Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

7. Hãy nắm tay nhau

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11411)
7. Hãy nắm tay nhau

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần I: Kinh Pháp Hoa và Đạo Bụt Đại Thừa 

Hãy nắm tay nhau

Đối với Việt-nam, tôi thấy đất nước mình sẽ có một cơ hội lớn lao hơn nếu những Phật tử và các con chiên của Chúa có thể đến gần với nhau được, tại vì trong đoàn thể của hai tôn giáo lớn này đang có một sự chia cách, một sự hiểu lầm trầm trọngSở dĩ vậy là vì có những người Ki-tô giáo rất ghét đạo Phật, nhất là những người nghĩ rằng đạo Phật đã làm sụp đổ một chế độ, một thời đại mà họ cho là thời đại hoàng kim của Cơ Đốc giáo ở Việt-nam, tức là chế độ của tổng thống Ngô đình Diệm hồi đó. Cho nên họ không thể tha thứ được cho Phật giáo. Ngược lại, có những Phật tử cứ nghĩ rằng vì sự truyền bá của đạo Cơ Đốc mà đất nước mình đã rơi vào tay của ngoại bang, và người Cơ đốc giáo không chịu đi theo con đường của dân tộc mà chỉ nương tựa nhiều vào ngoại quốc, cho nên họ khó chấp nhận người Cơ đốc giáo vào trong cộng đồng của dân tộc. Nếu chúng ta không làm gì để hóa giải những sự hiểu lầm đó, thì đất nước của chúng ta sẽ còn rối loạn dài dài. Trong những bài đã viết hay đã nói, tôi đã nhiều lần diễn bày cái tâm tư này. Tôi đã nói rằng có nhiều Linh Mục và nhiều nhà tư tưởng Cơ đốc giáo muốn dân tộc hóa nền đạo lý Ki-tô. Ở Huế chúng ta thấy có nhiều nhà thờ xây cất theo kiểu truyền thống, có mái cong. Cũng có nhiều Linh Mục muốn đốt hươnglễ lạy trong những thánh lễ. Đó là những ý muốn dân tộc hóa hình thái sinh hoạt của cộng đồng Ki-tô giáo. Đó là những điều mà chúng ta rất hoan nghinh. Nếu những người con Chúa đứng trong hàng ngũ dân tộc và làm cho Ki-tô giáo ở Việt-nam trở thành một yếu tố của nền văn hóa dân tộc, cùng đi theo một hướng, cùng đoàn kết với tất cả những thành phần khác của dân tộc, thì tại sao ta lại không chấp nhận họ như là những người anh em trong nhà? Ta phải giáo dục Phật tử về những điều này. Ngược lại, những con chiên của Chúa cũng phải biết rằng trong đạo Bụt có nhiều người rất cởi mở, sẳn sàng đưa vòng tay ra để chấp nhận mình. Lịch sử đã chứng minh rằng trong đoàn thể Ki-tô giáo, cũng như trong Phật giáo, đã có những sai lạc, những vụng vềChúng ta phải cho nhau một cơ hội để tự thấy được cái lầm lỗi của mình. Có như vậy thì người anh em mới nhận ra được nhau.

Hồi tôi đến Chicago để hướng dẫn khóa tu tại một tu viện Công giáo, các Mẹ bề trên cũng có đến tham dự khóa tu. Hôm đó có một thiếu nữ đã tu học khá lâu, và sắp được dọn mình để mang áo nữ tu sĩ. Sau năm ngày tu học, cô thiếu nữ thấy quá thích đạo Bụt, nên đã tới hỏi tôi rằng: Thưa thầy, bây giờ con xin làm Ni cô có được không? Tôi nói: Thôi con làm Bà Xơ đi, vì một Bà Xơ mà có cảm tình với đạo Bụt thì rất quí. Nghe vậy, cô thiếu nữ bèn nói, thôi nếu vậy thì để con xin làm Bà Xơ. Trong đạo Ki-tô phải có những ông Cha và những Bà Xơ có khả năng hiểu và có cảm tình với đạo Bụt. Ngược lại trong đạo Bụt, cũng phải có những thầy và những sư cô biết học và hiểu đạo Ki-tô, và có cảm tình với những con chiên của Chúa, thì đất nước mình mới có tương lai. Chúng ta cần những người có bồ đề tâm như vậy thì hai đoàn thể tôn giáo mới có thể tới gần nhau được, và nhờ đó mà đất nước ta mới có thể khá lên.

Ngày xưa lúc mới thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, tôi đã thấy được điều đó. Ngoài những môn học như kinh tế, giáo dục, y tế v.v..., tôi đã mời một vị Linh mục đến dạy về Cơ Đốc giáo cho các tác viên Thanh niên Phụng sự Xã hội. Tại vì khi ra xã hội để làm việc, thế nào ta cũng gặp những gia đình thuộc Ki-tô giáo, nên ta phải biết căn bản của Ki-tô giáo để đừng phạm những lỗi lầm làm mang tiếng là kỳ thị tôn giáo. Khi mời một Linh Mục đến giảng dạy cho một trường Phật giáo như vậy, là mình đã có một nhận định, và nhận định đó rất cần thiết cho tương lai đất nước của chúng ta. Cho nên tôi nghĩ rằng mọi người, kể cả các Thầy, các sư cô, sư chú thế nào cũng phải học qua về Ki-tô giáo. Tôi cũng đã học nhiều năm. Nhờ vậy, khi giảng dạy cho những người trẻ có đạo Công gíáo hay Tin lành, vì tôi đã có một cái nhìn khá sâu và khá đặc biệt về Thánh Kinh và về giáo hội, cho nên họ rất thích. Nhờ đó mà sự trao đổi rất là cởi mở. Mới đây tôi có hướng dẫn một khóa tu đặc biệt cho người Đức tại một trung tâm Cơ Đốc giáoChủ đề của khóa tu là Đối thoại giữa Phật giáo và Công giáo. Tôi đã đem ra những vấn đề thuộc giáo hội hai bên để giảng, và sự giảng dạy đó đã đánh động đến tâm lý của cả hai bên, làm cho một số cửa ngỏ lâu nay bị đóng kín mít bây giờ được mở toang ra. Nhờ vậy mà cả hai bên cùng thấy một con đường thênh thang, trong đó người đạo Bụt lẫn con chiên đạo Ki-tô, đều học hỏi được rất nhiều từ nhau. Khóa tu đó được giảng bằng tiếng Anh, cho nên nếu quí vị muốn học thêm về sự đối thoại giữa hai tôn giáo thì có thể nghe những băng giảng trong khóa tu ấy.

Tư tưởng căn bản thứ hai của kinh Pháp Hoatư tưởng Phật Thân Thường Trú. Phật thân thường trú là tính cách thường trú vĩnh cửu của Pháp thân, của những lời Bụt giảng dạy. Trước khi nhập diệt, Bụt có nói rằng: Các thầy, các cô đừng buồn, chỉ có nhục thể của tôi (my physical body) sẽ bị tan hoại thôi, còn Pháp thân của tôi (my teaching body) sẽ còn ở lại hoài với quí vị. Bởi vậy cho nên Pháp thân mới đúng là thân Bụt, còn nhục thân thì chưa đích thực là Phật thân. Thành ra tư tưởng căn bản thứ hai của kinh Pháp Hoatính cách vĩnh cửu, thường hằng của Pháp thânTuy nhiên tư tưởng này không phải chỉ đặc biệt có ở kinh Pháp Hoa, mà ta cũng tìm thấy ở những kinh khác. Vì vậy mà cái tư tưởng thứ nhất đã nói ở trên, mọi chúng sanh đều có khả năng tính thành Phật, mới đích thực là tư tưởng căn bản và đặc thù của kinh Pháp Hoa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11620)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11928)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11098)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12058)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12548)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10756)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17967)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11717)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10165)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12342)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15327)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11227)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14318)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12088)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15335)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12388)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10597)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14792)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12659)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16537)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19630)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12648)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12245)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11829)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10886)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13485)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11937)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11834)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11622)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12753)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14498)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12588)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15653)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13603)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12884)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9854)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18002)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11150)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9063)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12162)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13033)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10287)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12176)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15287)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16582)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12200)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11459)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14258)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19679)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24583)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10674)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant