Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Phẩm Thứ Tư: Tín giải

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10767)
4. Phẩm Thứ Tư: Tín giải

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Tư: Tín giải

Chúng ta đi sang Phẩm thứ tư, Phẩm Tín Giải. Phẩm này đưa ra một ví dụ về đứa con nghèo túng cùng cực. Thật ra ví dụ này không phải do Bụt nói, mà do một số các thầy đã đạt được giác ngộ nhờ những điều mà Bụt vừa chỉ dạy, nên họ đã có thể nói ra ví dụ này. Các thầy đó là thầy Tu Bồ Đề (Subhũti), thầy Đại Ca Chiên Diên (Maha KatyẠyana), thầy Đại Ca Diếp), (Maha KẠỐyapa), và thầy Đại Mục Kiền Liên (Maha MaudgalyẠyanẠ). Các thầy này sau khi nghe Bụt giảng thuyết, giật mình tỉnh thức và quỳ xuống bạch với Bụt rằng: Chúng con thuộc về hàng Thượng tọa trong giới Thanh văn, tuổi chúng con đã lớn, chúng con nghĩ rằng mình đã được Niết Bàn tuyệt đối và không còn trách vụ gì nữa, và cũng không có ý định trở nên một vị toàn giác như Bụt. Nhưng bây giờ chúng con biết rằng điều đó không đúng. Chúng con được nghe Bụt khai thị rồi, nên mới cảm thấy mình có cái tiềm lực rất lớn ở trong tim, và chúng con đã từ bỏ cái mặc cảm nghèo hèn của một người tự túc, tự mãn, và chúng con mang trong lòng cái năng lượng vô lượng vô biên của một vị Bồ Tát. Nhờ Bụt giúp chúng con mở mắt ra, nên chúng con mới có được cái năng lượng vô lượng vô biên đó, chúng con xin đền ơn Bụt bằng cách nói ra cho đại chúng hôm nay một thí dụ. Và các vị đó đã nói ra cái thí dụ gọi là Cùng tử.
Cùng tử là đứa con nghèo khó cùng cực. Người con đó, từ hồi bé thơ, đã bỏ nhà trốn qua một nước khác, trên hai, ba mươi năm nay. Lớn lên, người đó rất là nghèo khổ, đi tha phương cầu thực để nuôi thân, rồi tình cờ một hôm về tới quê hương của mình mà không biết. Người đó không biết gốc tích của mình từ đâu, không biết gia thế của mình ngày xưa ra sao.

Trong khi đó người cha lại là một người rất giàu, ba mươi năm nay đã cố ý tìm con và trong lòng luôn luôn thương tiếc đứa con đã bỏ đi từ hồi thơ ấu. Ông ta giàu quá mức mà không có người nối giỏi. Tuy nhớ thương con bao nhiêu năm, nhưng chưa bao giờ có cơ hội bộc bạch với bạn bè, vì vậy mà niềm nhớ thương càng lớn. Ông cứ nghĩ rằng một mai kia khi mình chết thì cái tài sản khổng lồ này sẽ đi vào trong kho tàng của nhà nước, vì vậy cho nên ông thương tiếc và nhớ nghĩ đến đứa con không thôi.

Hôm ấy, anh chàng cùng tử tình cờ đi tới nhà giàu ấy để xin làm thuê làm mướn. Đứng ngoài cửa nhìn vào, thấy một ông ngồi trên một chiếc giường sư tử, có một cái ghế rất quí đỡ dưới hai chân, và có những hàng Bà la môn, Sát đế lợi và các hàng giàu sang, trưởng giả cung kính bao quanh. Ông ta giàu quá mức nên các chính trị gia và các hàng Vương tử cũng đều phải tới để cầu thân cận. Phía trên có che màn báu, phía dưới có những tràng phan đẹp thòng xuống, nước thơm rưới trên đất, và tất cả các thứ bông hoa đẹp nhất trong vùng đều được đem tới để chưng bày. Chàng cùng tử thấy ông ta sang trọng như một vị vua, nên tự hỏi: tại sao mình đến đây? nguy hiểm quá, họ có thể bắt mình đem bỏ vào tù, thân phận như mình không được bén mảng tới những chỗ sang trọng như thế này. Nghĩ vậy xong chàng liền bỏ chạy. Nhưng lúc chàng vừa ló mặt qua cửa rào, thì vị trưởng giả đã liền nhận được ra con mình. Quá xúc động, ông sai một gia nhân chạy theo bắt lại đứa con. Vì xúc động, mất bình tĩnh nên ông đã ra một cái lệnh không được thông minh cho lắm, và người gia nhân chạy đuổi theo chàng cùng tử kia đã làm chàng ta sợ quá. Chàng bèn nói: Thưa ông tôi đâu có làm nên tội tình gì, tôi đâu có xúc phạm đến ai đâu mà tại sao lại bắt tôi? Người gia nhân vẫn bắt chàng, trói lại rồi đem về. Anh chàng cùng tử nghĩ rằng, thôi chết rồi, bị bắt như thế này, thế nào mình cũng bị giết chết. Sợ quá chàng bị bất tỉnh, ngã xuống. Lúc đó người cha mới thấy cái lầm lỗi của mình, thấy mình đã dùng những phương tiện quá mạnh. Chúng ta hay thương theo cách đó, khi thương mình làm cho người kia ngộp luôn, không thở nổi! Thương thì phải có phương tiện truyền cảm. Đôi khi thương, mình nên giả bộ nói tôi không thương!

Khi thấy gia nhân đem về một anh chàng bị bất tỉnh như vậy thì vị trưởng giả rất hối hận. Ông bảo: Làm vậy không được, hãy lấy nước lạnh phun vào mặt cho nó tỉnh lại. Khi chàng cùng tử tỉnh lại, vị trưởng giả liền nói: Ta không làm gì ngươi đâu, ta bắt lầm ngươi vì tưởng ngươi có tội, kỳ thực thì ngươi không có tội lỗi gì cả, ngươi là người lương thiện và có tự do, bây giờ ngươi muốn đi đâu thì đi. Theo lệnh của vị trưởng giả, gia nhân trao trả tự do cho chàng cùng tử. Đó là ý nghĩa chân thực của sự thương yêu. Khi thương thật sự, mình phải trả tự do cho người mình thương. Còn nếu bắt trói người đó lại, dù bằng những sợi dây tình cảm tơ tóc của mình, thì chưa phải là thương.

Khi chàng cùng tử tỉnh dậy và được nghe câu nói ngươi được tự do thì mừng quá. Trong đời của chàng, chưa bao giờ chàng sung sướng như vậy. Chàng có được gì đâu? nhưng chàng sung sướng vô cùng vì chàng có cái quí nhất ở trên đời, chàng có tự do! Lúc đó vị trưởng giả mới dùng phương tiện quyền xảo, bảo gia nhân đi theo, ăn mặc rách rưới xấu xa, rất nghèo khổ, đến làm bạn với chàng đó, rủ đi tìm công ăn việc làm, rồi từ từ trả tiền công cho người đó thêm nhiều hơn trước. Tuy vậy vị trưởng giả ra lệnh rằng phải thuê chàng ta làm những nghề hèn mọn nhất, như là đi hốt phân, gánh nước, những việc mà người có chút máu mặt không bao giờ làm. Tại vì người cùng tử này có đầy mặc cảm, chàng nghĩ mình không ra gì trong xã hội, nên mình chỉ muốn những pháp nhỏ thôi, tức là pháp gánh phân, đổ rác, đổ thùng. Cố nhiên khi được những công việc như vậy, chàng thấy thích hợp với khả năng của mình, và chàng rất lấy làm sung sướng khi được làm những công việc đó, nhất là khi mình làm việc ấy mà lại được trả công gấp hai ba lần những việc khác. Hạnh phúc tràn trề và chàng nghĩ rằng mình chỉ cần từng đó hạnh phúc thôi, mình không cần hạnh phúc nhiều hơn.

Vài tháng sau, chàng cùng tử được dụ về ở gần nhà vị trưởng giảKế hoạch của ông là kế hoạch lâu dài. Biết con ở cách mình không quá ba trăm thước, nhưng lòng nhớ thương vẫn tràn đầy, vì vậy ông bèn giả dạng, tháo hết vàng bạc châu báu đeo trên người, ăn mặc tầm thường, mon men sang làm quen với chàng cùng tử để được nhìn mặt đứa con của mình. Ông chủ tuy làm ra vẻ tầm thường, không sang cả, nhưng vẫn có phong độ, uy thế của một ông chủ. Khi đến với chàng cùng tử, ông rất ngọt ngào, săn đón, hỏi han: "Anh từ đâu tới, làm ở đây được bao lâu rồi, ăn uống có đầy đủ không, có được trả lương hậu hỉ không?" v.v... Tất cả những thương yêu đều được gói ghém trong những câu han hỏi như vậy. Nghĩ cho kỹ thì cũng tội nghiệp, tội nghiệp cho Bụt. Ông nói thêm: "Tuy anh không phải là con tôi nhưng đối với tất cả những người làm, tôi đều xem họ như con tôi cả, thành ra anh đừng sợ gì hết". Vị trưởng giả dùng những phương tiện như vậy để làm cho sự sợ hãi, và những mặc cảm của đứa con từ từ bớt đi.

Với phương pháp đó, ông làm thân với người con. Có lần ông bảo rằng, tuy là chủ nhưng ta đã già yếu, còn ngươi thì còn trẻ, còn mạnh, ngươi lại có một tấm lòng rất trung thực, rất tốt, trong khi làm việc ngươi không đến trễ, về sớm, không ăn nói hỗn hào, nên ta rất thương ngươi, thôi để ta sẽ coi ngươi như con nuôi của ta. Từ từ ông làm nẩy sinh cái tình cảm đối với ông ở trong lòng của đứa con. Không dám nhận là con ruột, vì nếu ông nhận chàng cùng tử là con ruột thì chàng đâu dám tin.
Ta thấy rất rõ ở đây sự so sánh với câu chuyện chánh pháp, ban đầu nói rằng học trò ta có thể không được thành Bụt như ta, chỉ có thể thành Thanh văn, chỉ có thể chứng được Niết Bàn của Tiểu Thừa mà thôi. Đó là vì các người này mang quá nhiều mặc cảm, nên chỉ có thể cho họ một chiếc xe dê, mà không thể cho họ được một chiếc xe trâu bạch, và xe này chỉ có mình ta mới được ngồi. Ở đây cũng vậy, vị trưởng giả bảo rằng tuy được ta thương, nhưng ngươi chỉ được làm con nuôi của ta thôi. Và ông từ từ dẫn dụ nó đi tới. Chàng cùng tử sung sướng hết mức, coi mình là người có phước nhất ở trên đời. Biết mình đang có công ăn việc làm, chàng thấy rõ trong mấy mươi năm nay chưa bao giờ có người đối đãi với mình tử tế như vậy. Giờ đây mình được niềm tin của chủ, được chủ cho phép, mình có thể đi ra đi vào trong nhà mà không sợ sệt nữa. Lúc đó chàng cùng tử đã được giao phó cho một số công tác rất quan trọng, nhưng chàng vẫn có mặc cảm rằng mình là người ngoài. Tuy được lòng tin của chủ, nhưng mình vẫn là một đứa con nuôi, một đứa gia nhân được chủ tin cẩn. Từ từ chàng cùng tử được đóng vai quản gia, nghĩa là chàng có thể làm những quyết định quan trọng, thu xuất những món tiền lớn. Tuy vậy chàng vẫn mang tâm trạng gia nhân, một người con nuôi được thương, trong khi làm những công việc đó.

Một thời gian sau, vị trưởng giả lâm bệnh nặng. Biết mình sắp lìa đời, ông thấy rằng đã đến lúc mình có thể nói thật với con. Đâu có phải lúc nào mình cũng có thể nói sự thật được, mình phải biết nói cho đúng lúc, nếu không sự thật có thể làm đứng tim người khác! Vì vậy mà vị trưởng giả phải đợi đến lúc này mới nói được sự thật với con. Ông cho triệu tập một buổi họp lớn, trong đó ông mời luôn cả quốc vương, các đại thần, các vị võ quan trong dòng sát đế lợi, hàng cư sĩ và tất cả quyến tộc của ông. Như vậy ông trưởng giả này đúng là một người có quyền thế rất lớn. Chế độ tư bảnẤn độ thời đó đã phát triển rất mạnh, và cái địa bàn trong đó kinh Pháp Hoa xuất hiện là xứ Ấn độ vào thượng bán thế kỷ thứ nhất. Tại đó có một vị vua cai trị, nhưng trong vương quốc của ông, cái chế độ tiền tệ đã đi đến tình trạng khi giàu quá thì mình có thể nắm được luôn cả nhà Vua trong tay. Giống hệt nước Mỹ bây giờ vậy, mình không cần làm tổng thống, nhưng nếu mình là giám đốc của một công ty quốc tế lớn, thì tổng thống cũng phải riu ríu nghe theo mình. Vì chi tiết này mà người nghiên cứu kinh điển đã kết luận rằng kinh Pháp Hoa xuất hiện sau thượng bán thế kỷ thứ nhất. Thực ra thì nó đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ hai, và theo tôi, kinh Pháp Hoa đã có thể xuất hiện sau kinh Duy Ma độ chừng 10 hay 20 năm, trễ nhất là 30 năm.

Khi tất cả mọi người đã có mặt đầy đủ, thì ông trưởng giả mới cho gọi chàng cùng tử ra và, trước mặt đông đủ mọi tân khách, ông nói: người này tuy gọi là quản gia trong nhà tôi, nhưng kỳ thực là con ruột của tôi. Ông bắt đầu nói tất cả sự thật ra. Vì cái thời điểm đã tới, trái cây đã chín muồi, cho nên sự thực có thể trình bày ra được mà không tạo ra những nứt rạn, đổ vỡ, và đứa con đã chấp nhận được sự thật đó, và đạt tới được một cái gọi là vị tằng hữu, nghĩa là chưa từng có. Trong đời chàng, không bao giờ chàng đã dám nghĩ mình là con đích tử của một vị trưởng giả, quyền thếtài sản lớn lao tới mức đó. Điều này tương đương với giây phút Bụt thuyết kinh Pháp Hoa, nói ra cho tất cả mọi người biết ai cũng đều có thể thành Bụt được cả. Và đó là tâm trạng của các vị Thanh văn khi nhận ra rằng mình là con đích tôn của Bụt, mình là những vị Bồ Tát, mình là những vị Bụt sẽ thành, và mình không nên mang mặc cảm của những người Thanh văn, những người Duyên giác nữa. Đó là đại ý của thí dụ cùng tử.

Cái thí dụ này, như tôi đã nói, không phải do Bụt trực tiếp nói ra, mà là do sự trình bày của các thầy Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Ca DiếpMục Kiền Liên mà thủ lãnh của bốn thầy nầy là thầy Ma-ha Ca Diếp. Sau khi trình bày cái thí dụ tuyệt vời đó ra rồi thì thầy Ca Diếp mới tóm tắt lại nghĩa lý của thí dụ này trong phần kệ tụng, từ trang 161 đến 175, đoạn 10 đến 16. Quý vị nhớ đọc phần kệ tụng cho thật kỹ, còn kỹ hơn cả phần trường hàng, tại vì phần kệ tụng đã có trước phần văn xuôi.

Trang 170, đoạn kệ thứ 15: Chỉ xong được việc này, lại không biết việc khác. Chúng con những người Thanh văn đệ tử của Bụt, khi thực hiện được tịch diệt bên trong lòng, tức là đã trừ được kiến-hoặc và tư-hoặc, tức là những phiền não đứng về phương diện nhận thức cũng như đứng về phương diện tình cảm, thì đã tự cho là đầy đủ, và tưởng làm như vậy là đã làm xong công việc của mình rồi, chúng con không biết cái sứ mạng của người Phật tử còn lớn lao hơn. Chúng con dầu có nghe, Pháp tịnh cõi nước Phật, cùng giáo hóa chúng sanh, đều không lòng ưa vui. Dầu chúng con có thoáng nghe Bụt nói về bồ đề tâm, về sự giáo hóa chúng sanh, về sự thành lập các cõi tịnh độ, nhưng chúng con không thấy náo nức, là tại vì chúng con không có cái chí nguyện lớn. Nhưng giờ đây chúng con đã được nghe, đã được thấy cái sứ mạng của mình, cho nên chúng con có một nguồn năng lượng vô biên trong tâm, và chúng con sẽ đi theo con đường mà Bụt muốn chúng con đi, tức là kế thừa sự nghiệp của Bụt.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14697)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11756)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12705)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10266)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12004)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15221)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11020)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10465)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12412)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16364)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14251)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11723)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14736)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11980)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16762)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11522)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12674)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11287)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11999)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52002)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15408)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13923)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11397)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13127)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12727)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13170)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17843)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12400)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12593)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54133)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14361)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9877)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13769)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57862)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14436)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20063)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13722)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15334)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17435)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13272)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11869)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13446)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14616)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12438)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12123)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12032)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13255)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12500)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13617)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13289)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25508)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12155)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14481)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11810)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42019)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28258)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38723)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14669)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12654)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16201)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant