Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

24. Phẩm Thứ Hai Mươi Bốn: Diệu Âm Bồ Tát

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11920)
24. Phẩm Thứ Hai Mươi Bốn: Diệu Âm Bồ Tát

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Hai Mươi Bốn: Diệu Âm Bồ Tát

Diệu Âm có nghĩa là âm thanh vi diệu, âm thanh mầu nhiệm. Đây là vị Bồ Tát thứ ba được trình bày trong Hạnh môn. Vị Bồ Tát thứ nhất là Bồ Tát Thường Bất Khinh, vị thứ hai là Bồ Tát Dược VươngBồ Tát Thường Bất Khinh hành trì như một vị Đại sứ của Pháp Hoa, đem một thông điệp duy nhất tới cho mọi loài: Tất cả chúng sanh đều có khả năng tính giác ngộ. Bồ Tát Dược Vương tuy đi một con đường khác nhưng vẫn tiếp nối con đường của Bồ Tát Thường Bất Khinh. Con đường của Bồ Tát Dược Vươngcon đường của tín nguyện, của ân nghĩa. Cái tình nghĩa của Bồ Tát Dược Vương đối với thầy của mình được biểu lộ một cách rất thắm thiết, rõ rệt trong phẩm thứ 23. Tuy nói rằng Bồ Tát Dược Vương đại diện cho con đường của ân nghĩa, của tín nguyện, nhưng đứng về phương diện thực tập thì Bồ Tát Dược Vương đã thực hiện được nhiều công trình lớn lao, tiếp nối được sự nghiệp của Bồ Tát Thường Bất Khinh.

Trước hết, Bồ Tát Dược Vương thực hiện được một tam muội gọi là Hiện Nhất Thiết Sắc Thân, có khả năng thấy mình trong nhiều sắc thân khác nhau, và do đó mình không bị kẹt vào một trong những sắc thân. Kế đến, Bồ Tát thực hiện được một tam muội khác gọi là Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn Đà La Ni, có khả năng hiểu được ngôn ngữ của tất cả mọi loài chúng sanhChúng sanh có nhiều loài và mỗi loài dùng một ngôn ngữ khác nhau, nhưng vì đã thực tập hạnh hiểu biết và lắng nghe, cho nên mình hiểu được ngôn ngữ của từng người, từng loài. Điều này rất là quan trọng.

Sống trong một môi trường xã hội khác, sống trong một môi trường gia đình khác, sống trong một môi trường kinh tế khác, cách diễn tả của mình cũng khác. Vì vậy người có nhận thức sâu sắc về tâm tư của kẻ khác, thì có khả năng hiểu được những ngữ ngôn khác nhau của những con người khác nhau. Vì vậy mà họ không bị kẹt vào hình thức của ngữ ngôn, và họ tiếp nhận được điều mà người kia muốn nói, dầu người kia nói một cách vụng về, nói bằng những danh từ, những ý niệm, những hình ảnh thui chột, thiếu từ hòa. Chúng ta sẽ thấy rằng các vị Bồ Tát trong kinh Pháp Hoa nối tiếp nhau trong việc thực hiện Hạnh môn. Ở Bồ Tát Dược Vương chúng ta thấy có sự tiếp nối của Bồ Tát Thường Bất Khinh. Hôm nay học về Bồ Tát Diệu Âm (Gadgadasvara Bodhisattva), chúng ta sẽ thấy ở Bồ Tát Diệu Âm có sự tiếp nối của Bồ Tát Dược VươngCon đường của ân nghĩa, của tình nghĩa nơi Bồ Tát Dược Vương cũng có thể thấy được ở Bồ Tát Diệu ÂmBồ Tát Diệu Âm cũng đã thực hiện được cái tam muội gọi là Hiện Nhất Thiết Sắc Thân, và Ngài còn đi xa hơn Bồ Tát Dược Vương nữa, nghĩa là Bồ Tát Diệu Âmthể hiện ra rất là nhiều sắc thân để độ đời, và trong Phẩm thứ 24 này thì có một lần Bồ Tát Diệu Âm hiện ra làm vô số hoa sen.
Khoảng giữa trang 495, chúng ta thấy Bồ Tát Diệu Âm cũng thực hiện được tam muội Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn, an trú trong một chánh niệm (tam muội ở đây có nghĩa là chánh niệm) giúp cho Bồ Tát hiểu được những cách nói năng khác nhau của nhiều chúng sanh, để Bồ Tát có thể hiểu được tâm trạng của các chúng sanh đó. Ngữ ngôn ở đây không hẳn là tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Việt, mà ngữ ngôn ở đây là cách diễn tả của mỗi người về cái thao thức, cái khổ đau, cái ước mơ của họ. Vì vậy cho nên chúng ta có thể nói rằng Bồ Tát Diệu Âm tiếp nối con đường của Bồ Tát Dược Vương và Ngài còn đi xa hơn. Nhưng địa bàn hoạt động của Bồ Tát Diệu Âm không phải là cõi ta bà này, Bồ Tát Diệu Âm tới từ một cõi khác. Nghe danh tiếng của Bụt Thích Ca Mâu Ni, cho nên Bồ Tát đã tìm tới để học hỏi, để đảnh lễ, nhưng xuất xứ của Ngài không phải là cõi ta bà, Ngài là một vị khách. Sự có mặt của Bồ Tát Quán Thế Âm mà mình sẽ thấy trong Phẩm Phổ Môn, phẩm thứ 25, thì không giống như vậy, Ngài là người xuất hiệncõi ta bàcõi ta bà là địa bàn hoạt động của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Trang 501 chúng ta thấy rằng ngày xưa, khi Bụt Vân Lôi Âm Vương xuất hiện thì Bồ Tát Diệu Âm đã sử dụng âm nhạc để cúng dường, và có lẽ cũng vì sự kiện đó mà tên của Bồ Tát được gọi là Diệu Âm, tức là âm thanh vi diệuBồ Tát Diệu Âm đã dùng nhiều loại âm nhạc khác nhau để cúng dường Bụt Vân Lôi Âm Vương trong vòng một vạn hai ngàn năm, và đồng thời cũng dâng lên cúng dường 84 ngàn cái bát ăn cơm làm bằng châu báuÂm thanh cũng là một trong những phương tiện để hành đạo. Nhà họa sĩ có thể cúng dường Tam Bảo những màu sắc và nét bút của mình. Nhà kiến trúc có thể cúng dường Tam Bảo những tác phẩm kiến trúc của mình, như là xây tháp, dựng chùa. Nhà thi sĩ có thể cúng dường bằng những vần thơ, những hình ảnh thi ca của mình. Ở đây, Bồ Tát Diệu Âm là một nhạc sư, đã dùng âm thanh vi diệu để cúng dường Bụt, và cố nhiên những bản nhạc cúng dường không phải là những bản nhạc khóc gió, than mây, sầu đau muôn kiếp, mà là những bản nhạc biểu lộ cái giải thoát, cái an lạc của mình.

Ngày xưa khi ca sĩ Hà Thanh cùng đi với chúng tôi trong chuyến hành hương Ấn Độ, tôi có đặt pháp danh cho cô là Ca-Lăng-tần-già (Kalavinka), tên của một con chim hót ở cõi tịnh độ. Khi chọn một pháp danh cho ai, mình phải nghĩ tới khả năng, và hạnh nguyện của người đó. Nếu suốt đời mình ca hát như một con chim Ca-Lăng-Tần-Già để diễn bày diệu âm, nói lên sự giải thoát, sự giác ngộ để cúng dường chư Bụt mười phương, thì đó cũng là một hạnh nguyện, đó cũng là cùng đi một con đường với Bồ Tát Diệu Âm. Thành ra sáng tác những bài nhạc không sầu đau, không nặng nề, có tính cách giải thoát, có tính cách nuôi dưỡng đức tin, đó cũng là cúng dường Bụt, và cúng dường cả những vị Bụt tương lai nữa, tại vì khi hát lên, người nghe cảm thấy tâm hồn mình nhẹ nhàng, giải thoát. Và như vậy là ta nối tiếp con đường của Bồ Tát Diệu Âm. Nhưng âm nhạc của Bồ Tát Diệu Âm được căn cứ trên cái trí tuệ, trên cái tam muội của Ngài. Trí tuệ đó là khả năng hiểu được lòng người, hiểu được tiếng người, vì vậyâm nhạc ấy có thể đi thẳng vào lòng người nghe, và chuyển hóa được người nghe. Bồ Tát Diệu Âm đã báo hiệu cho sự có mặt của Bồ Tát Quán ÂmBồ Tát Diệu Âm cũng có khả năng thị hiện ra những sắc thân khác nhau để có thể cứu độ mọi loài. Và cái khả năng biến hiện ra nhiều sắc thân để cứu độ chúng sanh, được căn cứ trên một tam muội gọi là tam muội Hiện Nhất Thiết Sắc Thân.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14729)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11802)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12741)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10317)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12041)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15260)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11050)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10491)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12446)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16409)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14281)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11753)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14773)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16795)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11552)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12714)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11324)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12034)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52058)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15445)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13950)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11415)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13145)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12758)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13195)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17883)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12428)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12633)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54179)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14409)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9909)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13808)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57924)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14472)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20111)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13754)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15380)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17476)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13298)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11904)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13472)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14640)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12464)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12143)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12049)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13269)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12520)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13652)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13308)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25548)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12167)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14520)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11828)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42040)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28292)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38766)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14706)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12683)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16231)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant