Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Phẩm Thứ Năm: Dược thảo

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10670)
5. Phẩm Thứ Năm: Dược thảo

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Năm: Dược thảo

Bây giờ chúng ta hãy đi sang Phẩm thứ năm là Phẩm Dược Thảo. Ở đây Bụt lại đưa ra một cái thí dụ nữa cũng rất hay. Dược thảo tức là những cây thuốc. Ngày xưa người ta không dùng thuốc hóa học mà chỉ dùng thuốc cây cỏ. Trong phẩm này Bụt nói cho thầy Ca Diếp và các vị đại đệ tử khác biết rằng, Bụt nhìn vào tâm lý của chúng sanhcăn cứ vào cái nhận thức của Bụt để nói pháp. 

Thuyết pháp hay hay dở, thành công hay thất bại không phải là do cái khoa nói của mình hay hay dở, cũng không phải do cái kiến thức Phật pháp của mình sâu hay cạn, mà chính là do cái khả năng quán cơ của mình. Quán cơ tức là thấy được cái tâm trạng, cái tâm lý, cái trường hợp của người nghe. Quán tức là nhìn để thấy, cơ tức là tình trạng tâm lý, tình trạng xã hội của người kia. Vì vậy cho nên nếu mình muốn độ đời thì mình phải học cái pháp môn gọi là quán cơ. Nhận xét người đó, nghe người đó, nhìn người đó để có thể hiểu được người đó, và khi hiểu được thì tự nhiên cái Pháp mình đem hiến tặng cho họ, sẽ là cái Pháp có thể có ảnh hưởng tốt đẹp cho họ. Có khi đối với người này thì mình thuyết cái pháp này, nhưng đối với người khác thì phải thuyết cái đề tài khác. Cũng như vị thiền sư kia, khi một thiền sinh hỏi con chó có Phật tánh không, thì trả lời là có. Một thiền sinh khác cũng lên hỏi câu đó thì ông nói không. Cái có cái không đó, không phải từ kinh điển đi ra, hay từ cái nguyên tắc gì đi ra, mà từ chỗ quán cơ mà phát xuất. Đối với thiền sinh này, ta phải nói có. Có thì mới có lợi, còn đối với thiền sinh kia thì phải nói không mới có lợi. Đối với thiền sinh này mình phải nói nhẹ nhàng mới thành công, với thiền sinh kia, mình phải quát lên một tiếng mới thành công. Cái đó là do quán cơ chớ không phải là do sự yêu ghét của người thuyết pháp.

Ở đây đại ý lời Bụt nói với thầy Ca Diếp là: Này thầy Ca Diếp, thầy nên biết Như Lai là Vua của các Pháp, nếu có nói ra lời nào thì lời đó đều không có tính cách hư dối, nói thật cả. Nói có cũng là thật, nói không cũng là thật, nói Đại Thừa là thật, mà nói Tiểu Thừa cũng là thật. Đây là cái thái độ phổ quát, thái độ bao dung, thái độ dung hợp. Đối với tất cả các pháp, Bụt dùng trí tuệ, dùng phương tiện mà diễn bày chánh pháp. Tất cả những pháp của Phật nói đều có khả năng đưa người ta tới bậc nhất thiết trí. Chữ bậc ở đây nguyên là chữ địa, tức là cái địa vị của nhất thiết trí, nghĩa là cái trí tuệ cao vời và tuyệt đốiĐức Như Lai quán và biết được chỗ quy thú của tất cả các pháp (quy thú tức là chỗ về cuối cùng), cùng biết rõ cái tâm hành của tất cả chúng sanh, biết thấu suốt không bị ngăn cách gì cả. Ý về muôn vạn nẻo, Như Lai đều biết hết, cái tâm của chúng sanh đi ngoằn ngoèo như thế nào, đi về phía này, đi về phía kia, Như Lai nhìn vào là thấy hết. Đó là nói về tâm chúng sanh, còn nói về sự vật và giáo lý, thì đối với tất cả các pháp, Bụt đều có cái nhận thức tuyệt đối, có khả năng chỉ bày tất cả trí tuệ cho chúng sanh. Trên căn bản đó, giáo lý của Bụt được ban bố ra một cách rất có hiệu quả.

Lúc bấy giờ Bụt mới nêu lên một ví dụ gọi là dược thảo. Cõi tam thiên đại thiên thế giới, có những vùng thung lũng, ruộng đồng, vườn tược, trong đó có bao nhiêu loại cây cối. Các loại đó có hàng chục vạn thứ, và mỗi thứ đều có tên riêng, mỗi thứ đều có tính cách riêng, mỗi thứ đều có nếp sống riêng, không giống nhau. Cũng như chúng sanh có rất nhiều loài, tâm trạng của loài này như thế này, tâm trạng của loài kia như thế kia, hoàn cảnh sinh hoạt của người này như thế này, hoàn cảnh xã hội của người kia như thế kia.

Chúng sanh tương tự như muôn ngàn loài thảo mộc, mọc lên trên những môi trường khác nhau.

Một hôm, mây kéo đến trùm khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới và làm thành mưa rơi xuống. Trong khi đó thì tất cả các loại cây cối, loại nào cũng được thấm nhuần cái ân đức của mưa. Có những cây rất nhỏ, cành lá khẳng khiu, có những cây rất lớn, có những cây vừa vừa, có đủ loại, đủ thứ, đủ giống cả. Loại cây nào cũng được thừa hưởng trận mưa đó một cách rất đầy đủ. Pháp của Bụt cũng vậy, Pháp của Bụt không phải để nói, để phục vụ cho một giai cấp, cho một hạng người, dầu giai cấp đó là Bồ Tát, là Bà la môn, hay Sát đế lợiGiáo pháp của Như Laitính cách phổ biến, và có khả năng phục vụ cho tất cả mọi loài chúng sanh, không kể giai cấp, không kể chủng tộc hay trí tuệ.

Đến trang 185 thì chúng ta tìm lại được cái ý niệm về Pháp của Bụt, nó chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Ở trong kinh Nam truyền chúng ta cũng đã học được điều này rồi. Bụt nói, Pháp của ta chỉ có một vị là vị gỉải thoát, cũng như nước ở trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn. Năm hàng chót của trang 185: Đức Như Lai nói pháp một tướng, một vị, nghĩa là tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, rốt ráo đến bậc nhất thiết chủng trí. Cũng như nước mưa nó có một công năngnuôi dưỡng các loài thảo mộc, làm cho các loài thảo mộc được sinh trưởng, thì Pháp của Như Lai cũng vậy.

Sang trang 186 chúng ta lại còn thấy rõ ràng hơn. Vì sao vậy? vì Như Lai thấy được cái chủng loại, cái hình tướng, cái bản thể, cái tính chất của chúng sanh, cho nên Như Lai có thể thuyết pháp để làm lợi cho chúng sanhTâm niệm của những chúng sanh đó hay nhớ chuyện gì, hay nghĩ chuyện gì, chúng sanh đó cần phải đi theo con đường thực tập nào, phải thực tập tư duy như thế nào, chánh niệm như thế nào, dùng những pháp môn nào để duy trì chánh niệm, dùng những pháp môn nào để tư duy, để tu tập, và nếu tu tập theo pháp nào thì sẽ đạt được những kết quả nào v.v... Tất cả những điều đó đều có sẵn trong trí tuệ của Bụt. Chúng sanhthể không thấy được cái căn tính của mình, nhưng Bụt thì thấy được cái căn tính của chúng sanh, như là các loại cây cỏ trong rừng thì không biết được cái bản tính của chúng, nhưng nước mưa thì có thể biết được, và nước mưa có thể phục vụ cho các loài đó được. Nước mưa kia nó chỉ có một mục đích duy nhất là làm thế nào cho tất cả các loài cây cối được sinh trưởng tốt đẹpGiáo lý của đức Như Lai cũng vậy, chỉ có một mục đích duy nhất là khiến cho tất cả các loài chúng sanh đạt được giải thoát, đạt được viễn ly, đạt được tịch diệtđạt được cái mục đích cuối cùngNhất thiết chủng trí.

Như vậy thì khi nói Pháp, các đức Bụt luôn luôn căn cứ trên nguyên tắc gọi là tùy cơ nghi, tức là theo trình độ, theo trường hợp mà nói pháp. Nhiều khi tôi giảng xong một bài pháp, dù bài đó là giảng cho đồng bào người Việt, cho người Anh, hoặc cho người Mỹ, thì sau đó thường có những người lên nói, hồi nãy thầy giảng riêng cho con đó phải không? Họ có cảm tưởng là thầy đang nói về mình. Nhưng thực ra thì không phải vậy, vì khi giảng cho một khóa tu 200 người, ta phải dùng thì giờ đó để phục vụ cho 200 người, chứ mình đâu có thể dùng một tiếng hay hai tiếng đồng hồ để nói riêng với một người được? Như thế là không công bằng! Vậy mà có người cứ tưởng thầy nói bài pháp đó cho mình hoặc để rầy la mình. Lấy một bài pháp dài hai tiếng đồng hồ để la rầy một người thì uổng quá, và tội nghiệp cho 199 người kia quá. Thường có những người nghĩ như vậy. Họ thấy thầy nói trúng tim đen của mình, nên nghĩ là sáng nay thầy đã nói riêng cho mình đó! Sự thực là với một nhóm thính chúng dù là người Việt, người Mỹ, người Anh, hoặc người Đức, trước khi nói pháp, ta phải quán cơ. Nghĩa là phải biết trường hợp chung của những người này là như thế nào, những pháp mônđa số những người này có thể tiếp nhậnthực tập được là những pháp môn nào. Trước khi bắt đầu, ta phải có một cái nhìn cho chính xác, ta phải quá cơ, nếu không thì bài thuyết pháp của mình sẽ thất bại. Vì vậy trước khi đi hoằng pháp ở Nga, hay ở Tiệp khắc, chưa biết căn cơ của họ ra sao mà mình đã làm sẵn một bài thuyết pháp, thì mình đã thất bại ngay từ trước khi đi. Mình phải tới đó, phải nhìn, phải nghe, phải hiểu, phải quán sát để biết được cái nhu yếu, biết được những khổ đau, những bế tắc của người địa phương, thì mình mới có thể nói ra một bài pháp có hiệu năng phục vụ cho họ được. Cái đó gọi là quán cơ. Là học trò của Bụt, mình phải bắt chước phương pháp của Bụt, tức là quán cơ. Khi quán cơ thành công thì bài pháp của mình tuy giống như là nói riêng cho người đó, nhưng kỳ thực người nào ở trong nhóm cũng đều có cảm tưởng là thầy đang nói riêng cho mình. Cũng như hôm ở Devon bên Anh. Sau bài pháp, bà thân mẫu của Sư cô Chân Đức đã đến gặp tôi và nói: Thầy, you spoke direct to me this morning, thank you! Thân mẫu Sư cô Chân Đức nghĩ như vậy, và có thể nhiều người khác cũng nghĩ như vậy, nhưng họ không nói ra mà thôi. Đạo Bụt thường dùng chữ viên âm, và lời thuyết pháp của Bụt là viên âm, tức là tiếng tròn. Tiếng tròn là tiếng có thể phục vụ cho tất cả mọi ngưởi, người nào cũng thâu lượm được kết quả. Nói một bài pháp mà mọi người đều thâu lượm được kết quả, thì bài pháp đó có tính cách viên âm. Khi mình chưa giỏi thì cái vòng của mình chưa tròn lắm, nhưng nếu tiếp tục thực tập quán cơ thì ngày mai vòng tròn của mình sẽ khá hơn, và một ngày nào đó nó sẽ tròn được như tiếng nói của Bụt. Ngược lại nếu nói xong mà không ai thấy lợi lạc gì cả, nói chuyện gì xa vời, ngồi nghe buồn ngủ quá, thì bài nói đó không phải là viên âm, không có đánh động được vào nhu yếu của người nghe.

Trang 187, mở đầu cho phần kệ có các câu:

Pháp vương phá các cõi,
Hiện ra trong thế gian,
Theo tính của chúng sanh,
Dùng các cách nói pháp.

Pháp vương phá các cõi là một danh hiệu của Bụt, gọi là Phá Hữu Pháp Vương.

Bên Nhật có một cuốn sách bí mật lưu truyền trong giới thiền môn. Người viết cuốn đó ký tên là Phá Hữu Pháp Vương. Tên của cuốn sách là Tương tự Thiền, tức là thứ Thiền không phải là thiền thật, mà là thiền giả mạoMục đích của cuốn sách là để tố cáo thiền giả mạo. Người viết không để tên thật mà lại mượn danh hiệu của Bụt, và ký tên là Phá Hữu Pháp Vương. Sau này cuốn sách đó lọt vào tay của một học giả, ông bèn đem ra nhà in, để phát hành! Cuốn sách tiết lộ cho chúng ta những mánh mung của các thiền sư chưa phải là thiền sư thật, nhưng đang hành nghề thiền sư. Trong cuốn Tương lai Thiền học Việt-nam tôi có nói tới cuốn sách đó. Thỉnh thoảng có những vị thiền sư xuất hiện, rất tài giỏi, có khả năng đích thực của một vị thiền sư. Họ không căn cứ vào sách vở gì cả mà vẫn có thể dạy các thiền sinh, và đưa các thiền sinh đó từ chỗ tăm tối đến chỗ giác ngộ, bằng vào những cuộc tham vấn. Đối với thiền sinh, ông có thể tự đưa ra những câu hỏi từ trong tâm của ông. Nếu những thiền sinh đó trả lời được, tức là chứng tỏ có sự đặc ngộ, thì ông có thể thấy được rằng người thiền sinh này đã đạt tới một cái thấy, và ông chứng nhận cho thiền sinh đó là một người đã chứng ngộ, có khả năng đứng ra lập thiền viện để hóa độ cho các thiền sinh khác.

Tuy vậy, không phải thế hệ nào cũng có những thiền sinh giỏi. Có những người được truyền pháp, nhưng không có khả năng hành đạo, cho nên ông thầy phải trao lại cho người học trò những cái bí quyết. Cuốn Tương Tự Thiền ghi lại những bài đối thoại mẫu. Khi thầy hỏi câu như vầy, mà học trò trả lời được như vầy, thì thầy có thể cho người học trò đó đã chứng ngộVì vậy mà những thiền sinh không xuất sắc lắm đã sử dụng cuốn này như là một cuốn Cẩm nang của thầy giáo, và cuốn sách đó đã được trao truyền rất bí mật từ thế hệ này sang thế hệ khác ở Nhật bản. Trong cuốn đó, quí vị có thể tìm thấy hàng trăm bài vấn đáp, có sẵn để cho mình, và dù là thiền sư không đích thực, vẫn có thể làm thiền sư được. Mình có thể căn cứ vào những câu trả lời của thiền sinh, nếu tương tự như trong sách, mình có thể nhận cho họ đã đắc đạoVì vậy nếu vị thị giả nào dọn phòng cho thầy, mà thấy được cuốn đó thì sẽ có cơ hội để đắc pháp một cách rất là dễ dàng, tại vì do sách đó mà biết trước câu trả lời. Ví dụ như khi được hỏi: Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay? thì sách đó dạy là đừng trả lời gì hết, mà chỉ cần đưa bàn tay ra vỗ một cái, thì thế nào cũng được đắc pháp. Ở Phương Khê, tôi có cuốn sách đó và sách đã được in tại nhà in đàng hoàng. Có một điều buồn cười nữa là sách đó đã được dịch ra một thứ tiếng ngoại quốc, do một vị giáo sư người Do thái thực hiện và phát hành. Tuy vậy, ta nên nhớ rằng, mục đích của tác giả Phá Hữu Pháp Vươngtố cáo những thực tập hình thức của thiền giả mạo.

Hữu trong danh từ phá hữu này có nghĩa là tam hữu, tức là ba cõi. Chữ hữu này đúng là chữ hữu ở trong 12 nhân duyên. Xúc sinh ra thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, và thủ duyên hữu. Hữu tức là dính mắc, nó có dây có nhợ, nó kẹt vào, tạo thành một cõi khổ đau, gọi là hữu, BhẠva. Hữu đây tức là tù ngục, vì khi mình bị kẹt vào, bị dính mắc vào thì có khổ. Những lúc mình có giận, có buồn, có ái, có kẹt, gỡ không ra, thì đó là hữu. Vì vậydanh hiệu của Bụt là Phá Hữu Pháp Vương, tức là vị vua của các pháp, có năng lực phá được những cõi giam hãm mình, cho nên chữ hữu này có nghĩa là tam giới. Còn vô minh thì sống trong tam giới, còn bị ràng buộc thì mình sống trong tam giới, nhưng nếu phá được vô minh, phá được sự ràng buộc thì tuy đang đứng trong tam giớithực ra mình đã đứng ngoài tam giới rồi. Nói một cách khác tuy đang ở trong thế giới (Lokadhatu) nhưng kỳ thực mình đã vượt tới pháp giới (Dharmadhatu) rồi. 

Pháp vương phá các cõi,
Hiện ra trong thế gian,
Theo tính của chúng sanh,
Dùng các cách nói pháp.

Đức Phá Hữu Pháp Vương xuất hiện trong cõi này, nhận thức được căn cơ của tất cả chúng sanh, nên dùng đủ mọi cách mà nói pháp để độ cho họ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14752)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11825)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12758)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10340)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12067)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15290)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11077)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10534)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12470)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16426)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14308)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11785)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14797)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12028)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16851)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11586)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12734)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11342)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12057)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52115)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15464)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13965)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11441)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13170)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12783)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13219)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17910)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12444)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12652)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54199)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14424)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9931)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13824)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57963)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14496)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20138)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13778)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15399)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17489)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13310)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11923)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13486)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14658)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12488)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12155)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12062)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13289)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12539)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13656)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13321)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25596)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12176)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14558)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11859)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42071)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28335)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38799)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14718)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12689)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16237)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant