Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Phẩm Thứ Mười: Pháp sư

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11419)
10. Phẩm Thứ Mười: Pháp sư

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Mười: Pháp sư

Ta hãy đi sang Phẩm thứ mười, gọi là Phẩm Pháp Sư, trang 281. Chúng ta có thể xem phẩm này là phần kết thúc của phần mà Tông Thiên Thai gọi là Tích môn, đồng thời cũng là sửa soạn cho việc mở cửa để vào pháp giới Bản môn.

Phẩm này cho chúng ta thấy tầm quan trọng của Pháp. Pháp cũng quan trọng như Bụt. Cúng dường Pháp thì có phước đức, quan trọng tương đương với cúng dường Bụt. Niệm Bụt có thể đưa tới sự chuyển hóa, công đức vô lượng, nhưng niệm Pháp cũng có thể đưa tới sự chuyển hóa và đem lại công đức vô lượng.
Trong phẩm này, chúng ta thấy kinh Pháp Hoa chính là bản thân của Bụt. Khi chúng ta cúi đầu, tỏ niềm cung kính đối với kinh Pháp Hoa tức là chúng ta cúi đầu và tỏ niềm cung kính đối với Bụt, công đức ngang nhau. Chính trong phẩm này chúng ta học được rằng kinh Pháp Hoa là Vua của tất cả các kinh điển. Danh từ Pháp sư (DharmabhẠẾaka) ở đây có nghĩa là người đem giáo pháp của Bụt ra để chia xẻ cho người khác. Ở đây Pháp sư được diễn tả là một vị đại sứ của Bụt, mang thông điệp của Bụt đi khắp cùng mười phương thế giới. Thông điệp này là thông điệp Pháp Hoa, thông điệp nói cho mọi người biết rằng ai cũng có khả năng tính thành Bụt, và có khả năng tính độ thoát cho tất cả mọi loài chúng sanh. Cũng ở trong phẩm này ta thấy rằng Bụt không những thọ ký cho những người sống trong thời Bụt còn tại thế, mà còn có thể thọ ký được cho những người sinh ra, lớn lên và hành đạo trong thời đại sau khi Ngài đã nhập diệt.

Trang 281 trình bày những điều này. Bụt nói với Bồ Tát Dược Vương, vua của tất cả các vị dược sĩ, rằng tất cả mọi người, mọi loài nếu trong thời Bụt tại thế nếu có dịp được nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dầu chỉ nghe một bài kệ, hoặc dầu không được nghe kinh Pháp Hoa đi nữa, nhưng chỉ được nghe danh từ kinh Pháp Hoa mà trong lòng phát ra một niềm hoan hỷ, thì những người đó đều tự động được Bụt thọ ký cho thành Bụt hết. Không cần nghe nội dung Pháp Hoa mà chỉ cần nghe tên kinh Pháp Hoa thôi mà thấy trong lòng hớn hở là đã được Bụt thọ ký cho rồi. Chúng ta hãy đọc câu cuối trang 281: Bụt bảo Bồ Tát Dược Vương: ỘSau khi Như Lai diệt độ rồi, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dầu cho nghe một bài kệ hay một câu kinh thôi, mà có tâm niệm tùy hỷ, tán thán, thì đó là Bụt cũng đã thọ ký cho người đó được đạo vô thượng chánh đẳng chánh giácỢ. Nghĩa là khi Bụt nhập diệt rồi và nếu kinh Pháp Hoa còn đó, nếu trong chúng ta, người nào nghe được kinh Pháp Hoa, nghe một bài kệ hay nghe một câu kinh thôi mà trong lòng thấy vui mừng thì người đó đã được Bụt thọ ký cho rồi, không cần phải leo lên đỉnh núi Linh Thứu, hay trở về 2500 năm trước mới nhận được ân đức đó.
Sang trang 282, đại ý của đoạn này là: Nếu có người tiếp nhận, đọc tụng, giảng giải và biên chép kinh này, dầu chỉ là một bài kệ thôi, thì những người đó đã tỏ ra sự cung kính tột bực đối với Bụt. Cúng dường kinh điển tức là cúng dường chư Bụt. Chúng ta phải biết chữ biên chép này rất quan trọng. Biên chép kinh trên giấy là một công việc của thời đại mới, trước đó người ta chỉ truyền tụng bằng miệng mà thôi. Người ta chỉ mới biên chép kinh điển vào thế kỷ thứ nhất trước kỷ nguyên Ki-tô, trước đó thì chỉ có truyền khẩu. Như vậy, một trăm năm trước Chúa giáng sinh, người ta mới bắt đầu biên chép kinh điển, và những kinh điển viết lại đầu tiên đều được chép trên lá bối (TẠlapattra) (Hình 1). Vì vậy mà khi đọc kinh Nguyên Thủy, chúng ta không thấy chữ biên chép.

Hình 1: Một tập kinh viết trên lá bốiHai mặt của tập kinh được ép lại bằng hai tấm gỗ, thường được trang trí rất đẹp. Hai sợi chỉ luồn qua để giữ các tờ kinh. Các chữ của kinh được viết trên các đường gân song song của lá (Tài liệu: Từ điển Phật học, Chân Nguyên và Nguyễn tường Bách, H36, trang 218. Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế - Việt-nam, 1999).

Ở đoạn này chúng ta thấy rằng cúng dường kinh tức là cúng dường Bụt, cúng dường Pháp cũng là cúng dường Bụt, và niệm Pháp cũng tương đương với niệm Bụt, nghĩa là Pháp niệm (DharmẠnusmỄti) cũng là Phật niệm. Vì vậy chúng ta đã thấy có những tông phái như phái Liên Tông, chủ trương niệm Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, và họ tin rằng niệm như thế cũng có thể đạt được sự giác ngộPhương pháp niệm Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh cũng đưa tới sự chuyển hóa, và cũng đem đến cho ta vô lượng công đứcVì vậy có những người đã căn cứ trên phẩm này của kinh Pháp Hoa để thành lập những tông phái tu tập.
Nghĩ cho kỹ thì ta thấy rằng Phật Thân đích thực chẳng qua chỉ là Pháp Thân, the true body of the Buddha is the Dharma body, và cái Phật Thânchúng ta gọi là Pháp Thân đó, chúng ta có thể sờ mó được ngay trong giây phút hiện tại. Cho nên ta có thể cung kính cúng dường Pháp Thân ngay bây giờ, và như vậy là ta đang cung kính cúng dường Phật Thân đích thực trong giây phút hiện tại, không cần phải lên núi Thứu 2500 năm trước đây mới làm được chuyện đó. Nói rằng tôi không có phước nên sanh ra 2500 năm sau khi Bụt nhập diệt là không thông minh, và không phải là đệ tử của Bụt, vì Bụt đang còn ở đây, trong giờ phút hiện tại này.

Ở trang 284 chúng ta đọc từ hàng thứ ba: Bồ Tát Dược Vương, nếu có một người đọc tụng kinh Pháp Hoa thì phải biết rằng người đó đang dùng những đồ trang sức của Bụt để tự trang điểm mình. Pháp Hoa là một chất liệu rất đẹp, rất mầu nhiệm, và Bụt tự trang sức mình bằng chất liệu vi diệu đó. Bụt không cần dầu thơm hoặc phấn son để trang điểm, Bụt cũng không cần vàng vòng châu báu, tại vì Bụt có những chất liệu trang sức khác quí giá hơn nhiều, có thể làm cho Bụt đẹp hơn nhiều, đó là cái bản chất Pháp HoaVì vậy cho nên trong chúng ta nếu ai biết thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa, tức là đã dùng cùng một thứ cosmetic với Bụt, và mình cũng sẽ đẹp không thua gì Bụt. Không những là mình đẹp bằng Bụt rồi, mà mình còn được Bụt đưa đi trên con đường tu học, giống như Bụt có chiếc xe đẹp, mình muốn đi đâu, Bụt chở mình đi nơi đó. Chiếc xe đó là Pháp Hoa. Như vậy thì chỉ cần thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa thôi thì mình đã cùng Bụt đi trên một con đường, đi đâu ta cũng được Bụt mang theo.

Trang 287, chúng ta đọc bốn hàng chót của phần kệ trùng tụng:

Dược Vương! Nay bảo ông,
Các kinh của ta nói,
Mà ở trong kinh đó,
Pháp Hoa tột thứ nhất. 

Những câu này có nghĩa rằng, này Bồ Tát Dược Vương, tôi muốn nói cho Bồ Tát biết rằng trong số những kinh mà tôi đã nói trong suốt 49 năm vừa qua, kinh quan trọng nhất là kinh Pháp HoaVì vậy, cái ý niệm Pháp Hoa là Vua của tất cả các kinh, một phần là căn cứ vào bài kệ này. 

Trang 288, đoạn thứ tư: Này Bồ Tát Dược Vương, nơi nào, chỗ nào có sự giảng diễn, đọc tụng, biên chép kinh này thì chúng ta nên dựng một tháp bằng bảy thứ châu báu, tại vì chính nơi đó đã là một thánh địa rồi, không cần phảixá lợi Bụt nó mới linh thiêng. Miếng đất nào mà tại đó có người giảng giải, đọc tụng kinh Pháp Hoa, miếng đất đó đáng để ta dựng lên một cái tháp, tại vì đó là một phần đất linh thiêng. Ví dụ như nhà bếp của xóm Thượng. Phần đất này rất là linh thiêng, đáng để ta dựng lên một cái tháp để thờ. Tại sao vậy? Tại vì mùa Đông năm nay nhà bếp ở Xóm Thượng là nơi ấm nhất trong xóm, và ta đã được nghe giảng kinh Pháp Hoa ở đấy. Tuy không có xá lợi Bụt nhưng ở đây đã có sự hiện diện toàn thân đích thực của đức Như Lai.

Kinh Pháp Hoada thịt, là xương tủy của Như Lai, và nơi nào có người giảng nói kinh Pháp Hoa, thì nơi đó chứa đựng da thịt của Như Lai, vì vậy mà ta phải dựng tháp ở chỗ đó để thờ. Cho nên nếu chúng ta ngồi ở nhà bếp này để ăn những bửa ăn phi thời, chắc chắnchúng ta sẽ mang tội!

Đại chúng nên đọc và tự khám phá thêm về Phẩm thứ mười này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14770)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11834)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12769)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10352)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12070)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15300)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11090)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10545)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12480)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16435)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14319)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11794)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14815)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12037)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16861)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11594)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12740)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11350)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12066)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52162)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15474)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13973)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13188)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12792)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13227)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17921)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12458)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12658)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54215)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14435)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9937)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57993)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14511)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20152)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13795)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15412)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17500)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13323)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11939)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13495)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14674)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12496)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12158)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12070)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13295)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12546)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13670)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13333)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25611)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12183)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14562)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11868)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42083)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28355)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38819)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14728)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12708)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16253)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant