Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

16. Phẩm Thứ Mười Sáu: Như lai thọ lượng

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10856)
16. Phẩm Thứ Mười Sáu: Như lai thọ lượng

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Mười Sáu: Như lai thọ lượng

Chúng ta thấy giữa phẩm thứ 15 và phẩm thứ 16 có một sợi dây liên lạc. Đây là một hình thức trình bày mới của kinh điển, trong đó phẩm thứ 15 đặt câu hỏi và phẩm thứ 16 cung cấp câu trả lời. Trong các kinh khác ta thường thấy vấn đề được giải quyết trọn vẹn trong mỗi phẩm. Ở đây, phẩm này đặt câu hỏi và phẩm kế thì đưa ra câu trả lời. Cái hình thái trình bày này có một điều lợi là gợi ý tò mò của người đọc, muốn biết câu trả lời là như thế nào, vì câu trả lời đó đã được giữ lại, nên sự tò mò của chúng ta tăng lên. Đây là lần đầu tiên tôi thấy trong kinh có một thu xếp như vậy. Điều này làm mình liên tưởng đến những bộ tiểu thuyết kiếm hiệp của Trung hoa, ở cuối mỗi chương người ta thường viết: Muốn biết sự tình sẽ như thế nào, xin xem hồi sau phân giải

Đứng về phương diện hình thứcdiễn tả, thì kinh Pháp Hoa ngoài cái tính cách thâm sâu của kinh điển, còn có tính cách hấp dẫn của một cuốn tiểu thuyết. Với Bảo tháp của Bụt Đa Bảo xuất hiện, chúng ta thấy rằng những hình ảnh được sử dụng để nói lên sự có mặt của bất diệt trong lòng sinh diệt, là những hình ảnh rất tuyệt vờiChưa bao giờ nghệ thuật diễn tả đạt tới cái mức độ tuyệt diệu như vậy. Khi đi sang phẩm Tùng địa dũng xuất, ta cũng thấy như vậy, những hình ảnh của các Bồ Tát từ dưới đất trồi lên hàng triệu vị, gợi cho chúng ta những hình ảnhtính cách thi ca, được tận dụng để trình bày những tư tưởng rất sâu sắc mà ngôn từ thông thường không thể nào diễn tả được.

Trước đây, chúng ta đã nói đến Pháp Thân Tạng ở xóm Thượng. Vào tháng ba mỗi năm, ở Pháp Thân tạng có hàng ngàn, hàng chục ngàn bông hoa thủy tiên từ lòng đất trồi lên. Nếu giờ này lên đó thì mình tuyệt đối không thấy một bông hoa thủy tiên nào cả, nhưng đến tháng ba thì tự nhiên hàng chục ngàn bông thủy tiên sẽ hiển hiện. Có một số quí vị từ Bắc Mỹ về đây ở lại, và đến tháng ba thì họ rất đỗi lạ lùng. Vì vậychúng ta đã gọi khu đất đó là kho tàng của Pháp Thân, Pháp Thân Tạng.

Cứ tưởng là không có, mà kỳ thực là có đó, chỉ cần chờ thời gian thuận lợi, chờ đủ duyên là chúng ta thấy được. Hồi đó đại chúng ở Làng chưa được nghe giảng kinh Pháp Hoa đầy đủ, nhưng cũng đã được nghe giảng về phẩm Tùng địa dũng xuất rồi, cho nên Sư cô Chân Không đã làm một bài hát về Hội Thủy tiênBài hát Sư cô làm, vừa nhạc vừa lời, rất là ngộ nghĩnh. Thường vào tháng ba, Làng Mai có tổ chức Hội Thủy tiênChúng ta có hai câu đối:

Qua vườn trúc Thôn Trên, xuống Pháp Thân Tạng,
Hội thủy tiên, ngàn Tiên hé cánh.
Băng đồi Mai Xóm Dưới, qua Tham vấn đường,
ngày thả cá, đàn cá tung tăng
Đó là hai buổi lễ trong năm tại Làng Mai, một ở xóm Thượng và một ở xóm Hạ. Trong bài hát, Sư cô Chân Không nói rằng những bông thủy tiên dưới đất trồi lên là những vị Bồ Tát xuất hiện để thuyết Pháp hay là để nghe kinh. Quý vị nào muốn dự Hội thủy tiên thì ở lại Làng cho tới tháng ba. Bây giờ thì mời quí vị nghe Sư cô Chân Không hát.

Qua vườn trúc Thôn Trên, xuống Pháp Thân Tạng, Hội thủy tiên ngàn Tiên hé cánh.
Băng đồi Mai Xóm Dưới, qua Tham Vấn Đường, Ngày thả cá, đàn cá tung tăng.
Từ mặt đất trồi lên, từ sỏi đá trồi lên, từ mùa Đông lạnh lẽo nhô lên, nhô lên hàng vạn rồi hàng triệu lá xanh, hàng vạn rồi hàng triệu nụ vàng, hàng vạn rồi hàng triệu cánh vàng rung rung trong nắng. 
Bồ Tát lên nghe kinh hay là Bồ Tát đang thuyết pháp? Người thuyết pháp và người nghe là một, người thuyết pháp và người nghe đồng sinh
Bởi vì có các bạn đó, nên có chúng tôi đây. Bạn và tôi hiện hữu nhiệm mầu. Tôi và bạn, những đức Bụt hôm nay. 
Biết rằng ngày mai tôi sẽ ra đi cho nên bạn trân quí tôi, bởi vì ngày mai ai rồi cũng sẽ ra đi, cho nên ta trân quí từng sự sống. 
Bụt bảo các vị Bồ Tát và tất cả đại chúng rằng: Này quí vị, quí vị phải tin và hiểu lời nói chắc thật của Như Lai, khi nói như vậy tức là tôi đã nói sự thật, và quí vị nên tin. Chúng ta thấy kinh không cho chúng ta nghe lời giải thích của Bụt ngay, mà kinh ghi rằng Bụt lặp lại câu nói trên ba lần. Một đức Như Lai không bao giờ nói lời hư dối, nói lời không đúng với sự thật. Cái nhân cách của tôi đủ để đảm bảo cho điều tôi nói, dù quí vị thấy điều tôi nói không phù hợp với nhận thức của quí vị. Chi tiết này cho chúng ta thấy sự lý luận, cái khái niệm và cách nhận xét thông thường của chúng ta có thể sai lầm, vì vậy chúng ta đừng bám víu vào chúng, và căn cứ quá nhiều ở trên cái nhận thức và khái niệm của chúng ta. Mình thấy nó vô lý lắm, nhưng đó chỉ là cái thấy cạn cợt của mình mà thôi. Nếu mình có một nhận thức sâu sắc hơn, thì mình sẽ thấy khác, và vì vậy ở đây ta không thấy Bụt cắt nghĩa ngay mà Ngài chỉ dặn rằng các vị hãy tin lời nói của Như Lai.

Sau khi đã nói ba lần như vậy rồi thì Bụt mới bắt đầu cắt nghĩa. Bụt bảo: Này quí vị, đừng tưởng rằng tôi mới thành Bụt cách đây có bốn mươi năm, thực ra tôi đã thành Bụt cách đây vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức na-do-tha kiếp. Đây là một lời tuyên bố lớn, rất là quan trọng. Bụt nói tiếp: Ví như năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ (9) cõi tam thiên, đại thiên, giả sử có người nghiền làm vi trần, qua phương Đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía Đông như thế cho đến hết vi trần đó. Câu này có nghĩa là ví dụ có vô lượng vô số cõi tam thiên đại thiên thế giới mà mình dùng máy Moulinex nghiền tất cả ra thành bụi, thì mình có nhiều bụi lắm. Chỉ một trái đất nhỏ bé này mà nếu chúng ta đem nghiền nó ra thành bụi thì đã biết bao nhiêu hạt bụi rồi, ở đây ta nghiền cả tam thiên đại thiên thế giới, mà không phải chỉ nghiền một tam thiên đại thiên thế giới mà ta nghiền vô số, vô lượng, vô biên tam thiên đại thiên thế giới, thì có biết bao nhiêu là hạt bụi! Sau đó mình đi theo một phương, ví dụ như phương Đông, mỗi phương đi qua năm trăm nghìn muôn ức cõi nước, mình thả xuống một hạt bụi. Cứ làm như vậy cho đến khi mình thả hết tất các hạt bụi, thì thời gian cần tới để làm cho xong việc này cũng dài như thời gian từ khi tôi thành Bụt đến nay.

Trang 386, đoạn 3: Này các Thiện nam tử, nay ta sẽ tuyên nói rành rẽ cho các vị nghe, các thế giới đó hoặc là có dính vi trần, hoặc là chẳng dính vi trần đều nghiền cả làm vi trần, cứ một vi trần là một kiếp, từ khi tôi thành Bụt cho đến bây giờ thì thời gian lâu hơn số đó trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng kỳ kiếp. Từ đó cho tới nay tôi thường ở cõi ta bà này thuyết pháp, giáo hóa, nhưng đồng thời ở trong trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng kỳ cõi nước khác tôi cũng thuyết pháp để dắt dẫn lợi ích cho chúng sanhVăn chương có hơi lủng củng, nhưng ý chính là: Từ vô lượng kiếp, tôi đã giảng dạy tại cõi ta bà này, và từ vô lượng kiếp, hóa thân của tôi ở khắp nơi cũng đang giảng dạy ở các cõi khác. Như vậy thì chúng ta thấy rằng sự có mặt của Bụt không phải chỉ đứng về phương diện thời gian mà nói, mà còn đứng về phương diện không gian mà nói nữa, và cả hai chiều đều nhiều vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn như nhau.

Trong phẩm Hiện Bảo Tháp chúng ta đã thấy Bụt Thích Ca có muôn triệu hóa thân đang thuyết pháp, đang hành đạo ở các thế giới khác, nghĩa là chúng ta đã thấy sự có mặt của Bụt ở trong không gian vô biên. Trong phẩm này, ta thấy rằng Bụt Thích Ca không phải chỉ có mặt trong thời gian 40 năm tại nước Ấn độ, mà đã có mặt trong vô lượng vô biên a-tăng kỳ kiếp. Như vậy, ta phải nói về sự có mặt của Bụt trong thời gian vô cùngkhông gian vô biên thì mới đúng. Chữ thọ lượng chỉ nói được về thời gian, nhưng không diễn tả được ý niệm về không gian. Trong khi đó thì nội dung của phẩm này là cho biết Bụt hiện diện ở trong thời gian vô tận và trong không gian vô cùngVì vậy chúng ta đừng nghĩ rằng Bụt chỉ xuất hiện 2500 năm trước đây và đã nhập diệt mất rồi, Ngài không còn tại thế với ta nữa!

Trong các kinh Đại Thừa khác, chúng ta đã nghe nói tới tính cách bất sinh bất diệt, không tới không đi. Khi một người quán chiếu và nắm được tự tánh bất sinh bất diệt, không tới không đi đó, thì ta gọi người đó chứng được quả Vô sanh. Nhưng thường thường chúng ta chỉ được nghe những danh từ đó như là những khái niệm. Đây là lần đầu tiên chúng ta được thấy ý niệm đó qua những hình ảnh trong bức tranh Hội Liên Trì

Trên bình diện bản chất thì Thích Ca Mâu Ni không sanh cũng không diệt, không tới cũng không đi. Kinh Kim Cương định nghĩa rằng, Như Lai là không từ đâu tới hết và sẽ không đi về đâu hết. Chúng ta thấy những tư tưởng này có sẵn trong những kinh khác, nhưng giờ đây ta thấy những điều đó bằng hình ảnh, và sở dĩ kinh Pháp Hoa hay là hay ở chỗ đó, dùng hình ảnh thi ca để nói lên những ý tưởngtính cách trừu tượngchúng ta đã thấy trong những kinh khác. Trong kinh Kim Cương mình cũng đã thấy những câu rất hay, ví dụ như: Nếu muốn nhận diện ta qua hình ảnh, muốn nhận diện ta qua âm thanh thì người đó đi trên con đường tà và không bao giờ nhận diện được ta, không thể thấy được khuôn mặt đích thực của ta. Đó cũng là cùng một ý mà thôi, nhưng ở đây chúng ta thấy dễ hiểu, dễ nắm hơn rất nhiều, tại vì những hình ảnh được dựng ra, và khi thấy vô số hóa thân của Bụt Thích Ca, chúng ta thấy được Bụt Thích Ca không phải chỉ xuất hiệnthành đạo lúc 35 tuổi.

Cuối trang 386, chúng ta đọc được một câu nói của Bụt về ý niệm thị hiện: Này các thiện nam tử, nếu có chúng sanh nào đến với ta, ta dùng Phật Nhãn quan sát các căn lợi hay mê mờ của họ, rồi dùng trí phương tiện mà nói Pháp vi diệu để giáo hóa chúng sanh. Này các thiện nam tử, Như Lai thấy chúng sanh ưa chuộng pháp Tiểu Thừa, nên ta đã dùng phương tiện sinh ra, tu học, thành đạo, thuyết pháp, nhập diệt, để giáo hóa và chỉ bày cho họ đi vào Phật đạo, chứ thật ra, ta đã thành Phật từ lâu.

Bụt Nhiên Đăng cùng vô lượng vô số các vị Bụt khác cũng đã từng xuất hiệnnhập Niết Bàn, và tất cả đều sử dụng cùng một phương tiện để hành đạo mà thôi. Với các Bụt khác, người ta cũng thấy có thời gian xuất hiện, thời gian tu học, thời gian thuyết phápthời gian nhập Niết Bàn. Tất cả những hóa hiện ấy đều là phương tiện.

Chúng ta có danh từ thị hiện. Thị hiện có nghĩa là bày ra cho người ta thấy như vậy, đưa ra những hình ảnh để cho người khác thấy như vậy, cho nên Bụt Đản sanh không phải là thực sự đản sanh mà là thị hiện đản sanh; Bụt nhập diệt (đi vào Niết Bàn) thì thực sự cũng không là nhập diệt gì cả, mà chỉ là thị hiện nhập diệt. Tất cả các vị Bụt ra đời, thuyết phápđộ sanh đều đã làm giống hệt như tôi đang làm vậy.

Chúng ta còn có danh từ Bát tướng thành đạo, nghĩa là Tám tướng trạng thành Đạo. Mỗi đức Thế tôn từ khi giáng sanh cho đến khi nhập diệt, hoàn thành việc giáo hóa độ sanh, đều thị hiện đủ tám tướng trạng. Tám tướng trạng của Bụt Thích Ca là: Có nhập thai; có sanh ra; có thấy cảnh khổ; có xuất gia; có tu học; có thành đạo; có thuyết pháp; và có nhập diệt, Vị Bụt nào cũng thị hiện đủ tám tướng trạng cả, tuy nhiên ta nên tập thấy những việc đó chỉ là thị hiện mà thôi. Chúng ta chưa tìm được tiếng Anh để dịch chữ thị hiện. Thành ra đản sanh hay nhập diệt chỉ là thị hiện đản sanh hay thị hiện nhập diệt, kỳ thực thì không bao giờ sanh, cũng chẳng bao giờ diệt là bản chất của Bụt. Tuy vậy, cái bản chất bất sanh bất diệt không phải chỉ có Bụt mới có, nếu chúng ta quán chiếu vạn pháp, từ hạt sỏi cho đến giọt sương, ngọn lá, đám mây, quán chiếu tự tánh vô thường, vô ngãduyên sinh của tất cả những hiện tượng đó, và ta đi sâu vào được cái bản chất của các hiện tượng đó, thì ta cũng tìm được tính chất bất sanh bất diệt của chúng, giống hệt bản chất của Như Lai vậy. Vậy thì chiếc lá mùa thuchúng ta đã gặp, đã ngắm cũng đã thị hiện đản sanh và thị hiện Niết Bàn, nó không sanh mà nó cũng không diệt. Mùa Xuân ta thấy như nó có sanh ra, và mùa Thu ta thấy như nó có rơi xuống. Đứng về phương diện hiện tượng, mình thấy chiếc lá có sanh có diệt, nhưng đứng về phương diện bản thể thì chiếc lá chỉ giả vờ sinh ra và giả vờ rơi xuống. Ta rơi lệ khi thấy chiếc lá rụng là vì ta vô minh, ta mê mờ, không thấy được cái tính chất bất sanh bất diệt của chiếc lá mà thôi.

Chúng ta hãy đọc đoạn thứ tư ở trang 387: Này các vị thiện nam tử, những kinh điển của các đức Như Lai nói ra đều nhắm tới mục đích độ thoát chúng sanh, có khi thì nói tới thân mình, có khi thì nói tới thân người, hoặc chỉ nói thân mình hoặc thân người thôi, hoặc nói việc của mình hoặc việc của người, tất cả những lời nói đó, những phân biệt đó đều thật ra là đúng chứ không phải là nói dối. Vì sao vậy, vì các đức Như Lai thấy được cái tướng trạng của tam giới một cách đích thực và trong cái thấy đó không có sanh, không có tử, không có tới không có lui, không sanh ra ở đời, và không có diệt độ đi, không có thật, không phải giả, không phải một cũng không phải khác, không phải là ba cõi mà thấy có ba cõi. Đây là Bụt nói về thực tướng của tam giới, cũng giống như thực tướng của Như Lai. Những ý niệm sanh diệt, tới đi, có không v.v... đều là những ý niệm trong đầu của chúng ta mà không phải đích thực những thuộc tính của vạn hữu.

Đến đoạn cuối ở trang 388 chúng ta thấy: Này các thiện nam tử, ngày xưa ta tu hành theo đạo Bồ Tát, cảm thành thọ mệnh, nay vẫn còn chưa hết, lại còn hơn số trên, nhưng nay chẳng phải thực diệt độ, mà bèn xướng nói sẽ diệt độ. Có nghĩa là ngày xưa khi tu tập hạnh Bồ Tát thì ta đã tiếp xúc được với thọ mệnh của ta, và ta thấy cái thọ mệnh đó dài vô lượng vô biên. Bây giờ ta nói tới việc ta sẽ diệt độ trong mấy năm nữa, kỳ thực là ta chỉ nói vậy thôi. Ta không diệt độ mà phải nói là ta sẽ diệt độ, vì tâm của chúng sanh là tâm dễ ngươi, vì vậy nếu ta nói ta sẽ ở trên đời này lâu dài thì chúng sanh sẽ không chịu tu hành gì cả, vì họ sẽ ỷ lại vào sự có mặt của Như Lai. Cho nên những câu nói như: Này các vị khất sĩ, quí vị nên biết rằng cái sự kiện một đức Bụt ra đời là một cơ hội rất lớn, khó gặp, thì đó chỉ là một cách nói thôi, thật ra thì Bụt lúc nào cũng có mặt ở đời cả, và tùy vào cách nhìn, cách nghe, cách tiếp xúc của chúng ta, mà chúng ta có thể tiếp xúc với Bụt hay không mà thôi.
Nói xong Bụt liền đưa ra một ví dụ mà người chép kinh đã ghi lại ở đoạn 5, trang 390: Có một ông thầy thuốc rất tài ba, rất sáng suốt, có thể luyện được vô lượng vô số các phương thuốc để có thể trị được vô lượng vô số các bệnh tật. Ông ta có rất nhiều con, 100, 200, 300 hay có thể cả ngàn người con. Một hôm vì công việc, ông phải đi sang một nước khác. Trong khi ông vắng nhà, những người con của ông vì ăn uống không chánh niệm nên phạm vào chất độc, đau đớn, phát điên, nằm lăn lộn trên đất. Lúc người cha trở về, thấy cảnh tượng đó bèn chế tạo ra một số thuốc để chữa trị cho các con. Có một số các đứa con nhờ bị bệnh nhẹ, tâm thần chưa đến nỗi hỗn loạn nên vẫn nhận ra được cha, tin vào cha mà uống những phương thuốc của cha, nên lần lần lấy lại được sức khỏe và sự an lạc của mình, đồng thời tìm lại được cái trạng thái bình thường của thân tâm mình. Một số những người con khác, tuy biết cha về, vui mừng vì thấy cha đi lâu đã về, nhưng vì ỷ lại nên không chịu uống thuốc. Họ nói rằng có cha ở đó, lúc nào mình uống thuốc lại không được! Thôi để tuần sau mình uống cũng đâu có muộn. Trong cái tình trạng ỷ lại đó, người cha không biết phải làm sao. Con của mình nghĩ là mình sẽ ở với chúng đời đời thì tại sao chúng lại phải gấp gáp uống thuốc và rửa ruột như vậy, cho nên ông rất buồn. Ngày nào ông cũng dỗ dành, các con ơi, các con gắng uống thuốc đi, cho đến độ chúng ghét luôn cả cha. Vì vậy mà ông đã thị hiện ra đi và nhờ người bắn tin về cho các con hay là cha của họ đã chết. Lúc nhận được tin cha mình chết, những người con đã từ chối uống thuốc, bắt đầu khóc than và mới chịu uống thuốc. Vì vậy cho nên dù thọ mạng của Thế Tônvô lượng vô biên, Thế Tôn là không sanh không diệt, nhưng Thế Tôn phải thị hiện Niết Bàn để cho chúng sanh biết lo uống những phương thuốc thần, biết lo tinh cần tu tập. Đó là một ví dụ rất hay của phẩm Như Lai thọ lượng.

Ba phẩm mà chúng ta vừa học, tức là phẩm Hiện bảo tháp, phẩm Tùng địa dũng xuất, và phẩm Như Lai thọ lượng đều thuộc về phạm vi của Bản môn. Bụt đưa chúng ta vào thế giới của bất sanh bất diệt, một thế giới vượt ra khỏi thời giankhông gian, thế giới không tới không đi, không sanh không diệt. Và sự tu học của mình nếu không giúp cho mình tiếp xúc được, sờ mó được thế giới của Bản môn, thì đó là một sự bất hạnh cho mình, tại vì những người ngoài đời, họ lo lắng, cực nhọc về chuyện làm ăn, trông nuôi con cái, không có thì giờ dừng lại để nhìn trăng, nhìn sao, thì đã là tội nghiệp cho họ rồi. Còn chúng ta tu hànhtrong đời sống hàng ngày, chúng ta cũng không có cơ hội để tiếp xúc được với thế giới của Bản môn, mà chỉ biết đau khổ, thao thức trong vòng có sanh có diệt, có tới có lui, thì đó là một điều rất uổng phí cho những người tu.

Công chuyện ở ngoài đời là làm công việc có liên quan đến trần ai tục lụy. Vào chùa chúng ta cũng làm vườn, nấu cơm, rửa nồi, tiếp khách v.v... Đó cũng là một loại công việc, nhưng trong cuộc đời tu hành thì trong khi làm những việc đó, ta phải dùng chánh niệmtiếp xúc được với Bản môn. Dẫm lên những ngọn lá vàng khô trong khi đi thiền hành, là một cơ hội để thấy được cái tính chất không tới không lui của lá vàng, và thấy được cái bản chất đó của lá vàng rồi, thì ta cũng có thể tiếp xúc với con người của ta để thấy tự tánh của ta cũng giống như tự tánh của chiếc lá vàng đó, nghĩa là bản thân ta cũng không đến không đi, cũng vô sanh bất diệt, ta cùng chiếc lá vàng kia, tất cả đều tham dự vào cái thọ lượng của Bụt. Chỉ khi tiếp xúc được với thực thể của vạn pháp, động chạm được đến Bản môn, thì chúng ta mới được hưởng cái tuệ giác đó mà thôi. Không làm được chuyện đó thì uổng phí cuộc đời tu tập của chúng ta quá. Phương pháp tu học chánh niệm là để chúng ta có thể tiếp xúc được với Bản môn. Khi có chánh niệm chúng ta tiếp xúc được với thế giới hiện tượng một cách sâu sắc hơn là khi không có chánh niệm. Lúc đó, Bản môn có thể bắt đầu lộ diện, đã đến gần chúng ta hơn, và chúng ta bắt đầu thấy được cái mầu nhiệm của thế giới sinh diệt. Khi chánh niệm của ta vững hơn thì ta sẽ tới gần thế giới Bản môn hơn, và có thể tiếp xúc với nó sâu sắc hơn.

Khi thở trong chánh niệm thì ta tiếp xúc được với hơi thởHơi thở ấy đã khác với hơi thở không chánh niệm rất nhiều. Hơi thở ấy bắt đầu biểu hiện tự thân của nó để cho chúng ta tiếp xúc sâu sắc hơn. Chúng ta thấy rõ hơn cái hơi thở của chúng ta, tại vì nhờ có chánh niệmmọi vật hiện rõ ra thêm, cũng như chiếc lá vàng kia nhờ có chánh niệm mà ta có thể thấy rõ tự thân của nó. Mức biểu hiện của chiếc lá tùy thuộc vào mức chánh niệm của chúng taChánh niệm của chúng ta càng vững, thì chiếc lá hay là hơi thở ấy, càng tự biểu hiện rõ hơn cho chúng ta thấy. Bản môn cũng vậy, Bản môn hiện ra một cách mù mờ hay rõ rệt là tùy theo trình độ chánh niệm của chúng ta. Có lúc chánh niệm chỉ đến với chúng ta trong một giây phút thôi rồi đi mất, có khi chánh niệm ở lại với ta đến hai, ba phút đồng hồ. Ví dụ khi ta đứng nhìn một đám mây trong chánh niệmduy trì được chánh niệm trong vòng ba phút thì ta có thể tiếp xúc được với đám mây đó trong vòng ba phút. Trong thời gian ba phút đó chúng ta có định, có tam muội (SamẠdhi). Người tu hành vững chãi là người giữ ngọn đèn tam muội trong người của mình cháy sáng đều đều, không để cho ngọn đèn tam muội của mình tắt đi. Khi vào nhà bếp, về liêu xá, vào cầu tiêu, ra quét sân, trong tất cả những thời gian đó, ngọn lửa tam muội trong người của mình phải giữ cho sáng tỏ.

Có nhiều loại tam muội, một loại gọi là Pháp Hoa tam muội, tức là cái ý thức, cái chánh niệm rằng mình có Phật tánh, mình có thể sẽ thành Bụt, và trong Bản môn mình có thể đã thành Bụt. Khi đi tới đi lui, làm việc này, làm việc khác mà cái thấy của kinh Pháp Hoa vẫn sống trong con người của mình, thì lúc đó mình có Pháp Hoa tam muộiPháp Hoa tam muội không phải chỉ thực hiện được ở trong tư thế ngồi thiền, mà trong mọi sinh hoạt của đời sống hàng ngày mình cũng có thể làm cho ngọn lửa của Pháp Hoa tam muội cháy sáng. Một loại tam muội khác là Vô thường tam muội. Khi làm công việc hàng ngày mà mình thấy được tính cách vô thường của vạn vật, trong đó có cả hơi thởhình hài của mình, thì lúc đó mình đang có tam muội Vô thường soi sángTam muội Vô ngã là trong khi đi đứng nằm ngồi, làm việc, nghỉ ngơi, mình đều thấy được cái sự thực về vô ngã, lúc đó là lúc tuệ giác Vô ngã tam muội đang hướng dẫn mình trong đời sống hàng ngày. Vì vậy đừng nghĩ rằng tam muội chỉ là một trạng thái của tâm khi mình đang ngồi thiền. Có một loại tam muội gọi là Lăng nghiêm tam muội, trong đó thế đi của mình rất hùng dũng. Một loại khác gọi là Ban châu tam muội, trong ấy mọi động tác đi đứng nằm ngồi đều được đặt trong sự có mặt của Bụt. Ta có danh từ niệm Phật Tam muội, nghĩa là trong cuộc sống hàng ngày, lúc nào chúng ta cũng thấy Bụt trước mặt mình, một phép thiền tập vô cùng hữu hiệu để duy trì chánh niệm.

Tam muội giúp ta tiếp xúc được với Bản môn, và khi thấy những người bạn tu của mình ung dung tự tại, biết cách đi đứng nằm ngồi để nuôi dưỡng tam muội trong lòng của họ, thì ta cũng được nhắc nhở, và ta có thể đốt lại ngọn lửa tam muội đã tắt ngấm vì những giận hờn, buồn lo, bực bội của ta. Một người bạn tu vững chãi là một thiện tri thức lớn cho mình, và trong số năm mươi người, thế nào cũng có những người làm gương được cho mình. Ngược lại mình cũng phải làm gương cho những người khác, bằng nếp sống tỉnh thứcchánh niệm của mình.

Khi tôi đọc lại chương Như Lai Thọ Lượng thì hình ảnh chiếc lá mùa Thu hiện đến rất rõ, và tôi thấy chiếc lá mùa Thu kia cũng thị hiện đản sanh, và cũng thị hiện Niết BànĐi thiền hànhtiếp xúc được với chiếc lá sâu sắc như vậy thì mình thấy được thọ lượng của chiếc lá, và thấy được thọ lượng của lá thì thế nào cũng thấy được thọ lượng của Bụt, và thấy rằng mình cũng đang tham dự vào cái thọ lượng ấy. Như vậy là mình đã thực tập theo kinh Pháp Hoa, chứ không phải cứ ngồi tụng kinh Pháp Hoa thì mới gọi là hành kinh Pháp Hoa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32607)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11095)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30232)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30313)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7884)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12038)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11496)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12588)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34456)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9723)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52118)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10627)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10386)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9520)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12528)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16396)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11962)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14229)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16128)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16107)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11950)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11407)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12516)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14384)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14231)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20154)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17467)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11908)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant