổng hợp các pháp ra ngoài lộ trình. Veditabbàni: Cần phải biết đến.

III. VIỆT VĂN. 

- 1) Ðã nói đến sự diễn tiến của tâm qua lộ trình. Nay nói đến sự diễn tiến của tâm lúc tái sanh.

2) Trong sự tổng hợp của tâm thoát ngoài lộ trình, 4 loại 4 thứ cần được biết tức là 4 địa, 4 sự tái sanh, 4 nghiệp, 4 nguyên nhân của chết.

IV. THÍCH NGHĨA

- Sự diễn tiến của tâm có hai: 1) Ngang qua lộ trình (Vìthicitta) như đã nói đến trước. 2) Khi tái sanh, tiếp nối từ đời nay qua đời khác. Phần trước đã nói đến trong các chương trước. Nay nói đến phần thứ hai.

BỐN ÐỊA

I. PÀLI VĂN. 

- 3) Tattha apãyabhùmi, kãmasugatibhùmi, rùpàvacarabhùmi, arùpàvacarabhùmi ceti catasso bhùmiyo nàma.

4) Tàsu, nirayo, tiracchànayoni, pettivisayo, asurakàyo ceti apàyabhùmi catubbidhà hoti.

5) Manussà càtummahàràjikà, tàvatinsà, tusità, nimmànarati, paranimmitavasavattì ceti kàmasugatibhùmi sattavidhà hoti.

Sà panàyam, ekàdasavidhà pi kàmàvacarabhùmicceva sankhamgacchati.

II. THÍCH VĂN. 

- Apàyabhùni: Ác thú địa. Kàmasugatibhùmi: Dục giới thiện thú địa. Niraya: Ðịa ngục. Tiricchànayoni: Súc sanh. Pettivisaya: Ngạ quỷ. Asurakàya: A-tu-la. Càtummahàràjikà: 4 thiên vương. Tàvatimsà: Tam thập tam thiên. Yàmà: Dạ ma thiên. Tusità: Ðâu suất đà thiên. Nimmànarati: Hóa lạc thiên. Paranimmitavasavattì: Tha hóa tự tại thiên. Sattavidhà: Có 7 loại. Sankham gacchanti: Tổng hợp.

III. VIỆT VĂN. 

- 3) Ở đây 4 địa là Ác thú địa, Dục giới thiên địa, Sắc giới địa, Vô sắc giới địa.

4) Ở đây ác thú địa này có 4 = Ðịa ngục, súc sanh, ngã quỷ và A-tu-la.

5) Dục giới thiên có 7 = Loài người, Tứ thiên vương, Tam thập tam thiên, Dạ ma thiên, Ðâu suất đà thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên.

Như vậy Dục giới địa tổng cộng có 11 cõi tất cả.

IV. THÍCH NGHĨA

- Apàya: apa + aya: Chỗ không có hạnh phúc. Niraya: Nis + aya (từ chữ ì): Ði đến chỗ tiêu diệt.

Tiracchàna: Tiro: Ngang Acchàna: Ði. Các súc sanh đi ngang, bò xuống, không đi thẳng như người.

Peta: Pa + i + ta: Chúng sanh đã đi nghĩa là đã chết. Chúng không phải là ma quỷ vô hình. Chúng có sắc thân nhưng mắt người không có thể thấy. Chúng không có cảnh giới riêng. Chúng sống trong rừng hay tại các chỗ nhớp nhúa.

Asura nghĩa là những vị không có hoan lạc hay không có chói sáng. Những A-tu-la này khác với một loại A-tu-la thù nghịch với chư thiên và sống ở Tam thập tâm thiên.

Manussa: Loài người. Ma-no Ussannam etesam, những người có những tâm cao thượng. Chữ Phạm Manusya nghĩa là con của Manu, loài người trở thành văn minh sau vị tu sĩ Manu.

Càtummahàràjika: Tứ thiên vương. Cõi này là cõi thấp nhất trong các cõi chư Thiên.

Tàvatimsa: Tam thập tam thiên Sakka, Ðế Thích ở tại đây. Sở dĩ được gọi như vậy là theo tích truyện có 33 vị, dưới sự hướng dẫn của Magha đã làm những thiện sự và được sinh vào cõi này.

Yàma: Yam nghĩa là tàn phá, diệt trừ. Diệt trừ khổ đau nên gọi là Yàma.

Tusita: Những vị sống sung sướng. Theo tục truyền, vị Bồ tát tương lai sống tạ đây và chờ đợi cơ hội thuận tiện để sinh ra làm người và thành Phật.

Nimmànarati: Những vị sống hoan lạc trong những lâu đài tự tạo ra.

Paranimmitavasavatti: Những vị đem dưới quyền của mình các vật do các vị khác hóa hiện.

SẮC GIỚI THIÊNVÔ SẮC GIỚI THIÊN

I. PÀLI VĂN. 

- 6) Brahamapàrisajjà, Brahmapurohità, Mahàbrahmà ceti pathamajjhànabhùmi, Parittàbhà, Appamànàbhà, Àbhassarà ceti dutiyajjhànabhùmi. Parittasubhà, Appamànasubhà, Subhakinhà ceti tatiyajjhànabhùmi. Vehapphalà, Asannasattà, Suddhàvàsà ceti catutthajjhànabhùmì ti rùpàvacarabhùmi solasavidhà hoti. Avihà, Atappà, Sudassà, Sudassì, Akanitthà ceti suddhàvàsa-bhùmi pancavidhà hoti.

7) Àkàsànancàyatanabhùmi, Vinnànancàyatanabhùmi, Àkincànnàyatanabhùmi, Nevasannànàsannàyatanabhùmi ceti arùpabhùmi catubbidhà hoti.

II. THÍCH VĂN. 

- Brahmapàrisajjà: Phạm chúng thiên. Brahmapurohità: Phạm phụ thiên. Mahàbrahmà: Ðại Phạm Thiên. Parittàbhà: Thiểu quang thiên. Appamànàbhà: Vô lượng quang thiện. Àbhassarà: Quang âm thiên. Parittasubhà: Thiểu tịnh thiên. Appamanàsubhà: Vô lượng tịnh thiên. Subhakinhà: Biến tịnh thiên. Vehapphalà: Quảng quả thiên. Asannasattà: Vô tưởng thiên. Suddhàvàsà: Phước sanh thiên. Solasavidhà: 16 loại. Avihà: Vô phiền thiên. Atappà: Vô nhiệt thiên. Sudassà: Thiện hiện thiên. Sudassì: Thiện kiến thiên. Akanitthà: Sắc cứu cánh thiên.

III. VIỆT VĂN. 

- 6) Ðệ nhứt thiền thiên có ba: Phạm chúng thiên. Phạm phụ thiên. Ðại Phạm thiên. Ðệ nhị thiền thiên có ba: Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Quang âm thiên. Ðệ tam thiền thiên có ba: Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên, Biến tịnh thiên. Ðệ tứ thiền thiên có ba: Quảng quả thiên, Vô tưởng thiên, Phước sanh thiên. Phước sanh thiên chi làm 5: Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, Thiện hiện thiên, Thiện kiến thiên và Sắc cứu kính thiên.

7) Vô sắc giới thiên có 4: Không vô biên xứ thiên, Thức vô biên xứ thiên, Vô sở hữu xứ thiênPhi tưởng phi phi tưởng xứ thiên.

IV. THÍCH NGHĨA

- Có ba Phạm thiên, chỗ sanh trưởng của những vị đã chứng sơ thiền. Cảnh giới thấp nhất là Phạm chúng thiên nghĩa là những vị sanh ra giữa những đồ chúng của Ðại Phạm Thiên. Cảnh thứ hai là Phạm phụ thiên nghĩa là những phụ tá, những tổng trưởng của Ðại Phạm Thiên. Cảnh giới thứ ba là Ðại Phạm Thiên. Các vị này được gọi vậy vì các vị này sống lâu hơn; hình thái đẹp hơn và nhiều hạnh phúc hơn.

TOÁT YẾU

I. PÀLI VĂN. 

- 8) Puthujjanà na labbhanti suddhàvàsesu sabbathà.
Sotàpannà ca sakadàgàmino càpi puggalà.
Ariyà nopalabbhanti asannàpàyabhùmisu.
Sesatthànesu labbhanti aryànariyà pi ca.

II. THÍCH VĂN. 

- Puthujjanà: Phàm phu. Suddhàvàsesu: Ở Phước sanh thiên. Ariyà: Các bậc thánh. Anariyà: Các bậc không phải thánh.

III. VIỆT VĂN. 

- 8) Ở Phước sanh thiên, các phàm phu, các bậc Dự lưu, Nhứt Lai không có sanh trong mọi trường hợp. Các vị Thánh không có sanh trong Vô tưởng thiênác thú. Các vị Thánh hay không phải Thánh sanh trong những cảnh giới còn lại.

IV. THÍCH NGHĨA

- Ở Phước sanh thiên, chỉ có các vị A-na-hàm và A la hán sanh. Các vị A-na-hàm được sanh ở đây, chứng quả A la hán và sống cho đến khi thọ mạng mãn.

CÁC LOẠI KIẾT SANH THỨCÁC THÚ

I. PÀLI VĂN. 

- 9) Apàyapatisandhi, kàmasugatipatisandhi, rùpàvacarapatisandhi, arùpàvacarapatisandhi ceti catubbidhà patisandhi nàma.

10) Tattha akusalavipàkopekkhàsahagatasantìranam apàyabhùmiyam okkantikkhane patisandhi, hutvà, tato param bhavangam, pariyosànecavanam ca hutvà vocchijjati. Ayamekàpàyapatisandhi nàma.

II. THÍCH VĂN. 

- Okkantikkhane: Khi thác sanh vào. Pariyosàne: Cuối cùng.

III. VIỆT VĂN. 

- 9) Kiết sanh thức có 4: Ác thú kiết sanh thức, Dục giới thiên kiết sanh thức, Sắc giới thiên kiết sanh thứcVô Sắc giới thiên kiết sanh thức.

10) Ở đây, Suy đạc tâm, bất thiện dị thục tương ưng với xả làm Kiết sanh thức khi thác sanh vào Ác thú, rồi thành Hữu phần, cuối cùng thành Tử thức và bị diệt. Ðó là kiết sanh thức độc nhất ở Ác thú.

IV. THÍCH NGHĨA

- Kiết sanh thứcÁc thú là Suy đạc tâm câu hữu với xả và thuộc bất thiện dị thục.

KIẾT SANH THỨCDỤC GIỚI

I. PÀLI VĂN. 

- 11) Kusalavipàkopekkhàsahagatasantìranam pana kàmasugatiyam manussànam ceva jaccandhàdìnam, bhummanissitànam ca vinipàtikasurànam patisandhi-bhavanga-cuti-vasena pavattati. Mahàvipàkàni pana attha sabbatthà pi kàmasugatiyam patisandhi-bhavanga-cuti-vasena pavattanti. Imà nava kàmasugatipatisandhiyo nàma.

Sà panàyam dasavidhà pi kàmàvacarapatisandhicceva sankham gacchati.

II. THÍCH VĂN. 

- Jaccandhàdìnam: Những người sanh ra đã mù v.v... Bhummanissitànam: Bị hệ thuộc với địa giới. Vinipàtikàsurànam: Những A-tu-la bị đọa lạc. Dasavidhà: Có 10 loại. Sankham gacchati: Tổng quát, tổng cộng.

III. VIỆT VĂN. 

- 11) Thiện Dị-thục Suy-đạc câu hữu với xả làm phận sự Kiết sanh thức, Hữu phầnTử tâm cho những người sinh ra đã mù v,v... và những A-tu-la bị đọa lạc. Còn 8 Ðại Dị-thục trong mọi trường hợp làm phận sự Kiết sanh thức, Hữu phầnTử tâm cho những chúng sanh sanh ở Dục giới thiên. 9 Kiết sanh thức này gọi là Kiết sanh thức trong Dục giới thiên. Những Kiết sanh thức ấy họp thành Kiết sanh thứcDục giới.

SỐ LƯỢNG TUỔI THỌ

I. PÀLI VĂN. 

- 12) Tesu catunnam apàyànam, manussànam vinipàtikàsurànam ca àyuppamànagananàya niyamo natthi. Càtummahàràjikànam pana devànan dibbàni pancavassasatàni àyuppamànam. Manussagananàya navutivassasatasahassappamànam hoti. Tato cattuggunam tàvatimsànam. Tato catuggunam yàmànam. Tato catuggunam tusitanam. Tato catuggunam nimmànaratìnam. Tato catuggunam tusitanam. Tato catuggunam nimmànaratìnam. Tato catuggunam paranimmitavasavitìnam devànam ayùppamànam.

13. Navasatam cekavìsa vassànam kotiyo tathà,
Vassasatasahassàni satthi ca vasavattisu.

II. THÍCH VĂN. 

- Àyuppamànaganana: Số lượng tuổi thọ. Yiyamo natthi: Không có hạn định. Dibbàni pancavassasatàni: 500 tuổi trời. Navutivassasatasahassappamànam: Số lượng 9.000.000 năm. Catuggunam: 4 lần nhiều hơn. Navasatam: 900. Ekavìsa: 21. Koti: 10 triệu (10.000.000).

III. VIỆT VĂN. 

- 12) Không có hạn định về số lượng tuổi thọ của những chúng sanh sanh ở 4 cõi Ác thú, của loài người và các A-tu-la bị đọa lạc. Số lượng tuổi thọ của Tứ-thiên-vương là 500 tuổi trời. Tính toán theo tuổi người là 9.000.000 năm. Tuổi thọ của Tam thập tam thiên là 4 lần nhiều hơn, của Dạ ma thiên là 4 lần nhiều hơn, của Ðâu suất thiên là 4 lần nhiều hơn, của Hóa lạc thiên là 4 lần nhiều hơn và của Tha hóa tự tại thiên là 4 lần nhiều hơn.

13. Thọ mạng của Tha hóa tự tại thiên là 9.216.000.000 tuổi người.

KIẾT SANH THỨCSẮC GIỚI

I. PÀLI VĂN. 

- 14) Pathamajjhànavipàkam pathamajjhànabhùmiyam patisandhi-bhavanga-cutivasena pavattati, tathà dutiyajjhànavipàkam, tatiyajjhànavipàkanca, dutiyajjhànabhùmiyam, catutthajjhànavipàkam tatiyajjhànabhùmiyam, pancamajjhànavipàkam catutthajjhàna-bhùmiyam. Asannasattànam pana rùpameva patisandhi hoti, tathà tato param pavattiyam cavanakàle ca rùpameva pavattitvà nirujjhati. Imà cha rùpàvacarapatisandhiyo nàma.

II. THÍCH VĂN. 

- Tato param: Tiếp theo đó. Cavanakàle: Khi lâm chung.

III. VIỆT VĂN. 

- 14) Sơ thiền dị thục tâm tác độngsơ thiền giới, phận sự Kiết sanh thức, Hữu phầnTử tâm. Cũng vậy đệ nhị thiền dị-thục tâm và đệ tam thiền dị-thục tâm ở đệ nhị thiền thiên giới, đệ tứ thiền dị-thục tâm ở đệ tam thiền thiên giới, đệ ngũ thiền dị-thục tâm ở đệ tứ thiền thiên giới. Riêng đối với chúng sanhVô tưởng thiên, Kiết sanh thứcsắc pháptiếp theo đó cũng vậy trong đời sống và khi lâm chung, chỉ có sắc pháp tồn tại và diệt mất. Những tâm này là 6 Kiết sanh thứcSắc giới.

IV. THÍCH NGHĨA

- Các địa giới thiền phân loại theo kinh tạng nên chỉ có 4, nhị thiềntam thiền hợp lại thành một.

THỌ MẠNG TRÊN SẮC GIỚI THIÊN

I. PÀLI VĂN. 

- 15) Tesu brahmapàrisajjànam devànam kappassa tatiyo bhàgo àyuppamànam, brahmapurohitànam upaddhakappo, mahàbrahmànam eko kappo, parittàbhànam dve kappàni, appamànàbhànam cattàri kappàni, àbhassarànam attha kappàni, parittasubhànam solasa kappàni, appamànasubhànam dvattimsaka ppàni, subhakinhànam catusatthi kappàni, vehapphalànam asannasattànanca panca kappasatàni, avihànam kappasahassàni, atappànam vehapphalànam dve kappasahassàni, sudassànam cattàri kappasahassàni, sudassìnam attha kappasahassàni, akanitthànam solasa kappasahassàni.

II. THÍCH VĂN. 

- Kappa: Kiếp. Tatiyo bhàgo: Một phần ba. Upaddhakappa: Một nửa kiếp.

III. VIỆT VĂN. 

- 15) Ở tại các cảnh giới này, thọ mạng của các vị Phạm chúng thiên là 1/3 của một kiếp, các vị Phạm phụ thiên là 1/2 của kiếp; của Ðại Phạm Thiên là một kiếp; của Thiện quang thiên là 2 kiếp; của Vô lượng quang thiên là 4 kiếp; của Quang Âm thiên là 8 kiếp; của Thiện tịnh thiên là 16 kiếp, của Vô lượng tịnh thiên là 32 kiếp; của Biến tịnh thiên là 64 kiếp; của Quảng quả thiênVô tưởng thiên là 500 kiếp; của Vô phiền thiên là 1.000 kiếp; của Vô nhiệt thiên là 2.000 kiếp; của Thiện hiện thiên là 4.000 kiếp; của Thiện kiến thiên là 8.000 kiếp; của Sắc cứu kính thiên là 16.000 kiếp.

IV. THÍCH NGHĨA

- Kappa: Ở đây ở Ðại kiếp. Có ba loại kiếp: Antarakappa (Trung kiếp), Asankheyyakappa (Vô lượng kiếp) và Mahàkappa (Ðại kiếp). Antarakappa: Trung-kiếp là thời gian tuổi con người lên từ 10 tuổi đến vô số tuổi rồi trụt xuống chỉ có 10 tuổi. 20 trung kiếp như vậy là vô số kiếp (asankheyyakappa), 4 vô số kiếp thành một Ðại kiếp (mahàkappa). Một Ðại kiếp là thời gian cần thiết để quăng cho hết các hột cải trong một khoảng đất rộng, cao và dài một do tuần, cứ 100 năm là quăng một hột cải.

KIẾT SANH THỨC VÀ TUỔI THỌ Ở VÔ SẮC GIỚI - TOÁT YẾU

I. PÀLI VĂN. 

- 16) Pathamàruppàdivipàkàni pathamàruppàdibhùmisu yathàkkamam patisandhi-bhavanga-cutivasena pavattati Imà catasso àruppapatisandhiyo nàma.

17) Tesu pana àkàsànancàyatanùpagànam devànam vìsati kappasahassàni àyuppamànam vinnànancàyatanùpagànam devànam cattàlisa kappasahassàni, ãkincannàyatanùpagànam devànam satthi kappasahassàni, nevasannànàsannàyatanũpagànam devànam caturàsìti kappasahassàni.

18) Patisandhi bhavangan ca tathà cavanamànasam,
Ekameva tatheveka-visayam cekajàtiyam.

II. THÍCH VĂN. 

- Pathamàruppàdivipàkàni: Vô sắc đệ nhứt thiền dị thục tâm v.v... Yathàkkamam: Tùy theo sự thích hợp Àkàsànancàyatanùpagànam: Ðã chứng được không vô biên xứ. Cavanamànasam: Tử tâm. Ekameva tatheva: Giống nhau. Ekavisayam: Một đối tượng. Ekajàtiyam: Trong một đời.

III. VIỆT VĂN. 

- 16) Những dị thục tâm của đệ nhứt thiền v.v... ở vô sắc giới hoạt độngvô sắc sơ thiền cảnh giới v.v... tùy theo sự thích hợp với tánh cách Kiết sanh thức, Hữu phầnTử tâm. Chúng là 4 Kiết sanh thứcVô sắc giới.

17) Ở những cảnh giới ấy, thọ mạng của Chư Thiên ở không Vô biên xứ là 20 ngàn kiếp, của Chư ThiênThức vô biên xứ là 40 ngàn kiếp, của Chư ThiênVô sở hữu xứ là 60 ngàn kiếp, của Chư ThiênPhi tưởng phi phi tưởng xứ là 84 ngàn kiếp.

18) Trong một đời sống, Kiết sanh thức, Hữu phầnTử tâm thuộc một loại và cùng một đối tượng.

BỐN LOẠI NGHIỆP

I. PÀLI VĂN. 

- 19) Janakamupatthambhakamupapìlakamupaghàtakam ceti kiccavasena, garukamàsannamàcinnam katattàkammam ceti pàkadànapariyàyena, ditthadhammavedanìyam upapajjavedanìyam aparà-pariyavedanìyam ahosikammam ceti pàkakàlavasena cattàri kammàni nàma.

Tathà akusalam, kàmàvacarakusalam, rùpàvacarakusalam, arùpà-vacarakusalam càti pàkatthànavasena.

II. THÍCH VĂN. 

- Janaka: Sanh nghiệp. Upatthambhaka: Trì nghiệp. Upapìlaka: Chướng nghiệp. Upaghàtaka: Ðoạn nghiệp. Kicca: Công tác. Garuka: Cực trọng nghiệp. Àsanna: Cận tử nghiệp. Àcinna: Tập quán nghiệp. Katattà: Tích lũy nghiệp. Pàkadànapari-yàyena: Theo sức mạnh của quả báo. Ditthadhammavedananìya: Hiện báo nghiệp. Upapajjavedanìya: Sanh báo nghiệp. Aparàpariyavedanìya: Hậu báo nghiệp. Ahosikamma: Vô hiệu nghiệp. Pàkakàlavasena: Theo thời gian của quả báo. Pàkatthànavasena: Theo vị trí của quả báo.

III. VIỆT VĂN. 

- 19) Về phương diện công tác, có bốn loại nghiệp: sanh nghiệp, trì nghiệp, chướng nghiệpđoạn nghiệp.

Về phương diện sức mạnh thứ tự đưa đến hình thành của quả báo, có bốn loại nghiệp: cực trọng nghiệp, cận tử nghiệp, tập quán nghiệp và tích lũy nghiệp.

Về phương diện thời gian đưa đến sự thọ lãnh kết quả của nghiệp, có bốn loại nghiệp: hiện báo nghiệp, sanh báo nghiệp, hậu báo nghiệpvô hiệu nghiệp.

Về phương diện vị trí quả báo, có bốn loại nghiệp: bất thiện nghiệp, dục giới thiện nghiệp, sắc giới thiện nghiệpvô sắc giới thiện nghiệp.

IV. THÍCH NGHĨA

- Kamma nghĩa là hành động, tạo tác. Nói một cách thiết thực hơn, kamma là những hành động thiện, ác cố ý. Trừ đức Phật và các vị A la hán, hành động cố ý của các loài khác đều gọi là kamma.

Kamma là hành động, vipàka là quả hay phản ứng của nghiệp. Theo Abhidhamma, kamma bao trùm 12 Bất thiện Tâm, 8 Dục giới thiện tâm, 5 Sắc giới thiện tâm, 4 Vô sắc thiện tâm. 8 Siêu thế tâm không gọi là kamma vì những tâm này có tánh cách đoạn trừ căn rễ của kamma, khiến không còn sanh tử. Tại Siêu thế tâm, trí tuệ (pannà) chiếm địa vị ưu thắng. Tại Dục giới tâm, Tư (cetanà) chiếm địa vị ưu thắng. 29 tâm kể trên gọi là kamma, vì chúng chứa khả năng tạo ra quả báo. Có 23 tâm gọi là quả báo dị thụcDục giới. 5 tâm là quả báo dị thụcSắc giới và 4 tâm là quả dị thụcVô sắc giới.

Janakakamma (sanh nghiệp) là nghiệp chi phối sự sanh trưởng trong một đời sau. Sự chết của con người chỉ là sự kết liễu tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chính tâm sát na cuối cùng định đoạt đời sống tương lai của con người.

Theo sớ giải, Janakakamma là nghiệp sanh ra tâm uẩn và sắc uẩn khi mới thọ thai. Tâm đầu tiên là Patisandhi vinnàna (kiết sanh thức) bị chi phối bởi Janakakamma này.

Upatthambhakakamma (trì nghiệp) là nghiệp tiếp theo Janakakamma, duy trìnâng đỡ nghiệp này cho đến khi mệnh chung. Một thiện trì nghiệp có thể làm con người khỏe mạnh, an lạc, hạnh phúc. Trái lại, một bất thiện nghiệp có thể làm con người bệnh hoạn, đau khổ v.v...

Upapìlakakamma là chướng nghiệp. Nghiệp này, trái với nghiệp trước, làm cho yếu ớt, dừng lại và chậm trễ sự kết thành của sanh nghiệp. Như một người sanh ra với một thiện sanh nghiệp có thể đau đớn bịnh hoạn, do vậy không có kết quả tốt lành của nghiệp thiện.

Upaghàtakakamma, đoạn nghiệp là nghiệp đoạn trừ, tiêu diệt năng lực của sanh nghiệp, như một mũi tên đang bay có thể bị một sức mạnh nào khác cản lại khiến cho mũi tên rơi xuống. Sức mạnh ấy là đoạn nghiệp. Ðoạn nghiệp này có thể thiện hay ác.

Một ví dụ điển hình công năng của các nghiệp trên là đời sống của Devadatta. Thiện sanh nghiệp khiến Devadatta sanh trong gia đình vương giả giàu có. Nhờ trì nghiệp Devadatta được sống hạnh phúc an lạc trong một thời gian khá dài. Vì chướng nghiệp, Devadatta bị nhục nhã khi bị tẩn xuất ra khỏi Giáo hội. Vì đoạn nghiệp, Devadatta bị chết một cách đau đớn.

Garukakamma (cực trọng nghiệp) có thể thiện hay bất thiện. Nghiệp này nhất định tạo quả đời này hay đời sau. Nếu là thiện, thời thuộc ý nghiệp như các thiền tâm. Nếu không phải thiện, có thể khẩu nghiệp hay thân nghiệp. 5 cực trọng nghiệp là giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hòa hợp tăng, làm thân Phật chảy máu. Cực trọng này cũng gọi là Ànantariyakamma (vô gián nghiệp) vì nhất định nghiệp này đem đến kết quả trong đời sau. Nếu một người tu thiền và sau làm một cực trọng nghiệp, thiện nghiệp của người này sẽ bị cực trọng nghiệp tiêu trừ. Ðời sống sau này của vị này sẽ bị chi phối bởi cực trọng nghiệp, như Devadatta mất thần thông và phải sanh vào ác thú vì đã làm đức Phật bị thươngphá hòa hợp Tăng. Như vua Ajàtasattu không thể chứng sơ quả vì đã giết phụ vương.

Àsannakamma (cận tử nghiệp) là nghiệp làm ra hay nhớ nghĩ khi lâm chung. Nghiệp này rất quan trọng vì chi phối đến đời sống sau này. Cho nên nhiều lễ nghi tổ chức khiến người sắp chết nhớ lại việc thiện để người ấy được sanh vào những cõi tốt đẹp hơn. Một người ác có thể sanh lên thiện thú nếu khi chết người ấy nhớ hay làm một thiện sự. Trái lại một người thiện có thể chết một cách đau đớn hay sanh vào ác thú nếu khi chết người ấy làm hay nhớ đến một việc ác. Như hoàng hậu Mallika, vợ của vua Kosala sống một đời sống ngay thẳng tốt lành, nhưng chỉ vì khi lâm chung, nhớ đến một lời nói láo của mình, nên phải sống 7 ngày đau khổ trong ác thú.

Àcinnakamma (tập quán nghiệp) là nghiệp thường làm và thường nhớ đến. Chính những hành động trở thành tập quán tác thành cá tánh con người. Cunda, người đồ tể, chết la hét như con heo, vì sống bằng nghề đồ tể, dầu sống bên cạnh chùa của đức Phật. Vua Dutthagàmi ở Tích-Lan thường cúng dường cơm nước cho chư Tăng trước khi ăn cơm. Chính tập quán nghiệp này khiến vua hoan hỷ lúc chết và được sanh lên cõi trời Tusita (Ðâu suất).

Katattàkamma (tích lũy nghiệp) nghĩa là làm những nghiệp không thuộc vào ba loại nghiệp kể trên và những nghiệp làm mà quên liền, thuộc về loại nghiệp này. Nghiệp này như là chỗ chứa đựng các nghiệp cho một chúng sanh.

Ditthidhammavedanìyakamma: Hiện báo nghiệp, là nghiệp đưa đến kết quả hiện tại. Theo Abhidhamma, chúng ta làm thiện hay ác trong giai đoạn Javana (tốc hành tâm), tâm này tồn tại đến 7 Sát-na. Quả báo của tâm sát-na thứ nhất, tâm yếu ớt nhất, có thể được lãnh thọ ngay ở đời này. Như vậy gọi là hiện báo nghiệp. Nếu không thọ lãnh ngay trong đời này, nghiệp ấy gọi là Vô hiệu. Tâm sát-na yếu ớt thứ hai là tâm sát-na thứ 7. Quả báo của tâm này có thể thọ lãnh đời sau thì gọi là Upapajjavedanìya (sanh báo nghiệp). Nghiệp này nếu không đưa đến quả báo đời sau thì được gọi là vô hiệu. Quả báo của các sát-na tâm ở giữa có thể được thọ lãnh bất kỳ lúc nào cho đến khi chứng được Niết bàn. Loại nghiệp này gọi là Aparàpariyavedanìya hậu báo nghiệp. Chính đức Phật và các vị A-la-hán cũng không thoát khỏi nghiệp này. Không có một loại nghiệp đặc biệt gọi là Ahosikamma (Vô hiệu nghiệp), nhưng khi một nghiệp nào phải có quả báo ở đời này hay đời sau, mà không thành tựu được, nghiệp ấy gọi là Ahosikamma.

CÁC NGHIỆP BẤT THIỆN

I. PÀLI VĂN. 

- 20) Tattha akusalam kàyakammam, vacìkammam, manokammam ceti kammadvàravasena tividham hoti.

21) Katham? Pànàtipàto, adinnàdànam, kàmesu micchàcàro ceti kàyavinnattisankhàte kàyadvàre bàhullavuttito kàyakammam nàma.

22) Musàvàdo, pisunvàcà, pharusavàcà, samphappalàpo ceti vacìvinnattisankhàte vacìdvàre bàhullavuttito vacìkammam nàma.

23) Abhijjhà, byàpàdo, micchàditthi ceti annataràpi vinnattiyà manasmim yeva bàhullavuttito manokamman nàma.

24) Tesu pànàtipàto, pharusavàcà, byàpàdo ca dosamùlena jàyanti. Kàmesu micchàcàro, abhijjhà micchàditthi ca lobhamùlena. Sesàni cattàri pi dvìhi mùlehi sambhavanti. Cittuppàdavasena panetam akusalam sabbathà pi dvàdasavidham hoti.

II. THÍCH VĂN. 

- Pànàtipàta: Sát sanh. Adinnadànam: Lấy của không cho. Kàmesu micchàcàra: Tà dâm. Kàyavinnattisankhàte: Ðược gọi là thân biểu. Bàhullavuttito: Nhiều lần, phần lớn. Dùng chữ này vì những hành động này có thể làm qua những ngưỡng cửa khác. Abhijjhà: Tham. Vyàpàda: Sân. Micchàditthi: Tà kiến. Annataràpi vinnattiyà: Qua các biểu nghiệp khác. Jàyanti: Sinh ra. Sesàni: Còn lại. Cittuppda: Tâm sanh.

III. VIỆT VĂN. 

- 20) Ở đây có ba loại bất thiện nghiệp tùy theo nghiệp môn: Thân nghiệp, khẩu nghiệpý nghiệp.

21) Sao? Sát sanh, lấy của không cho, tà dâm gọi là thân nghiệp vì chúng phần lớn làm bởi thân.

22) Nói láo, nói hai lưỡi, ác ngữ, ỷ ngữ gọi là khẩu nghiệp vì chúng phần lớn do miệng thốt ra.

23) Tham, sân, các tà kiến gọi là ý nghiệp vì chúng phần lớn làm bởi ý.

24) Trong những nghiệp này, sát sanh, ác khẩu và sân được khởi lên do sân căn. Tà dâm, tham, tà kiến được khởi lên do tham căn. 4 pháp còn lại khởi lên do cả hai căn. Tùy theo tâm sanh, bất thiện có 12 loại tất cả.

IV. THÍCH NGHĨA

- Tà kiến có ba loại: Ahetuka ditthi: xem mọi vật sinh ra không có nhân gì. Akiriyaditthi xem thiện và ác không có quả báo. Nàtthika ditthi: xem không có đời sau.

CÁC NGHIỆP THIỆN

I. PÀLI VĂN. 

- 25) Kàmàvacarakusalampi kàyadvàre pavattam manokammam ceti, Kammadvàravasena tividham hoti. Tathà dàna-sìla-bhàvanàvasena. Cittuppàdavasena panetam atthavidham hoti. Dàna-sìla-bhàvanà-apacàyana-veyyàvaccapattidàna-pattànumodana - dhammasavana-dhammadesanà-ditthijjukammavasena dasavidham hoti. Tam panetam vìsatividhampi kàmàvacarakammamicceva sankham gacchati.

26. a) Rùpàvacarakusalam pana manokammameva, tanca bhàvanàmayam appanàpattam, jhànangabhedena pancavidham hoti.

b) Tathà arùpàvacarakusalam ca manokammam. Tampi bhàvanà-mayam, appanàpattam, àrammanabhedena catubbidham hoti.

II. THÍCH VĂN. 

- Pavattam: Thuộc về, diễn hành. Dàna: Bố thí. Sìla: Trì giới. Bhàvanà: Thiền định. Apacàyana: Cung kính. Veyyàvacca: Phục vụ. Pattidàna: Bố thí phước, hồi hướng công đức. Pattànumodana: Tùy hỷ công đức. Dhammasavana: Nghe pháp. Dhammadesanà: Thuyết pháp. Ditthijjukammavasena: Khiến tà kiến được chơn chánh. Sankham gacchati: Tổng hợp lại. Bhàvanàmayam: Thuộc về thiền định. Appanàttam: thuộc về an chỉ (appanà) tức là thiền tâm.

III. VIỆT VĂN. 

- 25) Thiện nghiệpDục giới cũng có ba loại theo ngưỡng cửa hoạt động, tức là nghiệp làm qua thân môn gọi là thân nghiệp, qua khẩu môn gọi là khẩu nghiệp, qua ý môn gọi là ý nghiệp. Cũng chia làm ba loại theo: bố thí, trì giới, thiền định; Lại chia làm tám theo loại tâm khởi lên. Lại cũng chia làm mười loại theo; Bố thí, trì giới, thiền định, cung kính, phục vụ, hồi hướng công đức, tùy hỷ công đức, nghe pháp, thuyết pháp, khiến tà kiến trở thành chơn chánh. Như vậy tổng hợp có hai mươi thiện nghiệpDục giới.

26. a) Còn Sắc giới thiện chỉ thuộc ý nghiệp, do thiền định sanh, thuộc thiền tâm và chia thành năm loại theo các cõi thiền.

b) Cũng vậy Vô sắc giới thiện chỉ thuộc ý nghiệp, do thiền định sanh, thuộc thiền tâm và chia thành bốn loại theo đối tượng tu hành.

IV. THÍCH NGHĨA

- Ðoạn này chỉ các thiện tâmDục giới, Sắc giớiVô sắc giới, phân loại theo thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp hoặc phân loại theo các thiện pháp, hoặc theo các thiền định.

QUẢ CỦA NGHIỆP BẤT THIỆN

I. PÀLI VĂN. 

- 27) Etthàkusalakammamuddhaccarahitam apàyabhùmiyam patisandhim janeti. Pavattiyam pana sabbampi dvàdasavidham sattàkusalapàkàni sabbathà pi kàmaloke rùpaloke ca yathàraham vipaccati.

II. THÍCH VĂN. 

- Ettha: Ở đây. Uddhaccarahitam: Trừ trạo cử. Apàyabhùmi: Ác thú. Pavattiyam: Trong sự diễn tiến của tâm. Sattàkusalapàkàni: Bảy bất thiện dị thục. Vipaccati: Sinh quả.

III. VIỆT VĂN. 

- 27) Ở đây, trừ trạo cử, các bất thiện nghiệp còn lại khiến sanh vào cõi Ác thú. Nhưng tất cả mười hai bất thiện nghiệp phát sanh bảy bất thiện dị thục tâm, những tâm này có thể khởi ở Dục giới và ở Sắc giới, trong sự diễn tiến của tâm, tùy theo trường hợp.

IV. THÍCH NGHĨA

- Uddhacca (Trạo cử) không đủ sức mạnh để tạo Patisandhi trong ác thú. Trạo cử chỉ diệt trừ trong A La hán đạo tâm. Ác quả của mgười hai bất thiện tâm là bảy bất thiện dị thục tâm, chúng có thể hiện hạnh trong đời sống hiện tại.

QUẢ CỦA NGHIỆP THIỆN

I. PÀLI VĂN. 

- 28) Kàmàvacarakusalampi kàmasugatiyameva patisandhim janeti. Tathà pavattiyam ca mahàvipàkàni. Ahetukavipàkàni pana attha pi sabbatthàpi kàmaloke rùpaloke ca yathàraham vipaccati.

II. THÍCH VĂN. 

- Kàmasugati: Dục giới thiện thú.

III. VIỆT VĂN. 

- 28) Thiện nghiệpDục giới khiến sanh ở thiện thú cõi Dục giới. Cũng vậy tám Ðại dị thục khởi lên trong đời sống hiện tại (làm công tác đồng sở duyên) (Tadàlambana) ở Dục giới. Tám Dị thục vô nhân có thể sanh ở Dục giớiSắc giới (trong đời sống hiện tại) tùy theo trường hợp.

IV. THÍCH NGHĨA

- Các thiện nghiệp đưa đến thiện quả là tám vô nhân thiện dị thục tâm và tám Tịnh quang Dị thục tâm. Kết quả của tám Tịnh quang thiện tâm có thể là Kiết sanh thức (Patisandhi) và cũng có thể là tám Tịnh quang thiện dị thục tâm trong đời sống hằng ngày.

QUẢ CỦA HAI VÀ BA THIỆN NHÂN

I. PÀLI VĂN. 

- 29) Tatthàpi tihetukamukkatham kusalam tihetukam patisandhim datvà pavatte solasa vipàkàni vipaccati. Tihetukamomakam dvihetukamukkattham ca kusalam dvihetukam patisandhim datvà pavatte tihetukarahitàni dvàdasa vipàkàni vipaccati. Dvihetuka momakam pana kusalam ahetukameva patisandhim deti. Pavatte ca ahetukavipàkàneva vipaccati.

II. THÍCH VĂN. 

- Ukkattha: Thù thắng. Tihetukam: Ba nhân. Omaka: Thấp.

III. VIỆT VĂN. 

- 29) Ở đây, các thiện nghiệp thù thắng đầy đủ ba nhân khiến được Kiết sanh thức có đủ ba nhân (rất thông minh) và ở trong đời được sanh mười sáu dị thục. Thiện nghiệp tương ưng với ba thiện nhân thấp kém hơn và với hai nhân thù thắng hơn khiến được Kiết sanh thức có đủ hai nhân, và đưa đến kết quả mười hai dị thục, trừ những dị thục có đủ ba nhân, trong đời sống hằng ngày. Những thiện nghiệp tương ưng với hai nhân kém hơn khiến được Kiết sanh thức không có nhân và đem đến kết quả dị thục vô nhân trong đời sống hàng ngày.

IV. THÍCH NGHĨA

- Các thiện nghiệp thù thắng đầy đủ ba nhân là bốn Tịnh quang thiện tâm tương ưng với trí. Chữ Ukkattha (U: Cao) (Kas: Kéo) là thù thắng thiện nghiệp, có thiện nhân trước và sau khi hành động. Như bố thí cho một vị hết sức gìn giữ giới luật thanh tịnh, với tiền của được một cách chơn chánh và sau khi cho khônghối tiếc được xem là một thiện nghiệp thù thắng nhất. Omaka: Thấp kém. Khi bố thí, có thể có tâm với ba thiện nhân. Nhưng nếu cho một người độc ác với tiền của không được chân chánh và sau lại hối hận thời nghiệp như vậy là gọi là thấp kém.

Mười sáu dị thục tâm khởi lên trong đời sống bình thường là tám vô nhân tâm và tám hữu nhân hoạt động với công tác Tadàlam bana (Ðồng sở duyên). Bốn thiện - nghiệp yếu ớt hơn cả ba thiện nhân (4 Tịnh quang tâm tương ưng với trí) và bốn thiện nghiệp mạnh hơn chỉ có vô tham vô sân (4 Tịnh quang tâm không tương ưng với trí) khiến sanh ra có trí thông minh sút kém. Quả dị thục của chúng khởi lên, trong tuần tự diễn tiến của tâm chỉ có mười hai loại, tức là trừ 4 loại tương ứng với trí. Một thiện tâm yếu ớt hơn, chỉ có vô tham, vô sân làm nhân, (không có vô si tức là bốn tâm không tương ưng với trí) khiến sanh ra thành người hoặc sanh ra đã mù, câm hay ngu đần. Các dị thục khởi lên trong diễn tiến của tâm gồm tám vô nhân dị thục tâm.

TOÁT YẾU

I. PÀLI VĂN. 

- 30) Asankhàram sasankhàra-vipàkàni na paccati,
Sasankhàramasankhàravipàkàni ti kecana.
Tesam dvàdasa pàkàni dasattha ca yathàkkamam,
Yathàvuttànusàrena yathàsambhavamuddise.

II. THÍCH VĂN. 

- Paccati: Sanh ra. Kecana: Một số luận sư. Dvàdasa dasattha: Mười hai, mười và tám. Yathàkkamam: Tùy thuộc theo. Yathàvuttànusàrena: Theo như đã nói trước. Yathàsambhavam: Theo thứ tự hưng khởi. Uddise: Cần được nêu lên.

III. VIỆT VĂN. 

- 30) Một vài (luận sư) cho rằng, các tâm không cần nhắc bảo không thể sanh ra dị thục tâm cần được nhắc bảo và tâm cần được nhắc bảo không thể sanh ra dị thục tâm không cần nhắc bảo.

Theo (các vị này) như đã nói đến trước, các dị thục tâm khởi lên, theo thứ tự là 12, 10 và 8 cần được nêu lên.

IV. THÍCH NGHĨA

- Những luận sư đề cập đến là những luận sư giáo phái của Ðại Ðức Mahàdhammarakkhita ở chùa Moravapi, Tích-Lan. Theo những vị này, một tâm mạnh hơn trong hai tâm không cần nhắc bảo, tương ưng với trí có thể sanh 12 dị thục tâm tức là 4 tâm không cần nhắc bảo và tám vô nhân dị thục tâm. Cũng vậy một tâm mạnh hơn trong hai tâm cần được nhắc bảo, tương ưng với trí có thể sanh 12 dị thục tâm, tức là 4 tâm cần được nhắc bảo và tám vô nhân tâm.

Một tâm yếu hơn của hai tâm tương ưng với trí và một tâm mạnh hơn của hai tâm không tương ưng với trí không cần nhắc bảo sanh 10 dị-thục tâm (2 dị thục tâm không tương ưng với trí không cần nhắc bảo và tám vô nhân tâm). Cũng vậy đối với hai tâm cần được nhắc bảo. Một tâm yếu hơn của tâm không tương ưng với trí chỉ sanh có tám vô nhân tâm.

QUẢ CỦA SẮC GIỚI THIỆN NGHIỆP

I. PÀLI VĂN. 

- 31) Rùpàvacarakusalam pana pathamajjhànam parittam bhàvetvà brahmapàrisajjesu uppajjati. Tadeva majjhimam bhàvetvàbrahmapurohitesu, panìtam bhàvetvà mahàbrahmesu. Tathà dutiyajjhãnam-tatiiajjhànanca paritam bhàvetvà parittàbhesu, majjhimam bhàvetvà appamànàbhesu, panìtam bhàvetvà àbhassaresu. Catutthajjhànam parittam bhàvetvà paritasubhesu, majjhimam bhàvetvà appamànasubhesu, panìtam bhàvetvà subhakinhesu. Pancamajjhànam bhàvetvà vehapphalesu, tadeva sannàviràgam bhàvetvà asannasattesu. Anàgàmino pana suddhàvàsesu uppajjanti.

II. THÍCH VĂN. 

- Paritta: nhỏ. Brahmapàrisà: Phạm chúng. Brahmapurohita: Phạm phụ thiên. Mahàbrahmà: Ðại Phạm thiên. Parittàbha: Thiểu quang thiên. Appamànàbha: Vô lượng quang thiên. Àbhassara: Quang âm thiên. Parittasubha: thiểu tịnh thiên. Appamànasubha: Vô lượng tịnh thiên. Subhakinha: Biến tịnh thiên. Vehapphala: Quảng quả thiên Sannàviràga: Không chấp tưởng. Asannasatta: Loại vô tưởng. Anàgàmino: Những vị bất lai. Suddhàvàsa: Tịnh cư thiên.

III. VIỆT VĂN. 

- 31) Ðối với thiện tâmSắc giới, ai chứng Sơ thiền một cách yếu ớt, được sanh vào cõi Phạm chúng thiên; một cách trung bình, được sanh vào cõi Phạm phụ thiên; một cách thù thắng, được sanh vào cõi Ðại phạm thiên. Cũng vậy, ai chứng Nhị thiềnTam thiền một cách yếu ớt, được sanh vào cõi Vô lượng quang thiên; một cách thù thắng, được sanh vào cõi Quang âm thiên. Ai chứng Tứ thiền một cách yếu ớt, được sanh vào cõi Thiểu tịnh thiên: một cách trung bình, được sanh vào cõi Vô lượng tịnh thiên; một cách thù thắng, được sanh vào cõi Biến Tịnh thiên. Ai chứng Ngũ thiền được sanh vào cõi Quảng quả thiên. Ai chứng thiền này mà không có chấp trước vào tưởng thời được sanh trong hàng vô tưởng hữu tình. Còn những vị chứng quả Bất Lai (A-na-hàm) được sanh vào Tịnh cư thiên.

IV. THÍCH NGHĨA

- Hàng Dự lưu (Sotàpanna) và Nhứt lai (Sakadàgami) chứng Ðệ ngũ thiền được sanh vào cõi Quảng quả thiên nhưng nếu các vị này không có tha thiết gì đến cảnh giới có sắc, có thể sanh vào các Vô sắc giới thiên.

Các hàng Bắt-Lai (Anàgàmi) chứng Ðệ ngũ Thiền và có năm đức tánh tín, tấn, niệm, định, huệ đồng đều, được sanh vào Quảng Quả thiên. Những ai có lòng tin mãnh liệt, lấn át các đức tánh khác, được sanh vào cõi Avihà (vô phiến thiên); có tinh tấn (viriya) mãnh liệt, lấn át các đức tánh khác, được sanh vào cõi Atappa (Vô nhiệt thiên), có niệm (sàti) mãnh liệt, lấn át các đức tánh khác, được sanh vào cõi Sudassa (Thiện Kiến thiên); có định (Sanàdhi) mãnh liệt, lấn át các đức tánh khác, được sanh vào cõi Sudassi (Thiện hiện thiên); có Huệ (Pannà) mãnh liệt, lấn át các đức tánh khác, được sanh vào cõi Akanittha (Sắc cứu cánh thiên).

Các vị Bất Lai không có luật nhất định nói các vị này không sinh vào các cõi khác (Te pana annattha na nibbattantìti niyamonatthi Sớ giải).

Còn các vị A-na-hàm Sukkha-vipassaka (khổ quán) chứng thiền định trước khi chết được sanh vào cõi Tịnh cư thiên.

QUẢ CỦA VÔ SẮC GIỚI THIỆN NGHIỆPTOÁT YẾU

I. PÀLI VĂN. 

- 32) Arùpàvacarakusalam ca yathàkkamam bhàvetvà pàkam arù-pesu uppajjanti.

33. Ittha mahaggatam punnam yathàbhùmi-vavatthitam. Jenetisadisam patisandhippavattiyam.

II. THÍCH VĂN. 

- Mahaggatam: Ðại hành tâm. Vavatthitam: Ðược phân tích, định nghĩa, phân loại. Sadisam: Bằng nhau, giống nhau.

III. VIỆT VĂN. 

- 32) Và đối với Vô sắc giới thiện tâm, tùy theo sự tu hành chứng các cõi Thiền, sẽ được sanh vào các cõi tương ưng.

33. Như vậy đại hành Thiện tâm, được phân định tùy theo cảnh giới, anh những dị thục tâm giống nhau khi thọ sanh và trong đời sống bình thường.

IV. THÍCH NGHĨA

- Ðối với Vô sắc giới thiện tâm, nếu chứng được tâm nào thì sanh vào cõi Vô sắc giới tương đương. Nói đế Ðại hành tâm là tâm ở cả Sắc giớiVô sắc giới.

NGUYÊN NHÂN CỦA CHẾT

I. PÀLI VĂN. 

- 34) Àyukkhayena, kammakkhayena, ubhayakkhayena, upacchedakkammunà ceti catudhà maranuppatti nàma.

II. THÍCH VĂN. 

- Àyukkhaya: Tuổi thọ diệt. Kammakhaya: Nghiệp diệt. Ubhayakkhaya: Cả hai diệt. Upacchedakakamma: Sát nghiệp. Maranuppatti: Nguyên nhân của chết.

III. VIỆT VĂN. 

- 34) Chết có bốn nguyên nhân: thọ diệt, nghiệp diệt, cả hai diệt và sát nghiệp.

IV. NGHĨA VĂN. 

- Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết là sự diệt tận của mạng căn (Jìvitindriya), sức nóng (usna = Tejodhàtu) và thức (vinnàna) của một cá nhân. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nghĩa là sanh tại chỗ khác, như mặt trời mọc một chỗ này nghĩa là mặt trời lặn một chỗ khác. Thọ diệt như khi một người chết vì tuổi già, Nghiệp diệt là thường khi chết, tư (cetanà) của con người rất mạnh và chi phối sự tái sanh của mình. Trong phút cuối cùng này, có sự có mặt của một năng lực đặc biệt, và khi năng lực của sanh nghiệp này tàn diệt, thời mọi hoạt động về sắc thân đình chỉ, cho đến trước khi tuổi già. Cả hai diệt, khi một người sinh ra với tuổi thọ 80, và người này chết lúc 80 tuổi do vì năng lực của sanh nghiệp diệt tận, như vậy người này chết do thọ diệt và nghiệp diệt. Sát nghiệp và nghiệp cắt đứt thình lình sức sống của sanh nghiệp. Ví dụ, một sức mạnh chống đối mạnh hơn có thể làm cho một mũi tên đang bay rơi xuống đất. Cũng vậy, một sức mạnh của nghiệp quá khứ có thể làm cho tiêu tan sanh nghiệp của một loài hữu tình và như vậy khiến loài hữu tình ấy bị chết. Ba loại chết trên gọi là Kàlamarana (chết đúng thời), và loại chết thứ tư gọi là Akàlamarana (chết phi thời hay bất đắc kỳ tử). 

Một ngọn đèn có thể do bốn nguyên nhân sau đây: Hết tim, hết dầu, hết tim và dầu, do một ngoại duyên khác như bị gió thổi. Sự chết của con người cũng do 4 duyên như vậy.

NGHIỆP, NGHIỆP TƯỚNG VÀ THÚ TƯỚNG

I. PÀLI VĂN. 

- 35) Tathà ca marantànam pana maranakàle yathàraham abhimukhìbhùtam bhavantare patisandhijanakam kammam và, tamkammakaranakàle rùpàdikamupaladdhapubbamupakaranabhùtam ca kammanimittam và, anantaramuppajjamànabhave upalabbhitabbam upabhogabhtùtam ca gatinimittam và kammabalena channam dvàrànam ànnatarasmim paccuppatthàti. Tato param tameva tathopatthitam àrammanam àrabbha vipaccamànakammànurùpam parisuddhamupakilittham và upalabbhitabbabhavànurùpam tatthonatam va cittasantànam abhinham pavattati bàhullena. Tameva và pana janakabhùtam kammamabhinavakaranavasena dvàrapavattam hoti.

II. THÍCH VĂN. 

- Marantànam: Người đang lâm chung. Maranakàle: Trong khi lâm chung. Yathàraham: Tùy theo. Abhimukhìbhùtam: Trước mặt. Bhavantare: Trung hữu, sau khi chết. Patisandhijanakam: Sanh ra kiết sanh thức. Kammam: Nghiệp. Tam-kamma-karanakàle: Khi đang làm nghiệp ấy. Rùpàdikamupaladdhapubbamupakaranabhùtamca: Một vật đã được nhận lấy từ trước như sắc v.v... Kammanimittam: Nghiệp tướng. Anantaramuppajjamànabhave: Trong đời sống khởi lên tiếp sau (đời sống này). Upalabhitabbam: Cần phải lấy được. Upabhogabhùtam: Ðược hưởng thọ. Gatinimittam: Thú tướng. Kammabalena: Do sức mạnh của nghiệp. Paccupatthàti: Hiện khởi. Tato param: Tiếp theo. Vipaccamànakammànurùpam: Tùy thuộc theo nghiệp cần phải được thuần phục. Parisuddhamupakilittham: Thanh tịnh nhiễm ô. Upalabbihitabbabhavànurùpam: Tùy thuộc theo đời sống cần phải lãnh thọ. Tatthonatam: Biến theo, uốn theo về chỗ kia. Cittasantànam: Sự diễn tiến của tâm. Abhinham: Tiếp tục, luôn luôn. Bàhullena: Nhiều lần. Kammamabhinavakaranavasena: Do làm nghiệp mới.

III. VIỆT VĂN. 

- 35) Ðối với những người sắp sửa chết, trong khi lâm chung, do sức mạnh của nghiệp, một trong những tướng sau đây được khởi ra trong một trong sáu cửa.

1. Một nghiệp có khả năng khiến cho tái sanh trong đời sau được khởi tùy theo trường hợp.

2. Hay là một nghiệp tướng là một vật như sắc v.v... mà trước kia đã từng được dùng trong khi làm nghiệp ấy.

3. Hay là một thú tướng phải được và phải thực nghiệm trong đời sống khởi lên ngay tiếp theo đó.

Liền theo đó, y cứ theo đối tượng được khởi lên, tùy theo với nghiệp cần phải được thuần thục, hoặc thanh tịnh hay nhiễm ô, và phù hợp với cảnh giới sẽ được tái sanh, dòng tiềm thức luôn luôn được trôi chảy, hướng phần lớn về cảnh giới ấy. Hay cái nghiệp có khả năng khiến cho tái sanh ấy hiện khởi đến với căn môn với tư cách là một tác động mới.

IV. THÍCH NGHĨA

- Khi một người sắp chết, một nghiệp thiện hay bất thiện hiện khởi ra trước người ấy, nghiệp ấy có thể là một cực trọng nghiệp (garuka) như các thiền (Jhàna) hay giết cha v.v... những nghiệp này quá mạnh đến nỗi lấn áp tất cả nghiệp khác và hiện khởi rõ rệt. Nếu khôngcực trọng nghiệp, thời người ấy có thể lấy một cận tử nghiệp (àsanna kamma). Nếu là một quá khứ, thời chính là thiện hay bất thiện niệm khởi lên trước khi chết, niệm này, người ấy đã được kinh nghiệm trong khi làm nghiệp ấy. Kammanimitta (nghiệp tướng) là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp gì mà người ấy nhận lãnh được, khi làm nghiệp ấy, như con dao đối với người đồ tể, các bệnh nhân đối với thầy thuốc, bông hoa đối với người tín nữ v.v... Gatinimitta (Thú tướng) là một hình tướng gì của cảnh giới mà người ấy sắp được tái sanh, một sự kiện luôn luôn xảy ra với người sắp chết. Nếu là một hình tướng không tốt đẹp, thời có thể thay đổi chúng bằng cách ảnh hưởng đến tư tưởng của người sắp chết, và như vậy thiện niệm của người ấy biến thành cận tử và thay thế cho sanh nghiệp của người ấy. Thú tướng này có thể là lửa địa ngục, rừng, núi, bào thai của người mẹ, thiên cung v.v...

Kamma hiện khởi ra tại ý căn. Kammanimitta hiện khởi ra tại một trong sáu căn, tùy theo trường hợp. Gatinimitta, luôn luôn là một sắc tướng, hiện khởi ra dưới hình thức chiêm bao.

LỘ TRÌNH TÂM CỦA MỘT NGƯỜI SẮP CHẾT

I. PÀLI VĂN. 

- 36) Paccàsannamaranassa tassa vìthicittàvasàne bhavangakkhaye và cavanavasena paccuppannabhavapariyosànabhùtam cuticittam uppajjitvà nirujjhati. Tasmim niruddhàvasàse tassànantarameva tathàgahitamàrammanamàrabbha savatthukam avatthukameva và yathàraham avijjànusayaparikkhitena tanhànusayamùlakena sankhàrena janìyamànam sampayuttehi parigayhamànam sahajàtànamadhitthànabhàvena pubbangamabhùtam bhavantarapatisandhànavàsena patisandhisankhàtam mànasam uppajjamànameva patitthàti bhavantare.

II. THÍCH VĂN. 

- Paccàsannamaranassa: Với người sắp chết. Vìthicittàvasàne: Trong giai đoạn cuối của lộ trình tâm. Bhavangakkhaye: Khi hữu phần bị diệt. Cavanavasena: Theo tử tâm. Paccuppannabhavapariyosànabhùtam: Giai đoạn cuối của đời sống hiện tại. Cuticittam: Tử tâm. Uppajjitvà: Sau khi khởi lên. Nirujhati: Biến diệt. Tasmimniruddhàvasàne: Ðến cuối sự biến diệt ấy. Tassànantarameva: Lập tức sau sự diệt trừ ấy. Tathàgahitamàrammanamàrabbha: Y cứ theo đối tượng đã nhận lãnh như vậy. Savatthukam avatthukameva: Có căn hay không có căn. Avijjànasayaparikkhittena: Bao trùm bởi vô minh tùy miên. Tanhànusayamùlakena: Căn cứ vào ái tùy miên. Sampayuttehi parigayhamànam: Câu hữu với những tâm sở tương ưng. Sahajàtànam adhitthànabhàvena pubbangamabhùtam: Làm thành tâm xung phong cho những tâm sở câu hữu, và nối liền các đời sống. Patisandhisankhàtam mànasam: Ý gọi là kiết sanh thức. Patitthàti: Ðược thiết lập.

III. VIỆT VĂN. 

- 36) Ðối với người sắp chết, hoặc đến cuối lộ trình tâm của người ấy, hoặc khi hữu phần bị diệt, tử tâm, giai đoạn cuối cùng của đời sống hiện tại, khởi lên rồi diệt. Khi tâm ấy được diệt trừ, tiếp ngay sau tâm ấy, y-cứ trên đối tượng được thâu nhận như vậy, hoặc có tâm (hadaya) làm căn cứ địa hay không có, kiết sanh tâm khởi lên và được thiết lập trong đời sau, kiết sanh tâm này bị thúc đẩy bởi vô minh tùy miên, căn cứ vào ái tùy miên, sanh ra bởi nghiệp, câu hữu với những tâm sở tương ưng, hành động như tâm xung phong cho những tâm sở câu hữu, và tiếp nối những đời sống với nhau

IV. THÍCH NGHĨA

- Lấy một trong ba tướng kể trên làm đối tượng, lộ trình của tâm tuần tự diễn tiến, dầu cho sự chết có đến hết sức bất thần và lập tức. Sau đây là lộ trình tâm của một người sắp chết và được sanh lên cõi người, và đối tượng của người này là một thiện nghiệp.

Tâm Bhavanga (hữu phần) dừng lại và rung động hai tâm sát-na rồi diệt, tiếp theo là Ý môn hướng tâm (manodvàràvajjana) khởi lên rồi diệt. Tiếp đến là Javana (tốc hành tâm) chỉ có năm tâm sát-na chớ không phải bảy như thường lệ vì yếu ớt. Vì vậy tâm này thiếu khả năng dẫn sanh mà chỉ có khả năng điều hành cho một đời sống mới Abhinavakarana. Ðối tượng trong trường hợp này là thiện, tâm của người này là thiện, không cần nhắc bảo hay phải được nhắc bảo, câu hữu với hỷ tương ưng hay không tương ưng với trí, tùy theo trường hợp. Tâm đồng sở duyên (Tadàlambana), có công tác ghi giữ hay ghi nhận trong hai sát-na, đối tượng được nhận thức, có thể sanh hay không, tiếp đến là Tử tâm (cuticitta), sát-na tâm cuối cùng trong đời hiện tại. Có người hiểu lầmđời sống kế tiếp bị định đoạt chi phối bởi Tử tâm cuối cùng này. Sự thật chính Tốc hành tâm mới chi phối đời sống đời sau. Khi tử tâm diệt, sự chết mới thiệt bắt đầu. Bắt đầu từ đây, không có một sắc nào do tâm tạo và do ăn uống tạo được tạo ra (cittaja và àhàraja rùpa). Chỉ có các sắc do khí nóng tạo ra (utuja) được tạo ra cho đến khi thi thể trở thành tro bụi.

Sau khi Tử tâm đã diệt, một Kiết sanh thức (Patisandhi) được sanh trong một đời sống mới. Tiếp theomười sáu tâm sát-na bhavanga. Tiếp đến là Ý môn hướng tâm (manodvàràvajjana) và năm tâm sát-na Javana (Tốc hành), phát sanh tâm ưa thích đối với đời sống mới (bhava-nikànti-Javana). Rồi tâm bhavanga khởi và diệt và dòng tâm thức trôi chảy như một dòng nước. Trong trường hợp Vô sắc giới, sẽ không có hadayavatthu (đoàn tâm).

KIẾT SANH THỨC VÀ ÐỐI TƯỢNG CỦA NGƯỜI SẮP CHẾT

I. PÀLI VĂN. 

- 37) Maranàsannavìthiyam panettha mandapavattàni panceva javanàni pàtikankhitabbàni. Tasmà yadà paccuppannàrammanesu àpàthamàgatesu dharantesvevamaranam hoti, tadà patisandhibhavangànampi paccupannàrammanatà labbhatìti katvà kàmàvacarapatisandhiyà chadvàragahitam kammanimittam, gatinimittanca paccuppannamatìtàrammanam upalabbhati, kamman pana atìtameva. Tam ca manodvàragahitam. Tàmi pana sabbàni pi parittadhammabhùtànevàrammanàni.

II. THÍCH VĂN. 

- Maranàsannavìthiyam: Trong lộ trình của tâm khi gần chết. Mandapavattàni: Diễn tiến mdột cách yếu ớt. Pàtikankhitabbàni: Trông đợi. Paccuppannàrammanesu àpàthàmàgatesu: Trong khi các đối tượng hiện tại vào trong khu vực nhận thức của căn. Dharantesu: Nhiếp trì. Parittadhammabhùtàni àrammanàni: Các đối tượng được xem là tiểu pháp (thuộc về Dục giới).

III. VIỆT VĂN. 

- 37) Ở đây, trong lộ trình của tâm gần chết, chỉ có năm Tốc hành tâm yếu ớt được mong đợi. Do vậy, trong khi lâm chung, khi các đối tượng hiện tại vào trong khu vực nhận thức thời Patisandhi và Bhavanga cũng đều cùng một đối tượng.

Như vậy, khi tái sanhDục giới, Kammanimitta (nghiệp tướng) nhận thức bởi một trong sáu căn môn hay gatinimitta (Thú tướng) có thể quá khứ hoặc hiện tại nhưng Kamma (nghiệp) được nhận thức bởi ý môn chỉ thuộc về một đối tượng quá khứ. Tất cả những đối tượng này phải được xem là thuộc về tiểu pháp (Dục giới).

Ở SẮC VÀ VÔ SẮC GIỚI

I. PÀLI VĂN. 

- 38) Rùpàvacarapatisandhiyà pana pannattibhùtam kammanimittamevàrammanam hoti. Tathà àruppapatisandhiyà ca mahaggatabhùtam pannattibhùtam ca kammanimittameva yathàraham àrammanam hoti. Asannasattànam jìvitanavakameva patisandhibhàvena patitthàti. Tasmà te rùpapatisandhikà nàma. Arùpà arùpapatisandhikà. Sesà rùpà-rùpapatisandhikà.

II. THÍCH VĂN. 

- Pannattibhùtam: Là một khái niệm. Jìvitanavakam: Mạng căn chín phần. Sesà: Những loài hữu tình còn lại.

III. VIỆT VĂN. 

- 38) Khi tái sanhSắc giới, đối tượng Kammanimitta (nghiệp tướng) thuộc về khái niệm. Khi tái sanhVô sắc giới, đối tượng nghiệp tướng thuộc về Ðại hành và khái niệm (như hư không vô biên), tùy theo trường hợp. Ðời sống của các loài hữu tình vô tưởng, bắt đầu với một nhóm gồm có 9 sắc pháp gọi là Jìvitanavaka. (Mạng căn cửu phần). Do vậy sự tái sanh ở đây thuộc về sắc giới. Các loài hữu tình sanh ở Vô sắc giới thuộc về vô sắc. Những loại hữu tình còn lại thuộc sắc và vô sắc.

IV. THÍCH NGHĨA

- Ðối tượng của Kamma nimittam khi tái sanhSắc giới thuộc về khái niệm vì đây là patibhàganimitta (quan tướng). Jìvitanavaka gồm có Ðịa, thủy, hỏa, phong, sắc, hương, vị, ojà (Dưỡng chất) và mạng căn (Jìvitindriya).

TOÁT YẾU

I. PÀLI VĂN. 

- 39) Àruppacutiyà honti hetthimàruppavajjità.
Paramàruppasandhì ca tathà kàmatihetukà.
Rùpàvacaracutiyà aheturahità siyum.
Sabbà kàmatihetumhà, kàmesveva panetarà.

II. THÍCH VĂN. 

- Hetthimàruppavajjità: Trừ vô sắc xứ thấp hơn. Paramàruppapatisandhì: Vô sắc giới Kiết sanh thức cao hơn. Kàmatihetukà: Dục giới ba nhân.

III. VIỆT VĂN. 

- 39) Khi từ trần từ cõi vô sắc, sẽ được tái sanh ở cõi vô sắc hay một cõi cao hơn nhưng không ở một cõi thấp hơn, và có thể sanh ở cõi Dục giới với ba nhân. Khi từ trần từ cõi Sắc giới, sẽ không bị tái sanh làm thành một người vô nhân. Một hữu tình với ba nhân có thể tái sanh ở mọi cảnh giới. Những loài hữu tình khác (hai nhân hay không nhân) được sanh ở Dục giới.

IV. THÍCH NGHĨA

- Với ba nhân là với vô tham, vô sân và vô sĩ. Một người vô nhân là những người sinh ra ngu đần, sanh ra đã mù hay điếc hay sinh ra ở cõi ác thú.

DÒNG TÂM THỨC

I. PÀLI VĂN. 

- 40) Iccevam gahitapatisandhikànam pana patisandhinirodhànantaratoppabhuti tamevàrammariamàrabbha tadeva cittam yàva cuticittuppàdà asati vìthicittuppàde bhavassa angabhàvena bhavangasantatisankhàtam mànasam abbhocchinnam nadìsoto viya pavattati. Pariyosàne ca cavanavasena cuticittam hutvà nirujjhati. Tato param ca patisandhàdayo rathacakkamiva yathàkkamam evameva parivattantà pavattanti.

II. THÍCH VĂN. 

- Gahitapatisandhikànam: Những chúng sanh phải tái sanh. Pabhuti: Bắt đầu từ. Abbhocchinnam: Không gián đoạn. Nadìsoto viya: Như dòng sông. Pariyosàne: Ðến đoạn cuối. Rathacakkam: Bánh xe.

III. VIỆT VĂN. 

- 40) Như vậy, những ai bị tái sanh, liền sau khi Kiết sanh thức diệt, một dòng tâm thức trôi chảy, y cứ trên một đối tượng, như dòng một con sông, luôn luôn tiếp tục, và chỉ bị chận đứng bởi lộ trình của tâm thức khi khởi lên, dòng tâm thức này trôi chảy cho đến chết. Dòng tâm thức này được gọi là Bhavanga vì là một thành phần của sự sống. Ðến cuối cùng đời sống, khi người ấy lâm chung, dòng tâm thức trở thành Tử tâm (cuticittam) rồi diệt. Tiếp theo đó, Kiết sanh thức và các tâm khác vẫn tiếp nối diễn tiến tùy theo trường hợp như bánh của một chiếc xe.

IV. THÍCH NGHĨA

- Patisandhi, Bhavanga và cuti của một đời sống là giống nhau vì chúng cùng một đối tượng. Các tâm sở của ba tâm này giống nhau. Chúng chỉ khác nhau về danh từ và công tác. Liền sau đó, Kiết sanh thức (patisandhi). Hữu phần (bhavanga) khởi lên. Trong đời sống, khi không có sự diễn tiến lộ trình của tâm, Hữu phần tâm này tiếp tục trôi chảy. Trong một đời sống, vô số Bhavanga (Hữu phần tâm) được khởi lên.

SỰ LIÊN TỤC CỦA DÒNG TÂM THỨC

I. PÀLI VĂN. 

- 41) Patisandhi-bhavangavìthiyo cuti ceha tathà bhavantare.
Puna sandhi bhavangamiccayam parivattati cittasantati.
Patisankhàya panetamaddhuvam adhigantvà padamaccutam budhà.
Susamucchinnasinehabandhanà samamessanti ciràya subbatà.

II. THÍCH VĂN. 

- Cittasantati: Sự tiếp diễn của tâm. Patisankhàya: Sau khi suy tư. Budhà: Các vị sáng suốt. Addhuvam: Vô thường. Adhigantvà: Sau khi chứng. Padamaccutam: Trạng thái bất tử (Niết bàn). Susamucchinna: Khéo cắt. Sinehabandhanà: Triền ái hay sự trói buộc của ái. Samamessanti: Sẽ chứng được sự thanh tịnh. Ciràya: Trong một thời gian khá lâu. Subbatà: Khéo điều phục.

III. VIỆT VĂN. 

- 41) Cũng như ở đây, cũng vậy ở đời kế tiếp, khởi lên Kiết sanh thức, Hữu phần, lộ trình của tâm và Tử tâm. Lại một lần nữa, với Kiết sanh thứcHữu phần, dòng tâm thức trôi chảy.

Người có trí, tự khéo điều phục trong một thời gian lâu dài, suy tư đến lẽ vô thường, sẽ chứng ngộ sự bất diệt, và hoàn toàn cắt bỏ triền phược của tham ái, chứng ngộ thanh tịnh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32343)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6395)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11026)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30269)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7860)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11962)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12129)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11450)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12480)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34281)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52060)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10579)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10331)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10535)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12905)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16009)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6983)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12447)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16067)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16325)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13686)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16328)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11885)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13650)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14199)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11635)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11162)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16046)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14213)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16049)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12579)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11903)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11637)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15518)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11360)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13875)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11860)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12413)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14786)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11834)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12969)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14302)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20448)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13048)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10822)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20523)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14182)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20075)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17393)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13792)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31687)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant