Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

6. Phẩm Quán Sát

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8675)
6. Phẩm Quán Sát

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Quán Sát, thứ 6

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Hiền Hộ:

-Này Hiền Hộ! Nếu chư đại Bồ Tát muốn tư duy tam muội này, thì phải làm sao? 
Này Hiền Hộ! Bồ Tát đó phải tư duy như vầy: “Ðức Thế Tôn của tôi đang thuyết pháp trước hàng trời người”. 

Này Hiền Hộ! Bồ Tát nhất tâm tư duy như vầy: “Chư Phật Như Lai ngồi tòa sư tử tuyên thuyết chánh pháp, thành tựu đầy đủ tất cả tướng hảo, tối vi diệu tối thù thắng, đoan nghiêm, đáng mến nhìn không chán”. Chí tâm quán sát các tướng hảo lớn như thế, tức thấy rõ ràng tường tận mỗi mỗi đức tướng của chư Như Lai; đã thấy rồi bèn thỉnh hỏi tướng nhục đảnh. Ðã hỏi rồi lại quán sát những tướng hảo khác rõ ràng tường tận, và suy tư: “Tướng hảo vi diệu của chư Phật thật là hy hữu. Xin nguyện đời sau con được thành tựu đầy đủ thân tướng hảo như chư Phật. Xin nguyện đời sau con thành tựu đầy đủ oai nghi giới đức thanh tịnh. Xin nguyện đời sau con thành tựu đầy đủ tam muội này. Xin nguyện đời sau con được trí huệ viên mãn như chư Phật. Xin nguyện đời sau con được giải thoát viên mãn như chư Phật. Xin nguyện đời sau con được giải thoát tri kiến như chư Phật. Xin nguyện đời sau con được tướng hảo viên mãn như chư Phật, chứng quả Bồ Ðề vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chứng quả vị Phật rồi, con cũng tuyên thuyết tất cả diệu pháp giữa hàng trời người như chư Phật”.

Bồ Tát quán sát chư Phật đầy đủ như thế, cho đến thành tựu tất cả pháp quán sát. Sau đó, lại suy tư rằng: “Trong đây gì là bản ngã, gì là pháp của ngã sở, ai sẽ chứng quả vị Phật, Bồ Đề? Tâm sẽ chứng đắc ư? Thân sẽ chứng đắc ư? Thân vốn ngang ngạnh, vô tri, vô giác, vô thức, vô phân biệt, vô tác giống như cỏ cây, ngói đá, gương kính, còn đạo Bồ Ðề thì không sắc, không hình, không ảnh tượng, không tướng mạo, không thể thấy biết, không thể cảm xúc biết, thì làm sao nương vào thân đó mà tu hành chứng quả Bồ Ðề như thế? Trong đó ai có thể chứng đắc được? Nếu do tâm chứng đắc, thi tâm vốn vô hình sắc, không thể thấy biết được, đồng như huyễn hóa. Quả Bồ Ðề thì cũng không có hình sắc để có thể thấy biết, vô lậu, vô vi, và đồng như huyễn hóa, thì làm sao chứng được, giác biết được, mà sao nói rằng thân tâm đắc đạo Bồ Ðề? 

Lúc đại Bồ Tát quán sát tường tận như thế, thấy rõ ràng thân tướng không thể chứng đắc đạo Bồ Ðề, cũng biết rằng tâm lại không thể chứng đạo Bồ Ðề. Vì sao? Các pháp không nương vào sắc mà chứng đắc sắc, nương tâm mà chứng đắc tâm. Chỉ nương vào lời nói mà biết tất cả pháp. Tuy vậy, chúng vốn là vô sắc, vô hình, vô tướng, vô lậu, không thể xem thấy, không thể chứng biết, không thể chứng đắc, không thể chẳng chứng đắc. Vì sao? Vì thân của chư Như Lai vốn vô lậu. Do thân chư Như Lai vô lậu nên tâm cũng vô lậu. Do tâm chư Như Lai vô lậu nên sắc tướng cũng vô lậu.

Lại nữa, sắc tướng của chư Như Lai vốn vô lậu, nên thọ cảm vô lậu, cho đến hành và thức cũng vô lậu, giới pháp của chư Như Lai cũng vô lậu, tất cả tam muội trí huệ cũng vô lậu, cho đến giải thoát tri kiến cũng vô lậu; như thế cho đến chư Như Lai, tất cả ngôn thuyết của chư Như Lai, những lời đã thuyết, nay thuyết và sẽ thuyết, cùng tất cả pháp đều vô lậu.

Này Hiền Hộ! Bậc trí hay thông đạt tất cả Phật pháp như thế, còn kẻ ngu thì nào biết được. Lúc họ quán sát như thế, không thể nắm bắt được tất cả pháp. Vì sao? Ai hay chứng ngộ mà không thể nắm bắt. Sao gọi là chứng ngộ và cũng không thể nắm bắt? Duyên theo sự chứng ngộ nào mà không thể nắm bắt? Họ hay quán sát như thế xong, thì nhập vào diệt tận định, phân biệt được các pháp, cũng chẳng phân biệt được các pháp. Vì sao? Này Hiền Hộ! Như lúc lửa chưa cháy, có người nói như vầy: “Nay tôi sẽ dập tắt ngọn lửa này”. Này Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao, kẻ đó nói như thế có phải là người thành thật chăng?
Bồ Tát Hiền Hộ thưa:

-Bạch đức Thế Tôn! Không thành thật.
Phật bảo:

-Các pháp như thế xưa nay rốt ráo không thể nắm bắt được. Sao nay lại nói rằng: “Ta hay chứng biết tất cả pháp, Ta hay liễu đạt tất cả pháp, Ta hay giác ngộ tất cả pháp, Ta hay giải thoát tất cả chúng sanh”? Trong dòng sanh tử, những lời này không phải là lời chân chánh. Vì sao? Trong pháp giới vốn không có các pháp, cũng không có chúng sanh, thì sao lại bảo rằng có nhân duyên độ chúng sanh trong cõi này ư? Tuy nhiên, chỉ trong Thế Đế mới có nhân duyên độ.

Này Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao, người đó nói như vậy có thật chăng? 

Bồ Tát Hiền Hộ thưa:

-Bạch đức Thế Tôn! Không thật.

Phật bảo Hiền Hộ:
-Do đó, trai lành gái thảo nào muốn thành tựu đạo Bồ Ðề vô thượng, cho đến muốn thành tựu đạo Bồ Ðề Duyên Giác, đạo Bồ Ðề Thanh Văn, đều phải quán sát tất cả pháp như thế. Lúc quán chiếu sẽ nhập diệt tận định, không còn phân biệt hay chẳng không phân biệt. Vì sao? Này Hiền Hộ! Vì tất cả pháp xưa nay chẳng có sanh diệt, mà sau khi xuất định lại có phân biệt thì là chấp một bên, còn trong định không phân biệt là chấp một bên khác. Cả hai bên đó không phải là thiền định tịch tĩnh, cũng chẳng không phải là thiền định tịch tĩnh, không chỗ suy tư, không chỗ phân biệt, không chỗ chứng biết, không chỗ qua lại, không chỗ tụ tập, không chỗ suy nghĩ, không chỗ phát khởi.

Này Hiền Hộ! Ðó gọi là trung đạo mà tất cả sự việc, tính lường, nơi chốn đều y theo Thế Đế.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Trong Đệ Nhất Nghĩa Đế chân thật, không thể nắm bắt được chính giữa hoặc hai bên. Vì sao? Này Hiền Hộ! Tất cả pháp giống như hư không, xưa nay vốn tịch diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng có tích tụ, chẳng có trụ xứ, không thể y theo, không hình tướng, vô vi, không có tính đếm.

Này Hiền Hộ! Kia không thể tính đếm thì làm sao lại có? Không thể tính đếm nên không thể nhập vào con số. Không thể nhập vào con số cho đến không có trí tính đếm, danh từ lời nói.

Này Hiền Hộ! Lúc chư đại Bồ Tát quán sát như thế, biết chư Như Lai, không thể chấp trước. Vì sao? Do không thể chấp vào tất cả pháp, nên nương nơi không có xứ sở mà có thể chấp vào, cũng không có cội gốc nên có thể đoạn dứt. Do trừ diệt cội gốc nên không có chỗ nương vào.

Này Hiền Hộ! Chư đại Bồ Tát đó nên suy gẫm tam muội Chư Phật Hiện Tiền như thế. Nếu sau khi đã thấy chư Như Lai như thế xong, chớ nên giữ lấy đắm vào, chớ nên chấp trì. Vì sao? Này Hiền Hộ! Không thể chấp giữ tất cả pháp, vì chúng giống như hư không, bản tánh thường vắng lặng.

Này Hiền Hộ! Như chày kim cang được bỏ trong lửa, khéo tôi luyện rèn nén, nên trị được lửa mạnh khói độc. Như miếng sắt nóng vừa được lấy ra từ lò vẫn còn cháy đỏ, thì bậc trí không nên cầm nắm. Vì sao? Miếng sắt vẫn còn lửa vàng, nếu chạm vào thì sẽ bị phỏng. Cũng như thế, này Hiền Hộ! Bồ Tát quán chiếu chư Phật, không thể chấp giữ. Do đó, lúc Bồ Tát quán sát sắc tướng của chư Phật, chớ nên khởi tâm đắm trước. Quán sát thọ, cho đến hành thức cũng không nên khởi tâm đắm trước. Lại nữa, lúc Bồ Tát quán giới pháp cũng không nên chấp trước. Quán thiền định như thế, cho đến trí huệ giải thoát, giải thoát tri kiến cũng chớ nên chấp trước. Vì sao? Ai chấp giữ thì không thể rời pháp khổ sanh tử, vì pháp khổ sanh tử đều do chấp giữ mà có. Vì vậy, lúc Bồ Tát quán sát chư Phật như thế, chớ nên có ý tưởng chấp giữ.

Này Hiền Hộ! Tuy không chấp giữ, mà nên cần cầu công đức thù thắng vi diệu của chư Phật, đó gọi là Phật trí, Như Lai trí, trí huệ rộng lớn, trí huệ tự nhiên, trí huệ tự tại, trí huệ không thể nghĩ bàn, trí huệ khó xưng lường, trí huệ vô đẳng đẳng, trí huệ Nhất Thiết Trí. Nếu ai muốn nhập vào những loại trí huệ này, phải nên tinh tấn suy tư quán chiếu tam muội Thấy Phật Hiện Tiền.

Lúc ấy, đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này, nên thuyết kệ rằng:

“Giống như tấm kính và son phấn
Phụ nữ trang sức xoa bóng mặt 
Kẻ ngu khởi tâm nhiễm vào đó
Nơi nơi chạy theo vì cầu dục
Trong không hắn khởi tưởng điên đảo
Chẳng biết pháp đó hư vọng sanh
Kẻ đó bị lửa tham dục đốt
Cô kia khởi dục lại tự phát.
Nếu có Bồ Tát khởi niệm này
Gọi là vô trí, chấp tâm mình.
Cam lồ Bồ Ðề trong tương lai
Ta cứu chúng sanh thoát khổ nhọc
Trong đệ nhất nghĩa không chúng sanh
Thế gian chỉ có sanh lão tử
Các pháp vô hình như trăng nước
Sao có Bồ Ðề mà cầu được?
Các hình sắc như ảnh trong gương
Như huyễn như bóng như hư không
Phàm phu chấp vào không thể cưỡng
Họ tuy trói, hư không chẳng thật.
Chư Bồ Tát các bậc hiền trí
Biết đời điên đảo nên thấy rõ
Liễu đạt không người, ai thọ khổ?
Họ sẽ thành đạo vô thượng giác
Không ý phân biệt Phật Bồ Ðề
Tâm xưa nay vốn tự sáng tịnh 
Chẳng thấy sanh tửô trược
Họ chứng chân thật, Tối Thắng Tôn
Hết thảy sắc pháp, các vô lậu
Không thể phân biệt vọng và Không
Diệt trừ các dục, tâm giải thoát
Bậc trí đó chứng tam muội này
Trước niệm chư Phật thân vô tướng
Sau nghe các pháp vốn thanh tịnh
Suy gẫm như thế không nghĩ khác
Chứng tam muội này thật không khó
Thường suy tư quán các tướng không
Tức hay diệt các đống bụi bặm
Chẳng phân biệt thành hay hoại
Tất cả ngoại đạo mất trong đây.
Với tất cả sắc, không phân biệt
Mắt tuy thấy mà tâm không lụy
Họ thấy chư Phật như vòm trời
Vượt hẳn pháp giới trong thế gian
Tâm kia thanh tịnh mắt cũng sáng
Tuy cần tinh tấn thường trong định
Họ đắc đa văn không thể nói
Chứng tam muội này, thật tư duy
Nếu vì chẳng chứng thấy tam muội
Hết thảy kẻ mù lẽ chứng biết
Chớ nương thấy, chẳng không thấy
Trong đó ngoại đạo đều mê muội.
Thường rời tưởng tướng mà suy tư
Thấy kia chư Phật tâm thanh tịnh
Thấy vậy rồi bèn quán hết thảy
Họ mau chóng thành tựu tam muội
Kia không đất, nước, gió, và lửa
Cũng chẳng Không giới, trụ trước mặt
Nếu muốn quán sát hết thảy Phật
Nên tưởng nơi ngồi diễn diệu âm
Như Ta hôm nay tuyên diệu pháp
Tâm ai mến pháp, thấy thân Ta
Họ nên không có suy tư khác
Chỉ nên tưởng Phật thuyết chánh pháp
Chuyên quán vậy, chớ tưởng nhớ khác
Vì cầu tam muộiđa văn
Một lòng quán lời Ta dạy định
Tổng trì tất cả lời Phật dạy
Không có Phật nào trong quá khứ
Và trong hiện tại cùng tương lai
Chỉ thiền thanh tịnh vi diệu này
Kia không thể nói chứng hay bàn
Nơi ba cõi, Ta vô thượng Tôn
Vì lợi đời nên đặc biệt ra
Vì niệm chứng chư Phật Bồ Ðề
Tuyên thuyết tam muội không gì sánh
Nếu muốn thân và tâm an lạc
Cầu Phật công đức không nghĩ bàn
Cho đến chứng Bồ Ðề vi diệu
Nên tu tam muội thù thắng này
Muốn tịnh rộng sâu biển đa văn
chúng sanh mà thường cầu cần
Họ nên mau rời các bụi dục
Phải tu tam muội thù thắng này
Nếu muốn một đời thấy nhiều Phật
Thấy rồi cung kính lại thỉnh hỏi
Họ nên chóng xa chớ chấp trước
Phải quán sát tam muội vi diệu
Nơi đây không tham cũng không sân
Cũng không ngu si hay ganh ghét
Lại chẳng vô minh cùng lưới nghi
Phải trụ sâu định tịch tĩnh này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11620)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11928)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11098)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12058)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12548)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10756)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17967)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11717)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10165)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12342)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15330)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11227)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14318)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12088)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15339)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12388)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10597)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14796)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12660)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16538)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19630)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13100)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12648)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12247)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11830)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10886)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13488)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11937)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11834)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11622)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12753)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14498)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12589)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15653)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13603)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12885)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9854)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18002)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11151)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9063)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12168)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13033)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10287)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12176)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15287)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16582)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12200)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11459)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14261)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19682)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24584)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10676)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant