Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Phẩm Chánh Tín

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8173)
4. Phẩm Chánh Tín

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Chánh Tín, thứ 4

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo đại Bồ Tát Hiền Hộ:
-Này Hiền Hộ! Nếu chư đại Bồ Tát vì cầu tam muội châu báu đó, thường phải phát tâm dũng mãnh tinh tấn, thì tự nhiên hay chóng nhập vào tam muội này.

Này Hiền Hộ! Ví như có người lên thuyền lớn ra biển cả, vì muốn chở về đầy thuyền những châu báu quý giá. Ðã vượt qua hết thảy chỗ hiểm nạn, lúc thuyền vừa sắp cập bến, đột nhiên thuyền bị thủng và các châu báu rơi chìm xuống nước. Lúc ấy, người trong xứ Diêm Phù Ðề đó la lớn thất thanh buồn khổ vô cùng, vì đã mất châu báu vô giá.

Này Hiền Hộ! Cũng như thế, nếu có trai hiền gái thảo nào, tai nghe pháp bảo tam muội như thế, mà không thể viết chép đọc tụng hành trì, và cũng không thể suy tư như pháp mà trụ, thì này Hiền Hộ, khi ấy tất cả chư thiên quỷ thần cũng la lớn thất thanh, lòng buồn rầu vô hạn, và nói lời rằng: “Chúng sanh đó thật đáng thương thay. Vì sao đối với Pháp bảo tam muội tối thắng của chư Phật, được tất cả chư Phật khen ngợi, được tất cả chư Phật ấn chứng, được tất cả chư Phật răn dạy, là công đức tối thượng của chư Phật, thành tựu đầy đủ không thiếu sót, mà Bồ Tát nghe rồi lẽ ra phải cần cầu tu học, nhưng ngược lại xa rời chẳng chịu viết chép, chẳng vui đọc tụng, chẳng hay thọ trì giải thích nghĩa lý, chẳng hay suy tư hành như chánh pháp! Chúng sanh phóng dật làm biếng này, trong tương lai sẽ gặp những tổn giảm lớn lao”.

Này Hiền Hộ! Sao gọi là chúng sanh bị tổn giảm? Vì chúng sanh đó nghe qua Pháp bảo tam muội đó, lại xa rời không thể biên chép đọc tụng thọ trì, không thể giải thích suy tư nghĩa lý, không thể trụ như pháp chuyên niệm tu hành, khiến suy diệt công đức, nên gọi là tổn giảm.
Này Hiền Hộ! Kẻ làm biếng này ghét chúng sanh. Nếu trong pháp này mà được lợi ích thì không thể nào có được. 

Lại nữa, này Hiền Hộ! Ví như có người đưa gỗ trầm hương đỏ đưa cho kẻ ngu, mà kẻ ngu đó vì ngu si nên nghĩ trầm hương là phẩn hôi thúi. Lúc đó, người chủ buôn trầm có trí bảo kẻ ngu:

-Nay đối với trầm hương ông chớ nên khởi tâm cho là hôi thúi. Vì sao? Ðây là trầm hương có mùi vị thơm nhất, mà ngược lãi sao ông cho là hôi thúi? Nếu không tin, trước hết ông hãy thử coi thử hôi thúi hay thơm, rồi dùng mắt trong sáng tự quán sát xem coi là trầm hương màu sắc trong sạch là nhỏ, là lớn, là lành, là xấu.

Tuy nghe người trí tán than những việc như thế, nhưng kẻ ngu lại chuyển tâm khởi oán giận, dùng tay bịt mũi vì không muốn ngửi, và dùng tay che mắt vì không muốn nhìn.

Cũng như thế, này Hiền Hộ! Ðời tương lai có tỳ kheo xấu ác, tức giận kinh này cũng như thế. Những kẻ ác đó chẳng biết tu tập tâm giới định huệ, ngu si vô trí giống như con cừu trắng ngu đần ngang bướng lẫn thẩn. Những kẻ ác đó lại bạc phước. Tuy được nghe kinh điển vi diệu, tam muội Chánh Niệm Chư Phật Hiện Tiền như thế, mà chẳng biên chép, không thể đọc tụng, không thể thọ trì, không thể suy tư, không thể tuyên dương nói rộng cho người khác nghe, lại không thể cởi mở hoan hỷ, thì làm sao tu hành y theo lời dạy? Nếu những kẻ ác đó hay như lời dạy mà hành trì thì không có lẽ nào như thế. Ngoài ra, tuy họ được nghe nhưng lại càng phỉ báng, hoàn toàn không có tín tâm chân thật. Tuy nghe nhiều lời mà không hiểu rõ, lại bảo rằng: “Nếu là pháp như thế thì chỉ là pháp hí luận, những chuyện thần thoại, lại là ngôn giáo lăng xăng, nên thật đáng quở trách. Những kẻ lường gạt thế gian tạo ra kinh này, há sao sánh bằng thánh giả A Nan, và chư vị tỳ kheo trong hiện tại tuyên thuyết các loại kinh này?” rồi trong những dịp khác, họ phát ngôn rằng: “Loại kinh này chẳng phải do Phật thuyết, mà là kẻ xấu tự tạo văn chương rồi vọng ngôn đề là kinh”.

Này Hiền Hộ! Ông nên biết rằng những kẻ ác đó đêm dài xa rời Pháp bảo vô thượng vi diệu, như kẻ ngu xem trầm hương vi diệu xong, lại che mắt bịt mũi không muốn ngửi nhìn.

Cũng như thế, này Hiền Hộ! Những kẻ ngu si đó vừa nghe qua kinh tam muội quý báu này, lại chẳng muốn biên chép, chẳng thích đọc tụng, chẳng nghĩ thọ trì, chẳng hay tuyên giảng, nên gọi là những kẻ chẳng có tâm gần gũi kinh điển, chẳng thích nghe giảng giải.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Ví như có người bán hạt châu ma ni. Có kẻ ngu vừa thấy hạt châu, liền hỏi rằng: 
-Này Nhân giả! Hạt châu này trị giá bao nhiêu?
Người chủ hạt châu đáp:
-Ông nên biết rằng hạt châu tinh thuần tối thắng này ở thế gian không có, không thể giả tạo, còn nói gì đến việc luận giá bao nhiêu!. Ðể cho vừa lòng, nay tôi sẽ nói sơ về lực dụng công năng oai đức của hạt châu này. Ông nếu muốn biết hạt châu ma ni này tỏa chiếu xa gần, thì nên lấy vàng thật để đầy trên mặt đất rồi so sánh.

Kẻ ngu nghe lời này xong, liền cười to, phỉ báng rằng hạt châu này đâu có giá trị gì.

Cũng vậy, này Hiền Hộ! Các tỳ kheo ác đời sau, tuy nghe tam muội quý báu thù thắng trong kinh này, nhưng chẳng có tín tâm, mà đa phần cười mỉa mai, lại thêm phỉ báng, cũng như thế. Hoặc có tỳ kheo tín căn thâm sâu, huệ căn lanh lợi, trong những đời quá khứ đã từng ở chỗ chư Phật, gần gũi hầu hạ nghe chánh pháp, như lời dạy mà hành trì, trồng các căn lành. Những người này khi nghe tam muội Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền, thì hay đọc tụng suy tư nghĩa lý, vì người nói rộng, hay làm nhiều lợi ích cho tất cả thế gian, tức là tuyên thuyết lưu bố cùng khắp, sanh tín tâm lớn, phát trí huệ lớn, thành tựu tâm thuần hậu chất trực, đầy đủ oai nghi, thường hành tàm quý, lo sợ nghiệp xấu, tu trì cấm giới, chẳng thọ các dục lạc, tin pháp thâm sâu, hay thường nghe thọ, đắc trí nhẫn thâm sâu, thường hành từ bi. Nhờ tín căn kiên cố, nên đắc được tam muội này, rồi đi khắp các xứ, vì người rộng nói giải thích nghĩa lý, thường phát nguyện như vầy: “Nay đối với tam muội Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền sẽ lưu bố rộng khắp, để kinh được thường trụ ở thế gian”. 

Hoặc có chúng sanh căn lành ít ỏi, phước đức mỏng manh, đời quá khứ chưa từng gần gũi chư Phật, cúng dường hầu hạ nghe chánh pháp, chỉ vì ngã mạn che chướng, tâm ganh ghét dẫn dắt, lợi dưỡng che lấp, danh tiếng trói buộc, rộng hành phóng dật, chẳng trì giới lành, thường thích loạn tâm, chẳng tu thiền định, xa rời kinh giáo, chẳng cầu đa văn, chưa gặp thầy hiền, chỉ theo bạn xấu. Họ nghe qua tam muội này liền phỉ báng khinh bỉ, chẳng có một chút lòng tin, vì cho là kinh không thật, chí tánh ngoan cố ngu si, ý không khai mở, mà lại bảo rằng: “Kinh này chẳng phải do Phật thuyết, mà do các tỳ kheo độn cănthế gian, ngu si tà kiến tự viết văn chương, trao dồi văn vẻ. Nếu ở trong chúng nói như thế và dạy như thế, thì chúng sanh các ông, phải biết kinh điển này đây chẳng phải do Phật thuyết”.

Kẻ ngu đó chẳng biết gần gũi chư Phật Thế Tôn, chẳng trồng căn lành, chẳng tu cúng dường, quen gần bạn xấu, huân tập nhiều việc ác. Nên biết những kẻ đó xa rời pháp bảo vô thượng vi diệu, mãi mãi đánh mất pháp lợi tối thắng vi diệu.

Phật bảo Hiền Hộ:

-Ta lại nói cho ông nghe, nay trước tất cả thế gian, Phạm, Ma, Sa Môn, Bà La Môn, cùng hàng trời, người, A Tu La, và đại chúng. Khi Ta nói về tam muội vi diệu này, nếu có trai hiền gái thảo nào nghe rồi vui vẻ, đọc tụng thọ trì, niệm Phật tam muội, suy tư tin hiểu, quyết lấy đó làm chân thật, phát lời rằng: “Ðó gọi là lời thuyết chân thật của chư Phật”. Nên biết những người đó sẽ đạt được những phước báu không thể nghĩ bàn.

Này Hiền Hộ! Nếu lại có trai hiền gái thảo nào đem bao loại châu báu đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới để cúng dường tất cả chư Phật, công đức cúng dường đó tuy rất rộng lớn, nhưng nếu so với công đức phước báo trì tụng kinh này thì trăm ngàn muôn phần không thể bằng một phần; cho đến dùng vô lượng vô biên a tăng kỳ phước đức để so sánh cũng không bằng được.
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Kẻ tà vạy ngu mê
Phóng dật, căn chẳng thuần
Bị bạn xấu tổn hoại
Chẳng có tâm chánh tín
Phá giới tạo các tội
Chấp sâu nơi ngã mạn
Họ lại nói kinh này
Chẳng phải do Phật thuyết
Loại kinh điển này đây
Chẳng do Pháp Vương dạy
Kẻ đó tự ý nói
Ta làm sao nói được
Nếu gặp đức Ðiều Ngự
Thế Tôn phóng hào quang
Ta sẽ nói rộng cho
Cũng hay thường truyền dạy
Người đó nơi kinh này
Nghe rồi sanh vui vẻ
Người này không nghi ngờ
Tin là lời Phật thuyết
Như có giới thanh tịnh
Cái nhìn hay hiểu rõ
Kính pháp tâm tôn trọng
Ta vì họ nói rõ
Nếu dùng ba ngàn báu
Cúng dường chư Như Lai
cầu đại Bồ Ðề
Phước kia không thể nói
Nếu có các tỳ kheo
Thuyết thiền định Phật khen
Người nghe sanh tín tâm
Phước này hơn kia nhiều”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11614)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11923)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11091)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12053)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10746)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9934)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10160)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12338)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15323)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14313)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12076)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15313)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11986)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12066)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10594)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12542)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13146)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14776)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12641)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16527)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19624)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13095)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12234)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11818)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10880)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13471)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11928)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11830)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11619)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15650)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13597)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12876)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9851)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17994)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11147)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9054)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10284)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12174)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15284)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16578)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12187)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11450)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14255)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19658)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24568)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10667)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant