Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển ba

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9448)
Quyển ba

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐÀ RA NI

* Bắc Lương, Sa-môn Pháp Chúng ở quận Cao Xương dịch từ Phạn ra Hán
* Sa-môn Thích Viên Đức dịch thành Việt văn

Quyển ba

Phần ba: Mộng hành

Lúc bấy giờ Phật dạy Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử: “Khi ta còn ở đời hay đã qua đời, nếu có kẻ trai lành, người gái tín nào qua đến chỗ ông, muốn cầu kinh đà-ra-ni, ông phải giáo hóa họ cầu 12 điều mộng vương. Nếu họ thấy được một trong 12 điều mộng vương ấy, ông phải giáo thọ bảy ngày hành pháp cho họ.”

Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Gì là 12 điều mộng vương? Thế nào gọi là bảy ngày hành pháp?”

Phật dạy Văn-thù-sư-lợi: “Thiện nam tử,

1/ Nếu có kẻ trai lành, người gái tín nào ở trong mộng thấy được thần thông có thể bay, lại thấy các món màn trướng, tràng phan, bảo cái theo sau mình, như vậy tức là Đản-trà-la.
2/ Nếu kẻ trai lành, người gái tín ở trong mộng thấy hình tượng, xá-lợi, tháp miếu, đại chúng Tăng nhóm tụ, như vậy tức là Cân-đề-la.
3/ Nếu kẻ trai lành, người gái tín ở trong mộng thấy quốc vương, đại thần mặc y thanh tịnh, riêng cưỡi ngựa trắng, thấy như vậy tức là Mậu-trì-la.
4/ Nếu kẻ trai lành, người gái tín ở trong mộng thấy cưỡi voi vượt qua sông lớn, thấy như vậy tức là Càn-cơ-la.
5/ Nếu kẻ trai lành, người gái tín ở trong mộng thấy cưỡi lạc đà lên núi cao, thấy như vậy tức là Đa-lâm-la.
6/ Nếu Tỳ-khưu muốn cầu pháp này, ở trong mộng thấy mình lên tòa cao chuyển Bát-nhã, thấy như vậy tức là Ba-lâm-la.
7/ Nếu trong mộng, Tỳ-khưu thấy đến ngồi dưới gốc cây, thượng đàn thọ giới Cụ túc, thấy như vậy tức là Đàn-lâm-la.
8/ Nếu trong mộng, Tỳ-khưu thấy ngồi trước hình tượng Phật, triệu thỉnh chúng Tăng, thiết lễ cúng dường, thấy như vậy tức là Thuyền-lâm-la.
9/ Nếu trong mộng, Tỳ-khưu thấy một cây hoa quả sum suê, ngồi dưới gốc cây mà nhập thiền tam-muội, thấy như vậy tức là Cùng-già-lâm-la.
10/ Nếu trong mộng mà đại vương thấy mình cầm đao kiếm dạo chơi bốn phương, thấy như vậy tức là Ca-lâm-la.
11/ Nếu có đại thần ở trong mộng mà thấy nhiều người cầm thủy bình tắm rửa cho mình, rồi thoa các phấn thơm, mặc y thanh tịnh, thấy như vậy tức là Cùng-già-lâm-la.
12/ Nếu có Thiên nhơn ở trong mộng mà thấy cưỡi xe dê đi vào chỗ nước sâu, ở trong nước đó có nhiều độc xà, thấy như vậy tức là Bà-lâm-la.

Nếu những người kể trên mộng thấy như vậy thì ông mới có thể vì họ mà nói. Thiện nam tử, nếu họ thấy được từng việc như vậy thì mới có thể vì họ mà nói bảy ngày hành pháp.”

Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Thưa đức Thế tôn, như thế nào là bảy ngày hành pháp? Làm thế nào để thọ trì? Làm thế nào để tu hành những pháp như vậy?”

Lúc ấy, đức Phật dạy Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử rằng: “Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn, ở phần đầu ban ngày đến nơi đạo tràng, nên lấy hương thoa, hương bột, Chiên-đàn, trầm thủy, huân lục, hải chử ngạn hương mà cúng dường Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni kinh. Bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát đến tại đạo tràng. Hai vị đại sĩ sẽ dị khẩu đồng âm mà tán khen hành giả rằng ‘Lành thay, lành thay thiện nam tử thiện nữ nhơn …vv, hay ở trong Pháp của Thích-ca Mâu-ni Như Laitu hành Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni Kinh’. Bấy giờ Quán Thế Âm và Hoa Tụ Bồ-tát ở trong hư không cưỡi hoa sen báu cùng vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây.

Văn-thù-sư-lợi, ta nói với ông khuyên các chúng sanh thọ trì tu hành Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni Kinh, lần lượt trao nhau để được ra khỏi tam giới, tùy ý đắc nguyện. Nếu có thanh tín sĩ, thanh tín nữ ở phần đầu của ban ngày, khuyên bảo các chúng sanh đến nơi đạo tràng, thiêu các thứ hương, treo tràng phan, bảo cái; (lúc ấy) nếu có kẻ trai lành, người gái tín muốn cầu những việc hiện tại vị lại thì có thể cầu. Khi đó hai vị đại sĩ tùy căn lương mỗi người mà ban cho những gì họ cầu mong trong hiện tạivị lai.

Văn-thù-sư-lợi, nếu hành giả chí tâm thì thấy hai vị đại sĩ này bay lên hư không. Còn nếu không chí tâm thì không thấy. Văn-thù-sư-lợi, đây gọi là sơ nhựt phần tu hành đà-ra-ni kinh.

Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, đến ngày thứ hai trong đạo tràng, kẻ thiện nam, người thiện nữ nên thiêu các thứ hương, hương thoa, hương bột, treo tràng phan, bảo cáicúng dường Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni Kinh, thì đức Bảo Vương Như Lai và đích thân ta, từ núi Linh Thứu cùng vô lượng na-do-tha đại chúng, mỗi mỗi đại chúng đều cưỡi hoa sen bảy báu trước sau vi nhiễu qua đến đạo tràng, dùng các thứ âm thanh, các thứ tán thán khen ngợi đạo tràng của hành giả rằng “Lành thay, lành thay, hỡi kẻ trai lành, người gái tín …vv, sau khi ta qua đời lại có thể thọ trì đọc tụng kinh điển đà-ra-ni, trong lòng lại tự suy nghĩ mình có thể tu hành thọ trì Kinh này, lại nghĩ niệm đến mười phương ba đời chư Phật Như Lai, lúc ấy ta sẽ tùy học.

Văn-thù-sư-lợi, sau khi ta qua đời, như trên mà qua đến đạo tràng của hành giả, ta sẽ tùy căn cơ cao thấp của người đó mà nói Pháp. Người đó có thể nghe thấy hoặc không nghe thấy, có thể nhìn thấy hình ta hoặc không nhìn thấy, chỉ trừ không chí tâm mà không thấy được. Đây gọi là tu hành Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni kinh phần thứ hai.

Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, trong ngày thứ ba ở đạo tràng, kẻ trai lành, người gái tín treo tràng phan, bảo cái, dùng hương thoa, hương bột, Chiên-đàn, trầm thủy, huân lục, hải chữ ngạn hương mà cúng dường kinh Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni. Bấy giờ sẽ có Phật Duy Vệ, Hư Không Tạng đại Bồ-tát qua đến đạo tràng cùng vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây trong hư không, các vị cũng lại cưỡi hoa sen bảy báu, ở trong hư không hoặc nơi cao thất Đa-la thọ, phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương cõi Phật. Những người tu hành trong các cõi Phật đó thấy hào quang này rồi đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác. Các phương khác cũng có những vị hiền thánh, tất cả đều nương theo hào quang mà qua đến đạo tràng. Bấy giờ tùy căn lượng hạnh lực của mình, hành giả sẽ thấy hoặc không thấy. Hành giả nghe Phật nói như vậy nên vui mừng hớn hở chưa từng có. Văn-thù-sư-lợi, đây gọi là tu hành Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni Kinh phần thứ ba.

Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, trong ngày thứ tư ở đạo tràng, kẻ trai lành, người gái tín đọc tụng tu hành Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni Kinh, treo tràng phan, bảo cái, dùng hương thoa, hương bột, Chiên-đàn, trầm thủy, huân lục, hải chữ ngạn hương mà cúng dường kinh Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni. Bấy giờ sẽ có Phật Thức-khí qua đến đạo tràng cùng vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây trong hư không cao thất Đa-la thọ, phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương vi trần thế giới, chúng sanh trong những thế giới ấy khi thấy hào quang này đều thấu đạt pháp tánh. Bấy giờ, nếu hành giả trong đạo tràng không có tâm tà vạy hư dối, và dù đời này hay đời trước đều chưa phạm căn bản tội, sẽ thấy rõ đức Phật Thức-khí cưỡi hoa sen bảy báu trong hư không. Lúc ấy hành giả đảnh lễ chân Phật, Phật Thức-khí liền lấy tay xoa đầu hành giả mà nói rằng ‘Hỡi kẻ trai lành, người gái tín, các con không lâu sẽ đến cội Bồ-đề, phá các oán ma, phục các ngoại đạo, sẽ đắc tổng trì như ta không khác!’. Văn-thù-sư-lợi, đây gọi là tu hành Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni Kinh phần thứ tư.

Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, trong ngày thứ năm ở đạo tràng, kẻ trai lành, người gái tín đọc tụng tu hành Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni Kinh, treo tràng phan, bảo cái, dùng hương thoa, hương bột, Chiên-đàn, trầm thủy, huân lục, hải chữ ngạn hương mà cúng dường kinh Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni, tâm không sanh niệm khác, khi nào ta sẽ đắc Tùy đà-ra-ni môn, lúc nào ta sẽ ly ba cõi ác, khi nào ta sẽ xa ngũ cái, khi nào ta sẽ lìa mười triền, sẽ xa các kiêu mạn và những nạn ngu tập như vậy …vv, khi nào ta sẽ xa các khổ nạn như vậy …vv, Bấy giờ Tùy-diếp Phật ở nơi hư không cưỡi hoa sen bảy báuvô lượng đại chúng mà nói các Pháp yếu. Khi ấy tại đạo tràng, hành giả nghe tỏ rõ chương cú Phật đã nói, rõ ràng không lãng quên, thảy đều ghi trong tâm. Lúc đó nếu có thấy hoặc không thấy, cho đến bảy ngày thấy, cho đến 14 ngày không thấy, cho đến 21 ngày thấy và không thấy, là do nghiệp bất định, nghiệp tội cạn sâu từ đời trước. Văn-thù-sư-lợi, đây gọi là tu hành Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni Kinh phần thứ năm.

Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, trong ngày thứ sáu ở đạo tràng, kẻ trai lành, người gái tín đọc tụng tu hành Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni Kinh, treo tràng phan, bảo cái, dùng hương thoa, hương bột, Chiên-đàn, trầm thủy, huân lục, hải chữ ngạn hương mà cúng dường kinh Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni, sẽ có Phật Câu-na-hàm Mâu-ni cùng vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây, cùng tứ thiên hạ qua đến đạo tràng. Bấy giờ hành giả thấy rõ đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni và bảy vị Phật trong hư không, mỗi mỗi vị đều ngồi trên hoa sen bảy báu, mỗi hoa cao rộng hơn tám vạn bốn ngàn do-tuần, mỗi hoa cách mặt đất cũng tám vạn bốn ngàn do-tuần. Khi người tu hành thấy được việc này, được vui mừng hớn hở chưa từng có. Lúc đó chư Phật khác miệng đồng lời khen ngợi hành giả “Lành thay, lành thay, đệ tử của Thích-ca Như Lai hay theo di phápthọ trì đọc tụng Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni Kinh, đến nơi đạo tràng, không lâu sau sẽ ly ba ác đạo, cứu nhiếp chúng sanh ở tại nhơn Thiên hưởng vui rốt ráo sung sướng.” Văn-thù-sư-lợi, đây gọi là tu hành Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni Kinh phần thứ sáu.

Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, trong ngày thứ bảy ở đạo tràng, kẻ trai lành, người gái tín đọc tụng tu hành Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni Kinh, chớ nên khởi niệm gì khác, chỉ nên chí tâm thính thọ chắc chắn, đừng nghĩ vợ con, voi ngựa, bảy báu, chớ cho vọng tưởng tán loạn thiện tâm, khiến luống uổng một đời mà không đắc đạo, hư mất công năng, không xa các khổ. Văn-thù-sư-lợi, người tu hành nên chí tâm như vậy. Bấy giờ sẽ có hết thảy chư Phật ở mười phương nơi hư không, mỗi vị sẽ đem một Hằng hà sa, hoặc đem hai Hằng hà sa, hoặc ba Hằng hà sa, hoặc một vạn Hằng hà sa, hoặc hai vạn Hằng hà sa, hoặc ba vạn Hằng hà sa, hoặc mười vạn Hằng hà sa, hoặc 20 vạn Hằng hà sa, hoặc 30 vạn Hằng hà sa, hoặc 60, hoặc 70, hoặc 80, hoặc 90 cho đến 100, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, sáu trăm, bảy trăm, tám trăm, chín trăm cho đến không thể tính, không thể đếm đại chúng vân tập tại đạo tràng. Lúc đó đại chúng đều xem nhau, thấy nhau, đều có 32 tướng tốt, thân như vàng ròng Diêm Phù Đề, mỗi mỗi cõi Phật đều hiện ra trước người ấy, dùng các trân bảo xen nhau trang nghiêm hết thảy các quốc độ chưa từng có được, như Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử, tại nơi hư không đều tự nghi sợ, mới tự suy nghĩ “Duyên gì chư Phật đều hiện thế giới thanh tịnh như vậy?”. Khi khởi niệm như thế, ta cùng Văn-thù-sư-lợi và vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây qua đến đạo tràng, tùy căn lượng của người tu hànhthuyết pháp, khiến cho họ được thấy rõ thân ta gia hộ oai thần cho họ, khiến họ được thấy các tịnh quốc trong hư không, khi thấy tịnh quốc rồi vui mừng khôn xiết được việc chưa từng có, liền phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác mà không còn thối chuyển. Trong vòng bảy ngày liền được tùy ý sanh. Văn-thù-sư-lợi, đây gọi là tu hành Ma-ha Đản-trì-la đà-ra-ni Kinh phần thứ bảy.”

Lúc bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát liền từ tòa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, cung kính chắp taybạch Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, con từ Đông phương Diệu Lạc thế giới, do chư Phật sai qua đây cứu Lôi Âm Tỳ-khưu, giúp Tỳ-khưu trụ tâm bền chắc, như Phật đã nói, không lâu sẽ thành Chánh đẳng chánh giác, độ các chúng sanh không có giới hạn, khiến được cứu cánh trụ thường định tâm. Con nhớ lại công hạnh khi xưa cho nên qua đến Ta-bà thế giới này, nghe thọ diễn thuyết đà-ra-ni kinh, lại nghe thọ ký cho các hàng Thanh văn 500 đại đệ tử, muời phương Thiên tử nay còn hiện đây. Trước Thế tôn đã tự rõ nên dùng cái gì nói là mười phương hết thảy mà thấy nghe. Cúi mong cho con được lập đại thệ nguyện hộ trì kinh điển này.”

Phật dạy Hoa Tụ: “Lành thay, lành thay thiện nam tử, cho phép ông tự ý lập đại thệ nguyện!”

Bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát, tức nơi trước Phật, tự lập thệ nói lên như vầy: “Kính thưa Thế tôn, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nào thọ trì đọc tụng Kinh đà-ra-ni này, con sẽ từ hôm nay, ngày đêm không rời, ủng hộ người ấy khiến không buồn khổ hoạn nạn, sức khoẻ, đẹp đẽ, danh thơm thảy đều đầy đủ. Nếu đức Thế tôn cho con nguyện này, con mới nhận thành Đẳng chánh giác. Nếu có chúng sanh gặp khổ ách mà con không đến cứu, giúp họ được bổn tâm, thì con trọn không nhận thành đạo quả Chánh giác. Nếu lại có người tu trì Kinh này đến nơi đạo tràng, khi gặp khổ nạn xưng tên con mà con không đến cứu, con trọn không thành Đẳng chánh giác. Nếu có chúng sanh nhớ niệm tên con, ngày đêm sáu thời niệm niệm không dứt, cầu sanh Diệu Lạc thế giới mà không được vãng sanh, thì con không thành Đẳng chánh giác. Nếu có chúng sanh tu hành đà-ra-ni, con sẽ ngày đêm vì họ nói Pháp khiến họ vui mừng, đến ngày sắp mạng chung, quyết định tự biết sanh Diệu Lạc thế giới không có nghi ngờ, hoặc con khiến người ấy trông thấy Diệu Lạc thế giới như nhìn quả Ha-ma-lặc trong lòng bàn tay, và bao nhiêu việc tốt xấu thảy đều rõ thấu.

Thưa Thế tôn, nếu khiến tất cả chúng sanh được sanh vào Diệu Lạc thế giới ấy, con mới nhận thành Đẳng chánh giác. Nếu khi vãng sanhtam đồ phần nghiệp không vĩnh đoạn, thì con trọn không nhận thành Đẳng chánh giác. Đã sanh Diệu Lạc thế giới, mà không rời bỏ được nhơn duyên tập khí ngu si kiêu mạn, thì con trọn không nhận thành Đẳng chánh giác.

Kính thưa đấng thiên trung tôn vương, nếu có chúng sanh từ lúc sanh ra cho đến già, chỉ cần khởi một niệm “con sẽ chép viết Kinh đà-ra-ni thọ trì đọc tụng”, vậy sau được sanh. Cho dù chép viết được hay không chép viết được, đọc tụng được hay không đọc tụng được, thì vào ngày lâm chung, con quyết đến chỗ người kia cứu vớt tinh thần của họ, khiến sanh Diệu Lạc thế giới.

Thưa Thế tôn, chỉ trừ hai hạng người con không thể nhiếp cứu: Một là phỉ báng Kinh Phương Đẳng; hai là dụng Tăng kỳ vật[5] , cho đến vật dụng của một vị Tỳ-khưu. Nếu ai dùng vật như vậy thì sẽ không được vãng sanh Diệu Lạc thế giới.

Nếu có chúng sanh bị việc quan sự ưu sầu không vui, bị kẻ khác áp bức buộc tới chỗ vua, hoặc nơi lửa lớn, nước lớn, sư tử, cọp beo, quân trận giao chiến, mù mịt nơi hang núi không biết đường về; nếu gặp các nạn xứ như vậy nên đọc tụng đà-ra-ni này 120 lần, xưng danh tự con “Nam mô Hoa Tụ Bồ-tát đại sĩ”, nên xướng như vậy, khi ấy con cùng vô lượng đại oai đức chư Thiên, trước sau đoanh vây đến chỗ người kia, phá các nạn ấy khiến không bị hoạn.

Nếu đức Thế tôn cho con những lời nguyện như trên, thì con mới nhận đạo quả Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác. Nếu không cho, con trọn không thành Đẳng chánh giác.”

Bấy giờ Phật dạy Hoa Tụ Bồ-tát: “Lành thay, lành thay thiện nam tử, lòng từ bi của ông thật là vô lượng, muốn đem môn từ bi ấy nhiếp lấy chúng sanh, bày các phương tiện, khiến không não hoạn, tùy ý được sanh về các cõi nước an lạc.”

Khi ấy, Tỳ-sa-môn Thiên vương liền từ tòa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, chắp tay hướng Phật mà bạch Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, con là quỷ thần tướng quân, nhiếp các quỷ thần cũng như đức Thế tôn nhiếp hết thảy chúng con. Đức Thế tôn nay cho con hộ trì Kinh đà-ra-ni không?”

Bấy giờ Phật dạy Tỳ-sa-môn Thiên vương: “Hay quá, quỷ thần đại vương! Muốn hộ trì kinh đà-ra-ni ấy tức là con ba đời của chư Phật, tức báo ân ba đời chư Phật.”

Lúc ấy Tỳ-sa-môn Thiên vương liền nơi trước Phật mà lập nguyện: “Thưa đức Thế tôn, khi kẻ trai lành, người gái tín trì Kinh đà-ra-ni, nếu có người ác muốn làm suy loạn, khiến cho hành giả loạn tâm tán ý, không thể tu hành. Lúc bấy giờ con sẽ hiện đến, khiến cho kẻ ác ngược lại bị hao tán suy bại, hoặc khiến nước lửa, trộm cướp, quan huyện đến bức ép oan uổng hoạnh nạn, khiến kẻ ác không thể trốn thoát, hoặc có lúc đến chết, hoặc có khi gần chết, người ác như vậy dù có làm quan cũng không được thăng tiến, hoặc khiến ác mộng đều đổ nơi thân quằn quại lăn lóc dưới đất, hoặc khi trong mộng lại bị ở truồng mà chạy, răng nướu rơi rụng, tóc trắng mặt nhăn, mắt chột đui mù. Thưa đức Thế tôn, con khiến cho người ác bị các ác mộng như vậy. Thưa đức Thế tôn, lúc đó con sai các quỷ thần não hại gia cang nhà cửa của họ, khiến họ bị đại trọng bệnh, có khi đến chết. Thưa đức Thế tôn, có cho con hộ Kinh này như vậy không?”

Bấy giờ đức Thế tôn lặng thinh không đáp. Hoa Tụ liền nói với Tỳ-sa-môn rằng: “Đức Thế tôn lặng thinh tức là có thể cho phép ông làm những điều như vừa nói.”

Bấy giờ A-nan nói với Hoa Tụ rằng: “Tôi nay hỏi ông, xin ông đáp cho, chứ đừng lặng thinh như đức Thế tôn.”

Lúc ấy Hoa Tụ nói với A-nan: “Tùy ý cứ hỏi, sẽ vì ông mà đáp.”

Bấy giờ A-nan nói với Hoa Tụ rằng: “Tại sao đức Thế tôn không làm thinh mà thọ ký cho các hàng Thanh văn? Vì sao vậy? Làm thinh ấy là tánh ấn khả đó. Vì nhơn duyên gì mà nói lời phương tiện thọ ký các đệ tử Thanh văn?”

Lúc ấy Hoa Tụ nói với A-nan: “Đức Như lai có làm thinh thọ ký các hàng Thanh văn, có lúc dùng lời nói phương tiệnthọ ký cho. A-nan, Như Lai thọ ký không những chỉ một. Vì sao thế? Vì các pháp bất định cho nên Như Lai dùng nhiều phương tiện. Trí huệ vô lượng, thế giới vô biên, cho nên chúng sanh tu hành cũng vô biên. Vậy nên đức Thế tôn lấy phương tiện thọ ký cho các đại đệ tử.”

Bấy giờ A-nan nói với Hoa Tụ rằng: “Nếu là các pháp bất định thì mười phương chư Phật cũng nên bất định. Chư Phật không định, mười phương thế giới cũng lại không định ư?”

Bấy giờ, Hoa Tụ liền lấy tay hữu tiếp lấy Tây phương Diệu Lạc thế giới đưa lên hư không cũng như đại sĩ lấy trái a-ma-la-lặc để nơi bàn tay mặt mà không bị trở ngại gì. Lúc ấy đại chúng trông thấy Tây phương Diệu Lạc thế giới, sông ao, hoa cây, các thứ trang nghiêm đều rõ ràng. Bấy giờ đại chúng vui mừng hớn hở, chí tâm kính lễ Vô Lượng Thọ Phật, mỗi mỗi đều cầu sanh Diệu Lạc thế giới.

Lúc ấy Hoa Tụ nói với A-nan rằng: “Ý ông nghĩ sao? Các pháp như vậy có định tánh không?”

A-nan đáp Hoa Tụ: “Các pháp như vậy không có định tánh. Tôi không dám hỏi các pháp định tướng.”

Bấy giờ Phật dạy A-nan: “Hai đại sĩ các ông không cần phân vân tranh luận như thế. Vì sao? Này A-nan, ý ông nghĩ sao? Người tam quả có vào địa ngục không? Đấng A-la-hán có thọ ngạ quỷ hình không? Cho đến thọ thân súc sanh không, và chỗ biên địa tà kiến không?”

A-nan bạch Phật: “Không vậy, thưa Thế tôn! Vì sao? Bậc A-la-hán gọi là ly tất cả rốt ráo hoạn nạn. Nếu không ly tất cả rốt ráo hoạn nạn thì không gọi là A-la-hán.”

Thiện nam tử, ông nói thế nào? Tất cả pháp là không định tướng. Bậc A-la-hán vĩnh viễn không thọ những khổ như vậy đâu không định ư?”

A-nan bạch Phật rằng: “Thưa Thế tôn, bậc A-la-hán đắc tận định trí tuệ không?”

Phật dạy: “Không vậy. Bởi vì sao? A-la-hán còn phân đoạn Bát-niết-bàn, cho nên không được cứu cánh tận huệ. Thiện nam tử, luận kẻ học giả quán tất cả pháp trụ bình đẳng tánh, không ly có, không ly không; không ly hữu biên, không ly vô biên; không tức là biên, không ly là biên; không tức là ngã, không ly nơi ngã; không tức là sắc, không ly nơi sắc; không tức là thọ, không ly nơi thọ. Tất cả pháp không thể nói định, không thể nói không định. Nếu nói không định thì không Tam Bảo rốt ráo giải thoát. Phải biết là pháp tức có định tánh ấy. Nếu nói không định thì trên không có chư Phật, dưới không có chúng sanh, là không định tướng. Tuy lại như vậy song không thể nói không, không thể nói có. Nếu Bồ-tát quán tất cả pháp trước hữu, trước vô tướng tức Bồ-tát hệ lụy ràng buộc. Nếu thấy chúng sanh mà sanh trước tướng thì Bồ-tát bị hệ lụy. Nếu ly chúng sanh thì Bồ-tát cũng hệ lụy. Nếu trước chúng sanh mà hành là Bồ-tát hệ lụy, nếu ly chúng sanh mà hành thì Bồ-tát cũng hệ lụy. Nếu trước ngã mà hành thì Bồ-tát hệ lụy, nếu ly ngã mà hành thì Bồ-tát cũng hệ lụy. Vì sao vậy? Bồ-tát thường nên trụ trung đạo, tâm mới đắc Bồ-tát cứu cánh huệ. Thiện nam tử, bậc A-la-hán đều không có việc ấy. Không có việc ấy cho nên không được gọi là cứu cánh huệ.

Thiện nam tử, nói Bồ-tát trụ tâm trung đạo, ông nay lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói. Bồ-tát quán hư không như đất, quán đất như hư không; quán vàng như đất, quán đất như vàng; quán chúng sanh phi chúng sanh, quán phi chúng sanhchúng sanh; quán phápphi pháp, quán nơi phi phápchánh pháp; mà là chánh pháp không có sai biệt. Quán các trì giới bình đẳng với phá giới, quán các phá giới như đủ giới tướng. Ly nơi nhị biên, trụ tướng bình đẳng. Phá giới trì giới nên bình đẳng tâm mà quán. Thượng, trung, hạ tánh cũng nên tâm bình đẳng mà quán. Quán hữu vi vô vi pháp nên bình đẳng tâm mà quán, không tán khen Đại thừa, không hủy bỏ Tiểu thừa, giàu sang thấp hèn, tốt xấu hôi dơ, các căn đầy đủ hay dù khiếm khuyết, thông thái ngu si đều không khen chê.

Thiện nam tử, luận kẻ làm Bồ-tát vì pháp cúng dường cũng không nên lựa chọn các việc như trên, ấy mới gọi là Bồ-tát trụ tâm trung đạo cứu cánh trí huệ. Thiện nam tử, kẻ Thanh văn không có việc như vậy nên không có cứu cánh huệ cũng không cứu cánh Niết-bàn. Vì sao thế? Bởi chưa rõ pháp tánh nên không được cứu cánh Niết-bàn.

Lại nữa thiện nam tử, xưa kai ta từng làm cư sĩ, bản tánh kiêu ngạo buông lung, không cầu kinh điển xuất thế. Lúc đó có vị Tỳ-khưu cầm bình bát qua đến chỗ ta, cầu xin ta giúp đỡ nuôi thân. Bấy giờ ta đáp rằng “Sa-môn Thích tử, ông từ phương nào mà đến chỗ tôi? Cầm bát mà đứng cầu xin cái gì?” Ta lại hỏi thêm rằng “Ông nơi năm pháp, thường học luật gì? Ông nói 12 bộ kinh, thường học những gì?” Lại hỏi tiếp rằng “Ông chủng tánh gì? Thượng tánh, trung tánh, hay hạ tánh?” Lại hỏi tiếp rằng “Ông nay tên gì, họ gì? Nơi trong tam nghiệp, thường tu cầu nghiệp gì? Muốn cầu chỗ nào? Thượng trung hạ thừa, ông nhiếp thừa nào? Cầu cứu cánh hay cầu phân đoạn?” Ta lần lượt mà hỏi như vậy vô cùng, thân liền mắc bịnh rồi lại mạng chung, vì nhơn duyên ấy cho nên ta nay nói với ông, khi nào bố thí, chớ nên lựa thượng trung hạ tánh, thật tướng thế đế, đối với pháp hữu vô chớ sanh phân biệt. Nếu sanh phân biệt thì gọi là Bồ-tát trước ngã, nhơn, thọ giả, cũng trước nơi việc tu hành, không gọi là Bồ-tát trụ tâm trung đạo đắc cứu cánh huệ.

Thiện nam tử, ta nay lại lược nói nhơn duyên xa xưa. Ta xưa làm một Tỳ-khưu, thời ấy có một cư sĩ mở hội lớn làm việc bố thí, mời Sa-môn, Bà-la-môn, kẻ bần cùng hạ tiện, cần áo cho áo, cần ăn cho ăn, cần trân bảo cho trân bảo. Lúc đó ta hết sức nghèo túng, hoàn toàn không có chút sở hữu nào cả. Vì mong có chút tiền tài nên ta mới đến chỗ hội ấy. Khi đi giữa đường, thấy có cái cầu lớn, trên cầu nhiều người thỉnh thoảng qua lại. Trong số đó có một trí giả, ta đem ngu ý mà hỏi ông ta rằng: “Cái cầu này do ai làm? Sông này từ đâu mà chảy đến và sẽ đi về đâu? Cây này mọc ở rừng nào, người nào chặt, voi nào chở? Cây này màu xanh hay trắng, đỏ hay đen? Làm ngày nào? Cây này là tùng, bá, hay liễu, cong hay ngay, có đốt mắt hay không đốt mắt? Phá cây này bằng búa gì, đúc ra ở tại đâu, thợ nào làm ra? Nước này mặn, đắng, hay ngọt, sâu hay cạn? Dùng cầu này để làm chi?

Thiện nam tử, lúc đó ta lần lượt hỏi 7.800 câu xong, thì người trí giả đáp rằng: “Quái thay ông si Sa-môn! Cư sĩ thỉnh ông, ông chỉ đi bộ một lúc là đến chỗ hội, có thể được vui vẻ, sau không hối hận. Ông nay nên bỏ việc hỏi han như thế đi, đối với bản thân ông không có lợi gì mà dụng hỏi làm chi, những cây mọc ở rừng nào, người nào làm, búa nào chặt. Quái ông si Sa-môn! Ông mau đi trở lại đi, sẽ nói với ông!” Bấy giờ ta nghe lời này rồi liền bách bộ mà đi đến chỗ hội. Thức ăn nóng đã hết, tiền bạc cũng chẳng còn. Thấy vậy ta buồn rầu hối hận, gào khóc mà nói rằng: “Khổ thay, miệng lòng đã mất dịp may!” Quá khổ như vậy, trở về trên cầu lại thấy mọi người nhìn mình, trong đó có người bảo rằng: “Sa-môn, sao ông tiều tụy như thế? Nhiều điều không tốt ư?” Lúc đó ta đáp: “Vì quá nghèo cùng nên quá đến chỗ hội, muốn cầu xin áo mặc, ăn uống và đồ cần dùng. Đi nửa đường, tôi thấy ông nên hỏi những việc vô ích, khiến tôi mất dịp ăn uống và tiền tài, vì vậy tôi sanh buồn.”

Lúc đó người trí mới nói với ta rằng: “Phàm là vị Tỳ-khưu, đối với bản thân không có lợi thì không nên nói, dụng hỏi ấy để làm gì? Này kẻ thiện sĩ Tỳ-khưu, ông vì lầm một phen mà mất cái lợi hiện tại. Từ nay trở về sau, đối với bản thân không có lợi ích thì dè dặt đừng nên hỏi nhiều. Nên quán các pháp nào có lợi cho mình thì mới nên hỏi. Gì gọi là lợi? Quán pháp hữu vi nên hãy xa lìa, đó tức là lợi. Quán pháp bình đẳng mới nên thân cận, đó tức là lợi. Không khen mình, không chê kẻ khác, đó tức là lợi. Tự mình rõ thấu, dạy kẻ khác rõ thấu, đó tức là lợi. Tự mình nhàm chán các vui ở đời, dạy kẻ khác nhàm chán, đó tức là lợi. Tự biết chớ hỏi những điều không lợi ích, lại dạy kẻ khác chớ hỏi những điều ấy, đó tức là lợi. Lúc nãy tôi đã biết rằng hỏi không lợi cho mình, cho nên tôi khuyên ông mau đi qua chỗ hội.”

Thiện nam tử, khi người trí nói pháp này, chín mươi hai ức chư Thiên Đao Lợi ở trong hư không đã nghe được, liền phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác. Lúc ấy có 500 cư sĩ viễn trần ly cấu đắc pháp nhãn tịnh. Còn ta được nhập vào môn đà-ra-ni. Thiện nam tử, nhơn đó ta được vào cứu cánh huệ, trụ tâm trung đạo. A-la-hán đều không được việc ấy thì làm sao mà đắc cứu cánh huệ? Vì chê Đại thừa khen các Tiểu thừa, vậy cho nên không đắc cứu cánh huệ.”

Bấy giờ A-nan bạch Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, người như vậy nay lại ở đâu? Thọ quả báo trải bao nhiêu kiếp? Phật danh hiệu là gì? Những kiếp ấy tên gì? Vua kia tên chi?”

Phật dạy A-nan: “Thiện nam tử, nay ta có thể nói với ông bằng ví dụ. Giả sử có người thân lực vô lượng, đập ba ngàn đại thiên thế giới ra thành bụi nhỏ. Thiện nam tử, để ý việc này: người đó lại gom bụi nhỏ của ba ngàn đại thiên thế giới rồi đập nát thành vi trần, như vậy lần lượt mười phương Hằng hà sa thế giới cũng đập nhỏ thành bụi, liệu có thể biết được số lượng ấy chăng?”

A-nan bạch Phật: “Thưa đức Thế tôn, một thế giới cho đến trăm thế giới còn không thể đếm, huống là số vi trần ư?”

Thiện nam tử, thế giới có thể biết số kia, có đức Phật đã qua đời còn xa xưa hơn số ấy, Phật ấy hiệu là Chiên-đàn Hoa Như Lai Chí chơn Đẳng chánh giác, nước tên là Tôn Đế, kiếp tên Tịnh Trì, vương tên là Chiên-đàn Quả. Chiên-đàn Hoa Phật sanh ở vương cung kia thành Đẳng chánh giác và vào cõi Niết-bàn.

Lại có Phật tên Thích-ca Mâu-ni, như vậy lần lượt có hai vạn ức Phật Thích-ca Mâu-ni, ta thảy đều cúng dường. Vị Phật tối sơ ấy khiến ta kiên cố đà-ra-ni, thì đâu phải ai khác, nay chính là Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử vậy. Cư sĩ thiết Pháp hội ấy nay là Hoa Tụ Bồ-tát ma-ha-tát vậy. Năm trăm cư sĩ khi ấy nay là năm trăm đại đệ tử vậy.”

Bấy giờ vương tử, Bồ-tát, cư sĩ, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thiên Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, năm trăm đại đệ tử, vô lượng đại chúng và A-nan hoan hỉ phụng hành.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11533)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11250)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11976)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12456)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17862)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11881)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12560)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19477)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13020)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11519)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12661)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14394)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12778)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12091)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant