Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần III: Tổng quan

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11856)
Phần III: Tổng quan

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần III: Tổng quan 

Kết Thúc

Đây là lúc chúng ta nên nói vài câu để ôn lại và kết thúc khóa học kinh Pháp Hoa.

Sở dĩ trong khi học kinh Pháp Hoa chúng ta đã có được những giờ phút an lạc, vui mừng, một phần đó cũng là nhờ chúng ta đã học qua những kinh khác. Nếu chỉ đọc riêng kinh Pháp Hoa, chưa chắc chúng ta đã thấy được cái giá trị của kinh Pháp HoaVì vậy vị nào chưa được học những kinh đi trước kinh Pháp Hoa, thì hãy nên học những kinh đó. Sau khi học những kinh như Bảo tích, Bát Nhã, Hoa Nghiêm, và Duy Ma, thì quí vị sẽ thấy được cái địa vị của kinh Pháp Hoa trong khu vườn lộng lẫy của các tác phẩm Đại Thừa.

Chúng ta đã nghe và hiểu tại sao kinh Pháp Hoa được gọi là Vua của tất cả các kinh.
Đứng về phương diện luận lý thì kinh Pháp Hoa không có những nét đanh thép và hùng biện như kinh Duy Ma. Nhưng đứng về phương diện nghệ thuật thì kinh Pháp Hoa vượt hẳn kinh Duy Ma. Những nghệ thuật sắp đặt các màn, các cảnh của kinh Duy Ma, kinh Pháp Hoa thừa hưởng được hết, và còn đi xa hơn vậy nữa. Những hình ảnh được trình bày trong kinh Pháp Hoa rất giàu có, và tất cả những tư tưởng uyên áo, đặc thù của kinh Pháp Hoa đều đựợc trình bày qua hình ảnh, qua các bức tranh. Đó là một điểm rất đặc thù.

Kinh Pháp Hoa còn có tính cách thực tiễn, thỏa mãn được nhu cầu của quảng đại quần chúng, vì vậy mà giới nào cũng có thể hành trì, không phải chỉ dành cho giới trí thức. Chỉ một Phẩm Phổ Môn là đủ cho chúng ta thấy được điều đó. Giới bình dân cũng có thể hành trì được kinh Phổ Môn, và giới trí thức thượng thặng cũng hành trì được kinh Phổ Môn. Đó là một điều đặc sắc khác của kinh Pháp Hoa.

Kinh Pháp Hoa lại có một ngôn từ rất hòa nhã. Kinh có tư cách của một người cha hiền, của một bà mẹ từ bi, mở hai vòng tay lớn để ôm tất cả các con vào lòng, không phân biệt đứa này là con ruột, đứa kia là con nuôi, đứa này là thông minh, và đứa kia ít thông minh hơn. Tới với kinh Pháp Hoa cũng như trở về ngôi nhà của cha mẹ, tuy không nhiều lời nhưng ta thấy hết được tất cả những ấm cúng, những cánh cửa rộng mở, và hai cánh tay từ hòa, tiếp đón nồng hậu của một bà mẹ, của một ông cha.
Kinh Pháp Hoa phải đợi đến mấy trăm năm mới xuất hiện, và là một bông hoa tuyệt vời trong vườn kinh điển của đạo Bụt Đại Thừa.

Đã có những tông phái đạo Bụt chịu ảnh hưởng sâu đậm của kinh Pháp Hoa, và thay vì thực tập phương pháp niệm Bụt, họ đã can đảm chế tác ra phương pháp niệm Pháp, Nam mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, thay vì Nam mô Bồ Tát Quán Thế Âm hay Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni. Điều đó cho chúng ta thấy người khởi xướng là một người can đảm. Người ấy chỉ rõ cho ta thấy rằng Pháp do Bụt mà có, trong Pháp có Bụt, vì vậyniệm Pháp cũng có công đứchiệu năng giống như niệm Bụt.

Khi tụng đọc Phẩm Phổ Môn chúng ta thấy rằng phương pháp niệm Bụt trong kinh Pháp Hoa là một phương pháp rất mầu nhiệm và quan trọng. Cúng dường Pháp tức là cúng dường Bụt, và cúng dường Bụt tức là cúng dường Pháp. Con người có thể thiết lập được sự thông cảm với một con người khác dễ dàng hơn, cho nên liên hệ của mình đối với Pháp không thể nào dễ dàng như liên hệ của mình đối với Bụt. Vì vậyphương pháp niệm Bụt dầu sao cũng dễ thành công hơn phương pháp niệm PhápNam mô đức Bồ Tát Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm, Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền, Nam mô đức Bồ Tát Diệu Âm, Nam mô đức Bồ Tát Dược Vương, Nam mô đức Bồ Tát Thường Bất Khinh v.v... niệm như thế thấy quen thuộc với chúng ta hơn. Đó là những hình tượng của các vị Bồ Tát xuất hiện trong Hạnh môn, và khi niệm danh hiệu các Ngài, chúng ta thấy mình thâu nhiếp dễ dàng được tinh lực của các Ngài.
Chúng ta cũng thấy rằng kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Bụt, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừaTam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu. Cái chủ đích quan trọng nhất của chư Bụt là hướng dẫn chúng sanh đi vào con đường Phật thừa, tức là con đường Khai, Thị, Ngộ, Nhập cái tri kiến của Bụt. Vì vậy mà triết lý này được gọi là Khai tam hiển nhất, hay là Hội tam quy nhất, nghĩa là gom cả ba cái lại để đưa về một cái. Điều đó làm cho kinh Pháp Hoa trở thành Diệu Pháp.

Vun bón một chồi non cúng dường Cây Đại Thụ

Trong khóa này chúng ta cũng đã học kinh Pháp Hoa bằng con mắt của những nhà nghiên cứu.

Một trong những điều mà chúng ta đã thực hiện được trong khóa học này là chúng ta đã nhìn thấy bình diện Hạnh môn trong kinh Pháp HoaChúng ta được tiếp xúc với các vị Bồ Tát như Thường Bất Khinh, Dược Vương, Dược Thượng, Diệu ÂmQuán Thế Âm. Các vị Bồ Tát này đích thực là những vị Bụt, nhưng họ đang đóng vai Bồ Tát, nghĩa là họ xuất hiện từ Bản môn, hành đạo trong Tích môn, và mở ra một cánh cửa gọi là Hạnh môn để nối pháp giới Bản môn với thế giới Tích môn, hầu hướng dẫn chúng sanh phương cách tu tập con đường Phật thừa.

Trong khi học Pháp Hoa, chúng ta đã thấy rằng mình có thể sắp đặt lại đôi chút để cho kinh Pháp Hoa trở nên một viên ngọc toàn bích. Sau này các thế hệ học giả tương lai sẽ tiếp tục nghiên cứu kinh Pháp Hoa bằng con mắt của nhà nghiên cứu lịch sử, vì vậy việc làm của chúng ta sẽ không làm cho ai ngạc nhiên, tại vì chúng ta cũng đã bắt đầu học kinh Pháp Hoa với con mắt của nhà sử học.

Trên bình diện phân phối các phẩm trong kinh, ta biết rằng Tông Thiên ThaiNhật bản đã nghiên cứu và phân kinh Pháp Hoa ra làm hai Môn, Tích môn và Bản môn. Họ cho rằng 14 phẩm đầu thuộc về Tích môn, và 14 phẩm sau thuộc về Bản môn.

Khi đọc kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy tuy cái ý về Tích môn và Bản môn rất hay, nhưng cách phân chia như vậy chưa được ổn lắm. Lý do là đang đọc những phẩm thuộc về Bản môn, chúng ta bỗng đi sang những phẩm thấy như không có gì là Bản môn, mà như là Tích môn. Ví dụ như phẩm thứ 21, phẩm Như Lai Thần Lực, đang thuộc về Bản môn, thì tiếp đó, sang phẩm thứ 22 là phẩm Chúc Lũy, chúng ta lại trở về Tích môn. Vì vậy tuy ý hay, nhưng sự phân chia như vậy làm cho người đọc lúng túng.
Vì vậy, chúng ta nên đề nghị xếp đặt lại thứ vị các phẩm để kinh được toàn hảo. Theo tôi, chúng ta vẫn giữ nguyên văn kinh Pháp Hoa như đã được truyền thừa, nhưng nên xếp đặt lại vị trí các phẩm, đưa một số phẩm ra trước và một số phẩm về sau để cho hợp với ý niệm về Bản môn và Tích môn hơn. Khi làm vậy, chúng ta phải ghi rõ sự xếp đặt lại này, để nếu có người muốn biết cách sắp đặt thứ tự các phẩm theo truyền thống, thì họ vẫn có thể biết được.

Nhìn sâu hơn, tôi thấy chia thành hai môn như vậy là còn có khuyết điểm. Lý do thứ nhất như đã nói ở trên, không phải 14 phẩm đầu hoàn toàn diễn bày về Tích môn, và 14 phẩm sau hoàn toàn nói về Bản môn. Lý do thứ hai là mình có thể thiết lập thêm một môn thứ ba nữa gọi là Hạnh môn thì sự phân chia mới được hoàn mỹ.

Hạnh tức là hành động. Sau khi đã thấy Tích môn như vậy và Bản môn như vậy rồi, chúng ta phải cần được thấy cái phương pháp thực hiện. Cái diệu dụng của Bản môn khi được diễn tả trong Tích môn, là sự hiện hữu của một số chư vị Bồ Tát, và họ đã làm như thế nào để diễn dịch cái Bản môn ra Tích môn và đưa người ta từ Tích môn về Bản môn. Những phẩm thuộc về lĩnh vực này, ta đều có thể liệt vào môn thứ ba mà ta gọi là Hạnh môn. Đó là những phẩm nói về các vị Bồ Tát lớn, như Bồ Tát Thường Bất Khinh, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Quán Thế Âm, và Bồ Tát Phổ Hiền.
Bồ Tát Địa Tạng cũng phải được đưa vào trong Hạnh môn của kinh Pháp Hoa, vì Ngài là người có đại nguyện tìm đến những nơi đen tối nhất, u ám nhất, khổ đau nhất của cuộc đời, những nơi gọi là địa ngụcVì vậy, muốn cho kinh Pháp Hoa được hoàn mỹ, chúng ta nên thêm vào một phẩm nói về Bồ Tát Địa TạngĐồng thời cũng nên thêm vào một phẩm để trình bày về hạnh nguyện của Bồ Tát Trì Địa, chứ không để chung trong Phẩm Phổ Môn như hiện nay.

Tóm lại, nếu có đủ cơ duyên để được chép lại kinh Pháp Hoa, chúng ta sẽ thêm vào và sắp xếp lại thứ tự các phẩm như sau:

- Khai triển thêm Phẩm thứ 28, và đưa mười hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền vào. 
- Đưa Bồ Tát Trì Địa vào riêng một phẩm như một nhà hoạt động bảo hộ sinh môi, bảo tồn trái đất, 
- Thêm vào một phẩm để nói về Bồ Tát Địa Tạng như một con người nguyện dấn thân đi sâu vào những nơi ngục tù đau khổ, những địa ngục trần gian, trong đó có nhiều áp bức, bóc lột, bất công. 
- Xếp đặt lại thứ tự các phẩm để kinh được chia làm ba môn: Tích môn, Bản môn và Hạnh môn. 

Đề nghị như vậy là vì tôi nghĩ rằng kinh Pháp Hoa đã trải qua một giai đoạn hình thành kéo dài mấy trăm năm, trong đó có những phẩm mới đã được đưa vào. Kinh là một viên ngọc rất quí, và mình có bổn phận gọt giũa cho kinh trở thành toàn bích. Đó là một phần thực tập Pháp Hoa của chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22304)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16026)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15036)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18965)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14453)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18637)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14434)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13594)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13557)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11826)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13266)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13670)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13942)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13255)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15027)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16167)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11087)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16461)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11912)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17602)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12882)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13720)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16399)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13136)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12102)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12777)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12921)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12794)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14181)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14137)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16488)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12382)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14391)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11334)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11038)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13197)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13899)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13168)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13007)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13513)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12741)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10238)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13970)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10240)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13710)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16274)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11972)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12984)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11662)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12685)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10800)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11002)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10949)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11902)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12771)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11071)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12622)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11331)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant