Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Phẩm Hiền Hộ Xưng Tán Công Ðức

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8132)
8. Phẩm Hiền Hộ Xưng Tán Công Ðức

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Hiền Hộ Xưng Tán Công Ðức, thứ 8

Lúc ấy, Bồ Tát Hiền Hộ cùng những người Bảo Ðức Ly Xa, trưởng giả Thiện Thương Chủ, con của cư sĩ Già Ha Ngập Ða, Na La Ðạt Ða Ma Nạp, trưởng giả Thủy Thiên cùng năm trăm quyến thuộc, nghe lời Phật dạy xong, đều vui mừng khấp khởi, và do tâm mến thích pháp, nên tự thân mỗi người liền đem năm trăm y phục cao sang và dâng nhiều phẩm vật lên cúng dường đức Thế Tôn. Do tâm mến pháp, nên tự mỗi người phụng thừa đức Như Lai.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ngài A Nan rằng:
-Bồ Tát Hiền Hộ sẽ vì năm trăm đệ tử mà làm bậc thầy thuyết các pháp thiết yếu, giáo hóa an ủi, khiến họ vui mừng. Do vui mừng nên bọn họ sẽ có tâm tùy thuận, có tâm chân thật, có tâm thanh tịnh, có tâm xa rời dục lạc, diệt trừ các phiền não, không còn bị các triền cái che đậy trói buộc.

Lúc ấy, năm trăm người nhất tâm chắp tay, cung kính đảnh lễ rồi ngồi sang một bên.

Khi đó, Bồ Tát Hiền Hộ bèn bạch Phật rằng:
-Bạch đức Thế Tôn! Ðại Bồ Tát đầy đủ pháp gì mà hay đắc được tam muội Niệm Phật này?

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo:
-Này Hiền Hộ! Ðại Bồ Tát đầy đủ bốn pháp thì đắc được tam muội này. Bốn pháp đó là gì? 

Thứ nhất là chẳng chấp vào lời nói của tất cả ngoại đạo

Thứ hai là chẳng thích tất cả việc ái dục

Thứ ba là thường không xa rời công đức đầu đà

Thứ tư là thường chán chường ba cõi các chỗ sanh ra.

Này Hiền Hộ! Ðó là đại Bồ Tát đầy đủ bốn pháp thì đắc được tam muội này.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu có trai hiền gái thảo đọc tụng thọ trì tam muội này, hoặc có lúc lại hay vì người khác mà giải thích, thì trước mắt sẽ được năm loại công đức

Thứ nhất, tất cả chất độc không thể hại được.

Thứ hai, tất cả súng ống không thể giết hại được.

Thứ ba, không bị chết đuối.

Thứ tư, không bị lửa thiêu.

Thứ năm, không bị vua quan tàn ác bắt bớ hãm hại.

Vì sao? Vì lực tâm từ của tam muội này.

Này Hiền Hộ! Nếu trai hiền gái thảo nào, lúc nhất tâm cần cầu tam muội này, đọc tụng thọ trì tam muội này, suy tư tu tập tam muội này, giải thích cho người khác về tam muội này, nếu có chất độc, binh đao, nước lửa, vua quan ác độc làm hại, thì không thể có việc đó.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Giả sử lửa cháy thế gian trong kiếp hoại, đốt cháy hừng hực cả trời đất, nếu trai hiền gái thảo nào thọ trì tam muội này, thì dù có sống trong đại kiếp lửa hoại đó, nhờ oai thần của tam muội này mà lửa sẽ tắt.

Này Hiền Hộ! Giống như nước trong bình nhỏ hay dập tắt lửa nhỏ, cũng vậy dù các người trai lành gái thảo nào trì kinh này mà bị nạn lửa, thì nhờ lực tam muội này mà sẽ dập tắt được ngọn lửa lớn đó. Nếu không thể dập tắt thì không có chuyện đó.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu lúc người trai hiền gái thảo nào đang thọ trì kinh điển này mà bị vua quan ác ôn hãm hại, hoặc gặp nạn binh đao, gặp nạn sư tử, gặp nạn cọp sói, gặp nạn rắn độc gây chướng ngại, thì không có lẽ đó. 
Lại nữa, lúc họ đang tu hành kinh điển này, nếu quỷ Dạ Xoa, La Sát, Ngạ Quỷ, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Xá, cho đến tất cả loài phi nhân hay làm sự chướng ngại, thì cũng không có việc đó.

Lại nữa, nếu lúc người trai hiền gái thảo đang đọc tụng kinh điển, đang suy tư, đang giải giải cho người khác, đang nhập tam muội, đang hành phạm hạnh, mà bị mất y bát, cho đến gặp nhiều chướng ngại, thì không thể có điều đó, chỉ trừ oan khiên tiền kiếp không thể chuyển được.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu người trai hiền gái thảo nào thọ trì kinh điển tam muội này, bị đui mù, bị câm điếc, thân tâm bị ưu hoạn, lại gặp bao tai ương hoạn nạn khác, cho đến đe dọa mạng sống, khó hành phạm hạnh, thì cũng không thể có điều đó.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu người trai hiền gái thảo nào nghe được, thấy biết được kinh này đầy đủ, mà không gặp Phật, phỉ báng chánh pháp, phá tăng hòa hợp, phản bội Phật Bồ Ðề, thì không thể có được.

Hiền Hộ ông nên biết người trai hiền gái thảo trì kinh này, không bị những sự việc trên làm chướng ngại, chỉ trừ oan khiên tiền kiếp không thể chuyển được.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo nào thọ trì kinh điển này, thì thường được tất cả chư Thiên, tất cả loài rồng, tất cả Dạ Xoa, tất cả Càn Thát Bà, tất cả A Tu La, tất cả Ca Lầu La, tất cả Khẩn Na La, tất cả Ma Hầu La Già, tất cả hàng phi nhân, tất cả Tứ Ðại Thiên Vương, tất cả Thiên Vương Ðế Thích, tất cả đại Phạm Thiên Vương, như thế cho đến tất cả chư Phật khen ngợi.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo nào thọ trì kinh điển này, thì thường được tất cả chư Thiên, cho đến tất cả loài rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, và phi nhân, Tứ Ðại Thiên Vương, cho đến Đại Phạm Thiên Vương cung kính. Họ cũng được tất cả chư Bồ Tát, cho đến tất cả chư Phật thương nghĩ đến.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo nhờ nương vào thần lực của kinh điển này, nên thường được tất cả chư Thiên, rồng, Dạ Xoa, Cản Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, cùng phi nhân, Tứ Thiên Vương, Ðế Thích Thiên Vương, cho đến Ðại Phạm Thiên Vương bảo vệ hộ trì. Tất cả chư Bồ Tát cho đến tất cả chư Phật đều che chở gia hộ cho tất cả những ai đang hành trì pháp này trong mười phương vô lượng a tăng kỳ cõi.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo này nhờ nương vào thần lực của kinh điển này mà tất cả hàng trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân, Tứ Thiên Vương, Ðế Thích Thiên Vương, Ðao Lợi Thiên Vương, cho đến Ðại Phạm Thiên Vương đều thương tưởng muốn nhìn. Tất cả chư Bồ Tát, cho đến tất cả chư Phật cũng đều muốn nhìn.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo này nhờ nương vào oai lực của kinh này mà tất cả chư Thiên, rồng, Dạ Xoa, Cản Thát Bà, A Tu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân, Tứ Thiên Vương, Ðế Thích Thiên Vương, cho đến Ðại Phạm Thiên Vương đều muốn tới gặp. Tất cả chư Bồ Tát, cho đến tất cả chư Phật không ngày đêm nào mà chẳng hiện tướng báo mộng, tự xưng danh hiệu, xoa đảnh an ủi, khen ngợi, khuyên nhủ các người trai lành gái thảo này.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo này tuy chưa nghe các kinh điển khác, nhưng nhờ nương vào lực oai thần của tam muội này, tự nhiên có người đến chỗ của họ, cho tới hiện trong giấc mộngthuyết pháp cho họ nghe, khiến họ ghi nhớ không quên mất.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu Ta tạm thời nói về công đức mà các người trai lành gái thảo đó thọ trì kinh điển tam muội vi diệu đạt được, thì dù trãi qua muôn số kiếp cũng không thể hết. Trí huệ biện tài của Ta tuy nhiều vô cùng nhưng cũng không thể nói hết, huống gì người trai lành gái thảo nghe tam muội này rồi, y theo lời dạy mà tu hành, và trụ y như chánh pháp.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

“Nếu ai hay giải thích kinh điển
Tam muội chư Phật đại tịch thắng
Dù nay Ta có nói công đức
Như ông nhặt lấy một bụm cát
Nếu hay vì người thuyết tam muội
Chẳng bị chết chìm, lửa chẳng thiêu
Dao gậy độc dược không thể hại
Vua quan ác ôn không thể hại
Nếu hay đọc tụng kinh tam muội
Chẳng sợ tất cả việc khủng khiếp
Như loài rắn độc bọ cạp lớn
Nhờ oai lực kinh diệt hết cả
Nếu có thọ trì kinh điển này
Chẳng sợ tất cả các ngườì ác
Dạ Xoa, La Sát, cùng loài rồng
Chúng quyết không thể hại họ được
Nếu ai thường thủ hộ cúng dường
Nương nơi Lan Nhã làm bạn đạo
Sư tử hổ lang các cầm thú
Tê giác cọp sói cùng dã can
Nếu hay hộ trì tam muội này
Nhờ oai lực kinh, chúng không hại
Xa rời tất cả kẻ tâm xấu
Cùng loài Dạ Xoa hút tinh khí
Nếu hay giải thích tam muội này
Họ không bịnh tật và tai chướng
Sanh ra quả lành không đui mù
Lời nói thanh trong có hùng biện
Nếu ai chứng biết thiền thâm tịch
Thân thể tráng kiện không bịnh hoạn
Suốt đời dứt tuyệt các sắc xấu
Khi chết chẳng sợ đường địa ngục
Nếu ai hay đọc kinh tam muội
Chư thiên loài rồng thường thủ hộ
Dạ Xoa, La Sát cùng oán cừu
Tuy chúng đến hại, chẳng khiếp sợ
Nếu ai giải thích kinh cho người
Trời, rồng, Dạ Xoa đều vui mừng
Chư Thiên ngày đêm thường ca ngợi
Tất cả Phật thương đệ tử này
Nếu ai vì người thường chuyển đọc
Trong tất cả pháp không có nghi
Gương mặt họ không ai sánh bằng
Há lại thối thất Bồ Ðề sao?
Nếu hay chuyển dạy các chúng sanh
Chợt gặp vua ác, nhân dân loạn
Lúc năm hạn hán gạo quý giá
Quyết không khốn khổ hay đói rách
Nếu ai giải thích tam muội này
Tất cả công đức không nghĩ bàn
Giả như ma quấy các chúng sanh
Không thể động họ một lông tóc
Ta trước nói về người trì kinh
Các họa khủng bố cùng phiền não
Quyết không thể gia hại được họ
Chỉ trừ tai ương định nghiệp xưa
Nếu có hộ trì nơi kinh này
Tức sẽ làm trưởng tử của Ta
Ta đã khen ngợi những người này
Trong đời tương lai cũng như thế
Nếu hay hộ trì kinh pháp này
Sẽ tự thường phát tâm vui vẻ
Ðồng cùng tuyên dương chớ xả bỏ
Nay Ta vì ông mà nói rõ”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11631)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11945)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11100)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11340)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12060)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12551)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10761)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17972)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11722)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9942)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10167)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15335)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11238)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14325)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12092)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15356)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11996)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12400)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12084)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12553)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14834)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12675)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16567)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19657)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13104)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12661)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12251)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11842)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10897)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13516)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11944)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11839)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11627)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12761)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14512)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12611)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13620)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12892)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9859)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11161)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13041)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10297)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12184)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15303)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16605)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12212)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11463)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14265)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19696)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14145)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24603)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10679)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant