Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

11. Phẩm Thứ Mười Một: Hiện bảo tháp

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10921)
11. Phẩm Thứ Mười Một: Hiện bảo tháp

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Mười Một: Hiện bảo tháp

Chúng ta hãy đi sang Phẩm thứ 11, tức là Phẩm Hiện Bảo Tháp, trang 295.

Tôi có quen một người tên là Jim Forest. Một hôm tới thăm anh ở New York, tôi thấy anh chứa trong kho của anh những vỏ chai Coca Cola. Khi có người đến thăm, anh thường mời họ uống Coca Cola. Nếu người khách đó nổi tiếng, anh ghi tên vị đó vào một miếng giấy, dán vào vỏ chai và giữ lại trong kho làm kỷ niệm. Vỏ chai Coca Cola đâu có giá trị gì nhiều, nhưng tại vì chai Coca đó đã được nhân vật nổi tiếng kia uống, nên anh Jim đã thấy cái giá trị riêng của nó.

Cũng vậy, mảnh đất mà trên đó có người tụng kinh Pháp Hoa sẽ trở nên một vùng đất rất có giá trịChúng ta thấy những họa sĩ tài ba như Van Gogh hay những nhà văn nổi tiếng như Charles Dickens, những món đồ họ để lại như một cây gậy, một cái nón v.v..., tất cả đều trở thành những vật quí giá, rất đắt tiền. Vậy thì sự linh thiêng hay quí giá của một vật không phải là do bản chất của nó, mà do một cái có giá trị tâm linh đã đi ngang qua đó và đã đồng nhất với vật đó. 

Trong phẩm này chúng ta thấy có một hiện tượng tương tự như vậy hiển bày ra. Đó là khi Bụt đang thuyết pháp và đang thọ ký cho những người đáng được thọ ký, thì phía trước mặt tự nhiên có một bảo tháp xuất hiện. Bảo tháp này xây bằng bảy thứ châu báu, cao 500 do-tuần, và rộng 250 do-tuần, từ dưới đất nổi lên và an trú ở trong không trung. Bảo tháp này tượng trưng cho sự xuất hiện của Bản môn trong thế giới ta bà, tức là cái bất diệt đang xuất hiện trong cái sinh diệtBảo tháp đó là bảo tháp của một vị Bụt tên là Bụt Đa Bảo (Prabhũtaratna). Bụt Đa Bảo là một vị Bụt đã xuất hiện trong lịch sử, đã tu thành Bụt và đã phát lời thệ nguyện rằng, khi thành Bụt và sau khi đã nhập Niết Bàn rồi, khắp hoàn vũ nơi nào có người nói kinh Pháp Hoa, thì tháp của tôi sẽ hiển hiện ra nơi đó, và từ trong tháp sẽ vẳng ra tiếng nói của tôi, khen ngợi người đang nói Pháp. Đó là lời nguyện của vị Bồ Tát trước khi thành Bụt gọi là Bụt Đa Bảo. Đây là một hình ảnh rất tuyệt vời. Đứng về phương diện thi ca mà nói thì đó là một hình ảnh rất đẹp, rất tân kỳ, rất khéo léo. Làm thơ mà làm được như vậy thì quả là tuyệt diệu. Nơi nào có người nói Pháp Hoa, giảng thuyết về Pháp Hoa thì cái bảo tháp tượng trưng cho cả tâm hồn tôi, trái tim tôi, hạnh nguyện của tôi sẽ có mặt tại chỗ đó, và từ trong bảo tháp sẽ có tiếng tôi vọng ra, khen rằng: "Hay quá, hay quá!"

Khi bảo tháp của Bụt Đa Bảo đột nhiên xuất hiện trên hư không như vậy thì tất cả mọi người đều trầm trồ nhìn lên, không biết bảo tháp từ đâu hiện lênBảo tháp rất lộng lẫy, huy hoàng và trong tháp vọng ra những tiếng ngợi khen rất là mầu nhiệm. Tất cả đại chúng đều ngạc nhiên, ai cũng muốn hỏi Bụt về nguồn gốc của tháp ấy. Từ trước đến nay chúng ta đã ngồi trên núi Thứu, chân ta chấm đất, chúng ta đang ở trong bình diện của lịch sử, của Tích môn, có thầy, có trò, có quá khứ, có hiện tại, có vị lai. Nhưng giờ đây thì nhờ thần lực của Bụt Đa Bảochúng ta đã được đưa từ thế giới của lịch sử sang thế giới của bản thể, không còn thời gian, không còn không gian nữa. Từ thế giới của tương đối, chúng ta được đi vào cái thế giới của tuyệt đối, và tháp Đa Bảo là cánh cửa mở ra để cho ta đi từ thế giới sinh diệt vào thế giới của bất sinh bất diệt. Bây giờ đây núi Thứu đã biến mất và cái không gian mênh mông kia trong đó có bảo tháp xuất hiện là một cái thế giới mới, trong đó chân của chúng ta không còn chấm đất nữa, bởi vì chúng ta đã đi vào một thế giới không có trên không có dưới, không có trong ngoài, không có trước sau, thế giới của Bản môn. Ở đây, Bụt Đa Bảo là dấu hiệu của bất diệt, hiển hiện ngay trong cái thế giới của sinh diệt. Nói cho cùng thì sự tu học của ta là để nhận diện được cái bất diệt trong cái sinh diệt, và chúng ta có thể nhận diện bằng chánh niệm. Lúc ban đầu thì chánh niệm còn yếu, nhưng từ từ sẽ vững chãi, và chánh niệm càng vững chãi bao nhiêu thì cái khuôn mặt của bất diệt xuất hiện trong thế giới của sinh diệt càng trở nên rõ ràng bấy nhiêu. 

Năm 1964 khi viết bài Đêm cầu nguyện, tự nhiên trong tôi ý đó xuất hiện:

Giờ phút linh thiêng
Gió lặng chim ngừng
Trái đất rung động bảy lần
Khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt

Sự xuất hiện của Bụt là lúc cái bất diệt đi ngang dòng sinh diệt, nó tạo nên một cái gì tương đương như một cái "electric shock". Khi cái bất diệt xẹt ngang qua dòng sinh diệt, khi cái Bản môn chạm vào cái Tích môn, thì tự nhiên có một sự chấn động, và người có chánh niệm tiếp nhận được sự rung chuyển đó. Sự rung chuyển đó rất vĩ đại, nó được biểu lộ bởi sự chấn động của trái đất đến bảy lần. Thế giới của kinh điển chứa đầy chất liệu thi ca huyền ảo, vì những hình ảnh thi ca đó diễn tả được những ý tưởng rất sâu sắc, nhiệm mầu. Trong bài thơ kia tôi còn viết:
Giờ phút linh thiêng
Đóa bất diệt nở ngay giữa vườn hoa sinh diệt
nghĩa là trong vườn hoa chúng sanh sinh diệt, mình thấy được một đóa hoa bất diệt, đó là Bụt,

Ngài về đây học nói tiếng loài người
bởi vì cái bất diệt hiện giờ đang khoác áo sinh diệt. Bụt nói tiếng nói của Chân như, của Pháp Thân, khác với tiếng nói của chúng sanh. Nhưng vì chúng sanh, Ngài phải học tiếng nói của loài người để loài người có thể từ từ hiểu được tiếng nói của Pháp Thân. Tiếng nói của Pháp Thân có thể được nghe qua tiếng chim hót, tiếng gió reo, nhưng vì đã đánh mất quê hương lâu rồi nên ta không có khả năng để nghe tiếng nói của chân như nữa. Vì vậy cho nên phải có người dạy cho ta trở lại. Người dạy cho mình đã từ thế giới của chân như, thế giới của bản thể, của bất diệt đi tới, nên người đó phải học tiếng nói của sinh diệt để có thể khai thị cho mình cái bản chất bất diệt. Học nói tiếng loài người ở đây không phải chỉ đơn thuần học ngôn ngữ, mà còn phải quán cơ về tâm ý và sở thích của loài người. Nụ giác ngộ hé thành muôn thi thiết. Nụ giác ngộ phải được biểu hiện ra bằng muôn ngàn phương tiện, Ngài về đây học nói tiếng loài người, để cho loài người từ từ tập nghe cái ngôn ngữ của chân như trở lại. Đó là công trình biểu hiện bằng giây phút chấn động, va chạm giữa Tích môn và Bản môn.
Lúc thấy tháp Đa Bảo, tất cả các vị Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác, hữu họcvô học đều đồng một lòng xin Bụt mở tháp Đa Bảo ra cho đại chúng thấy được Phật thân của Bụt Đa Bảo. Nghĩa là mọi người muốn thấy cái bất diệt bằng con mắt của sinh diệt

Trang 298: Lúc bấy giờ Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết do sức thần của đức Như Lai mà bạch Bụt rằng: "Bạch đức Thế Tôn, chúng con nguyện muốn thấy cái chân thân của Bụt Đa Bảo". Đúng là tâm trạng của chúng mình, thấy bảo tháp đó, nghe tiếng nói êm dịu và oai hùng đó vọng ra, ta tò mò muốn thấy người ngồi trong ấy dáng vóc như thế nào mà có được cái hạnh nguyện và giọng nói kia. Khi Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết đại diện cho tất cả đại chúng tỏ ý muốn thấy Bụt Đa Bảo, thì Bụt Thích Ca nói: Khoan đã, bây giờ ta phải làm việc rất quan trọng này trước, rồi mới có thể mở được tháp này cho quí vị thấy chân thân của Bụt Đa Bảo, Bụt của bất sanh bất diệt. Ta đã được thấy Bụt Thích Ca rồi, nhưng vẫn còn muốn thấy Bụt Đa Bảo, Bụt của Bản môn, tại vì Bụt Thích Ca là Bụt có sinh có diệt, Bụt của Tích môn. Và Bụt Thích Ca giải thích rằng: Ngày xưa Bụt Đa Bảo có dặn rằng mỗi khi bảo tháp của ta xuất hiện và nếu đại chúng ở đó muốn mở tháp để thấy chân thân ta, thì vị Bụt đang thuyết giảng Pháp Hoa phải gọi tất cả những hóa thân của mình ở khắp mười phương thế giới về có mặt tại đó, rồi mới được mở tháp. Vậy đại chúng hãy đợi tôi gọi tất cả các hóa thân của tôi từ mười phương thế giới về, thì chúng ta mới có đủ điều kiện mở bảo tháp của Bụt Đa Bảo.

Đây là một điều rất mầu nhiệm. Đây là những phương tiện giúp cho ta có đủ điều kiện, có được con mắt để nhìn vào Bản môn. Lâu nay con mắt của ta quen nhìn theo lối Tích môn, quen nhìn thế giới trong cái quá trình lịch sử, trong cái thời giankhông gian của nó. Giờ đây muốn nhìn cái chân diện mục của Bản môn thì khó lắm, vì vậy cho nên phải thay đổi nhận thức, và hành động này là một hành động tập sự để cho người ta thấy rằng Bản môn không hề bị tách rời ra khỏi Tích môn. Vì vậymọi người phải nhìn lại để thấy được tất cả các hóa thân của Bụt Thích Ca. Thấy rõ được Bụt Thích Ca thì tự nhiên có thể thấy được Bụt Đa Bảo. Lúc đó Bụt Thích Ca mới tiết lộ cho mọi người biết rằng Ngài hiện giờvô lượng, vô số hóa thân, đang giảng dạy khắp nơi trong cõi tam thiên đại thiên thế giớiCon người đang ngồi ở đây mà quý vị tưởng là thầy của quý vị, chưa đích thực là Thích Ca Mâu Ni đâu. Tôi phải gọi tất cả các vị hóa thân của tôi về đây để quý vị nhận diện, để quý vị thấy được tầm vóc đích thực của tôi, thì chúng ta mới có thể mở được tháp Đa Bảo. Lúc đó mọi người mới giật mình kinh ngạc, thấy rằng thầy mình không phải chỉ là cái nhục thân đang ngồi trước mặt mình. Thầy mình có gốc rễ trong thời gian vô cùngkhông gian vô biên của pháp giới Bản môn.

Sang trang 299: Lúc bấy giờ Phật phóng một lằn sáng từ nơi chùm lông trắng ở giữa chặn mày, ánh sáng chiếu tới năm trăm muôn ức na-do-tha (8) hằng hà sa cõi nước ở phương Đông. Khi hào quang chiếu tới đâu thì đại chúng thấy rõ tới đó, những cõi nước rất trang nghiêm, rất đẹp đẽ, chứ không ô nhiễm xấu xa như cõi ta bà này. Sau khi chiếu hào quang ấy về phương Đông thì Bụt lại chiếu nó về phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Trên, phương Dưới và cũng làm hiển lộ cho mọi người thấy được các cõi Bụt vô lượng như vậy, rất là đẹp đẽMọi người đều thấy rằng ở tất cả các cõi đó đều có một Bụt Thích Ca Mâu Ni đang thuyết pháp, và đại chúng bao quanh các vị cũng đông đảo vô cùng. Khi ánh hào quang chiếu tới, các vị Bụt hóa thân ấy đều nói: Đức Thích Ca Mâu Ni đang gọi tất cả chúng ta trở về để sẵn sàng mở tháp Đa BảoHằng hà sa số các vị Thích Ca Mâu Ni đang hành đạo trong mười phương thế giới, trong nháy mắt đều trở về núi Thứu, nơi mà Bụt Thích Ca muốn họ trở về. Khi về đến, các vị Thích Ca Mâu Ni mỗi người ngồi trên một tòa sư tử, tràn đầy cả hư không, hàng trăm triệu vị gia nhập vào đại hội Linh Sơn. Lúc đó Bụt Thích Ca Mâu Ni mới nói: Bây giờ chúng ta có thể mở tháp Đa Bảo ra được rồi.

Nếu khôngcảnh tượng này, nếu khôngphương tiện này để cho đại chúng học tập, thì đại chúng vẫn nghĩ rằng Bản môn là một cái gì tách lìa ra khỏi Tích môn. Nhìn kỹ vào Bụt Thích Ca thì thấy Bụt Thích Ca là một thực tại nhiệm mầu không thể nghĩ bàn được. Không thể giam Bụt của mình, giam thầy của mình vào trong một khoảng không gian 80 năm, trong một quốc độ có 500 triệu dân, trong một không gianthời gian nhỏ bé như vậy được. Sự hiện thành biến tướng dùng hào quang quét mười phương thế giới để cho mọi người thấy được rằng Bụt Thích Ca Mâu Ni có mặt đồng thời trong hết mười phương, vô lượng, vô số, vô biên và đang qui hội lại một chỗ là để cho đại chúng thực tập, để cho đại chúng có được con mắt sáng hơn, ít bụi trần hơn, mà đón nhận Bụt Đa Bảo, tức là Bụt của Bản môn. Đây là một phẩm kinh rất đẹp. Những hình ảnh này đều là những hình ảnh thi ca tuyệt diệuNếu không có những hình ảnh này thì ta khó có thể nói ra được cái triết lý thâm sâu về Tích môn và Bản môn.

Trang 304: Lúc bấy giờ Bụt Thích Ca Mâu Ni thấy các vị Phật-Phân-Thân của mình đều đến đầy đủ, ngồi trên tòa sư tử và tất cả đều có ý muốn đồng mở tháp báu của Bụt Đa Bảo, tức thì Người liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trụ trong hư không và sẵn sàng mở tháp. Lúc bấy giờ mọi người đều đứng dậy tại vì đây là giờ phút linh thiêng của sự mở tháp. Đứng dậy ở đây có nghĩa là rời khỏi cái thế giới của Tích môn, và đứng dậy như vậy đâu phải là chuyện dễ dàng. Phải chuẩn bị trước, phải thực tập trước. Đức Bụt Thích Ca trụ trong hư khôngmọi người cũng vậy, tức là tất cả đều đã đi vào thế giới của Bản môn. Lúc đó Bụt Thích Ca Mâu Ni dùng ngón tay bên hữu mở cửa tháp thì có một âm thanh rất trong trẻo vang ra rất lớn, và tất cả mọi người đều trông thấy Bụt Đa Bảo ở trong tháp hiện ra ngồi trên tòa sư tử, toàn thân vẫn còn nguyên vẹn. Bụt Đa Bảo tuy đã nhập diệt từ lâu, nhưng vẫn ngồi im lặng như trong cảnh thiền định, và Bụt lại mở miệng nói: "Hay thay! hay thay! Bụt Thích Ca Mâu Ni, Ngài đang nói kinh Pháp Hoa và vì kinh Pháp Hoa mà tôi đã tới đây để chứng kiến và yểm trợ". Lúc đó tất cả hàng tứ chúng đều thấy một vị Bụt đã diệt độ từ vô lượng nghìn muôn ức kiếp về trước, mà vẫn còn hiện tiền trong giây phút hiện tại, thì lấy làm ngạc nhiên vô cùng. Đây là một việc chưa từng thấy, tức là việc thấy được tính chất bất sinh bất diệt của những cái mà lâu nay mình cứ nghĩ là có sinh có diệt. Tôi chưa bao giờ từng sanh, mà cũng không bao giờ từng diệt. Rời được thế giới của Tích môn để đi vào thế giới của Bản môn là một chuyện khó, vậy mà ở đây tất cả thầy trò đều đã thực tập để có thể làm được việc đó. Lúc bấy giờ hoa ở trên trời rơi xuống như mưa để cúng dường hai vị Bụt Đa BảoThích Ca, một vị Bụt thuộc Bản môn và một vị thuộc Tích môn. Vì trong tâm của thính chúng vẫn còn sót lại một vài dấu tích của phân biệt: Vì còn nghĩ rằng Bụt Thích Ca là Bụt lịch sử, Bụt của hiện tại, và Bụt Đa Bảo là Bụt của quá khứ hay là Bụt của Bản môn, của bất diệt, cho nên ngay lúc đó có một sự kiện vô cùng tuyệt diệu khác xảy ra để gột tẩy, xóa sạch một cách tuyệt đối những phân biệt này. Đó là Bụt Đa Bảo ngồi xích sang một bên, để dành nửa tòa sư tửlên tiếng: Thích Ca Mâu Ni, mời Ngài đến ngồi cạnh tôi. Như vậy là tòa sư tử được chia hai, một bên đức Đa Bảo ngồi, một bên đức Thích Ca ngồi, cảnh tượng đẹp vô cùng! Điều này chứng tỏ hai là một, Bản môn và Tích môn chỉ là một. Mà cũng không phải là một nữa, tại vì nếu còn một thì lại còn hai.

Trang 305: Lúc đó Bụt Đa Bảo ở trong tháp báu chia nửa tòa ngồi cho đức Thích Ca Mâu Ni và nói rằng, Thích Ca Mâu Ni, Ngài có thể đến ngồi trên tòa này với tôi, tức thời đức Thích Ca Mâu Ni đi vào trong tháp báu và ngồi xếp bàn trên nửa tòa, một bên Bụt Đa Bảo. Không thể có hình ảnh nào đẹp hơn nữa. Bất diệt đi ngang dòng sinh diệt, và sinh diệt trở nên bất diệt, giữa hai cái, không còn có sự phân biệt nào nữa.

Lúc ấy bảo tháp an trú ở trên cao và chỉ có các hóa thân của Bụt Thích Ca và các vị Bồ Tátsung sướng vì thấy được cảnh tượng ấy, số còn lại vì còn thấp bé, cho nên không thấy được. Vì vậy nên trong lòng họ phát ra một lời ước nguyện: Đức Bụt Đa Bảo ngồi cao quá, ngưỡng mong đức Như Lai dùng sức thần thông cho chúng con lên cao để chúng con có thể trông thấy được. Khi biết được cái tâm niệm đó của chúng sanh, Bụt Thích Ca Mâu Ni liền dùng phép thần thông đưa tất cả đại chúng trong hội Linh Sơn lên cao để cho mọi người được chiêm ngưỡng cái khung cảnh mầu nhiệm đang xảy ra trước mắt. Lúc đó mọi người hoan hỷ nhìn vào và thấy Bụt Đa Bảo đang ngồi rất tự tại, trang nghiêm, uy hùng và đẹp đẽ ở trong tháp.

Đối với các hóa thân của Bụt Thích Ca và những vị Bồ Tát, thì tiếp xúc với Bản môn rất dễ, tại vì các Ngài không còn bị dính vào những cái tướng trạng bên ngoài, những cái ý niệm. Còn những người thuộc giới Thanh văn và Duyên giác, vì mới bắt đầu nếm được mùi vị Đại Thừa, nên chuyện phá tướng của họ chưa thực hiện được nhiều. Họ còn bị dính kẹt vào các tướng như có, không; tới, đi; một, nhiều; trong, ngoài; trước, sau; quá khứ, tương lai; cho nên họ còn bị một loại keo dán chặt họ vào mặt đất, thì làm sao họ tiếp xúc được với Bản môn? Cũng như khi tâm mình còn đau buồn thì làm sao mình thấy được cảnh trí nhiệm mầu của hoa vàng trúc tím, trăng trong mây bạc? Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ là như vậy. Cho nên Bụt Thích Ca mới dùng phương tiện đưa họ lên khỏi mặt đất để họ có thể thấy được. Đưa lên khỏi mặt đất ở đây nó có nghĩa là giúp cho họ phá bỏ được mọi sự dính mắc vào các tướng, như bốn tướng ở trong kinh Kim Cương: Tướng Ngã, tướng Nhân, tướng Chúng sanh, và tướng Thọ giảNgoài ra còn biết bao nhiêu tướng khác nữa. Tướng là ý niệm, là khái niệm. Đọc kinh không thấy được những điều đó, mà chỉ thấy toàn những phép thần thông, thì mình chẳng học được gì từ kinh cả.

Ta không còn đòi hỏi một cái gì nữa hết, tất cả những ước mơ của ta đều đã được thành tựu, không có một trở ngại nào mà ta đã không vượt qua được, đó là nhờ cái thần biến, nhờ cái phương tiện, nhờ cái thi thiết của Bụt. Muốn mở bảo tháp ra xem thì tháp được mở. Nhưng muốn thấy được chân thân của Bụt Đa Bảo thì phải thấy rõ được chân thân của Bụt Thích Ca, vì vậy mà Bụt Thích Ca đã phải gọi tất cả những hóa thân của mình về để đại chúng có thể hiểu được phần nào cái sự thậtnếu không thấy rõ được Bụt Thích Ca thì không thể nào thấy được Bụt Đa Bảo. Đi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, cửa mở rồi, thấy Bụt Đa Bảo rồi, nhưng người ta vẫn nghĩ rằng Bụt Đa Bảo và Bụt Thích Ca là hai vị Bụt khác nhau, vì vậy mới có cảnh tượng là Bụt Đa Bảo nhường một nửa tòa sư tử cho Bụt Thích Ca. Khi hai vị Bụt ngồi với nhau như vậy rồi, vẫn thấy chưa đủ, vẫn muốn được nâng lên cao để tự mình nhìn thấy, và Bụt cũng đã làm thỏa mãn cái nguyện ước đó. Quả thật không có gì mà Bụt không làm để cho chúng sanh có thể thấy được sự thật bất nhị về Bản môn và Tích môn.

Phẩm Hiện Bảo Tháp là một phẩm thật đẹp, giống như một màn kịch, trong đó những tình tiết liên tục xảy ra, mỗi tình tiết mang một ý nghĩa, và sự diễn biến của những tình tiết đó có mục đích giúp ta trong quá trình vượt thoát những ý niệm để có thể tiếp xúc được với Bản môn, nghĩa là với tự thân của thực tại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11535)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11863)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11977)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12457)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10669)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10105)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12269)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15250)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12000)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15189)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11885)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10509)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12562)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13023)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11725)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11522)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12664)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12780)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9765)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12939)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10215)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12092)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16513)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14149)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24416)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10589)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant