Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

10. Phẩm Ðầy Ðủ Năm Pháp

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8171)
10. Phẩm Ðầy Ðủ Năm Pháp

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Ðầy Ðủ Năm Pháp, thứ 10

Bấy giờ, Bồ Tát Hiền Hộ từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, cung kính chắp tay, bạch Phật rằng:

-Cúi xin đức Thế Tôn và chư tỳ kheo thương xót chúng con và chúng sanh, ngày mai vào lúc thọ trai, cùng đến nhà con để sự thọ cúng dường.

Ðức Thế Tôn im lặng thọ nhận lời thỉnh mời của Bồ Tát Hiền Hộ. Biết Phật đã nhận lời, Bồ Tát Hiền Hộ đảnh lễ chân Phật, đi nhiễu Phật ba vòng từ bên phải rồi bước ra. Kế đến, Bồ Tát Hiền Hộ lại tới chùa của bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề, đảnh lễ và bạch rằng:

-Xin A Xà Lê và chư tỳ kheo ni thương xót con, ngày mai đến nhà con để thọ sự cúng dường. Lúc đó tỳ kheo ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề im lặng nhận lời. 

Bồ Tát Hiền Hộ biết vị này đã nhận lời nên đảnh lễ rồi lui ra. Sau đó, Bồ Tát Hiền Hộ đến chỗ của Bảo Ðức Ly Xa Tử, rồi nói rằng:

- Này đạo hữu Bảo Đức! Nhờ ông trở về nhà, mời tất cả thân bằng quyến thuộc, thiện tri thức, cùng các cư sĩ nam trong chúng hội này, cho đến tất cả người mới tới thành Vương Xá, và những thành ấp xóm làng khác vì tôi mà mời họ đến nhà tôi thọ thực vào sáng ngày mai.
 
Cư sĩ Bảo Ðức Ly Xa Tử y theo lời của Hiền Hộ, bảo các cư sĩ trong chúng hội, bà con quyến thuộc, v.v… rằng:

-Các nhân giả nên biết, Bồ Tát Hiền Hộ nhờ tôi mời quý vị đến nhà của ông ta dùng cơm vào ngày mai. 

Khi đó, Bồ Tát Hiền Hộ, Bảo Ðức Ly Xa Tử, trưởng giả Thiện Thương Chủ, con của cư sĩ Già Ha Ngập Ða, Na La Ðạt Ða Ma Nạp, trưởng giả Thủy Thiên, cùng tất cả bà con bạn bè tri thức, đảnh lễ chân Phật, trở ra chùa, đến nhà của Bồ Tát Hiền Hộ, cùng với các gia nhân giúp vị này trong tối hôm đó, chuẩn bị tất cả thức ăn thượng vịthế gian, với màu sắc hương vị ngon ngọt, đủ cả trăm vị. Lại cũng thiết đãi cho tất cả những người ăn xin nghèo cùng ở những xứ khác đến, không khác thức ăn của đại chúng. Vì sao? Tâm của chư Bồ Tát không có thương ghét, không khinh khi họ; các ngài đều dùng tâm bình đẳng đối xử tất cả chúng sanh

Lúc ấy, chủ cõi Ta Bà Ðại Phạm Thiên Vương, cho đến Ðao Lợi Thiên Vương, Thích Ðề Hoàn Nhân Thiên Vương, Tứ Ðại Thiên Vương, Ðề Ðầu Lại Tra, v.v…, cùng thiên tử Thiện Ðức và các quyến thuộc đến hỗ trợ, để giúp Bồ Tát Hiền Hộ chóng thành tựu quả Bồ Ðề.

Lúc đó, Bồ Tát Hiền Hộ cùng các quyến thuộc và bạn bè, tri thức quét dọn nhà cửa, cho đến quét dọn đường xá trong thành Vương Xá, nơi nơi đều treo tràng phan bảo cái vi diệu, trần thiết trang nghiêm đầy đủ, lại dùng các loại hương hoa vi diệu rãi trên mặt đất, lại đốt trầm hương thơm bậc nhất ở thế giancúng dường.

Khi đó, Bồ Tát Hiền Hộ chuẩn bị thức ăn thượng diệu và trang nghiêm thành Vương Xá xong, qua sáng hôm sau cùng các quyến thuộc đến chỗ Phật ở, đầu mặt cung kính đảnh lễ, rồi bạch rằng:

-Bạch đức Thế Tôn! Con đã chuẩn bị xong, cúi xin Ngài biết cho.

Lúc ấy, đức Phật vào buổi sáng vì Hiền Hộ, nên mang y bát, cùng vô số đại chúng tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, người vây quanh phải trái đi đến nhà Bồ Tát Hiền Hộ

Khi ấy, Hiền Hộ suy nghĩ rằng: “Nhà mình chật hẹp, không thể chứa nhiều người. Nếu tự không phải do oai lực của đức Thế tôn gia trì, khiến nhà mình biến thành nhà lưu ly rộng lớn, khiến tất cả dân chúng trong thành đều thấy rõ, cũng khiến hàng trời, người, đại chúng đều tùy ý thọ dụng không thiếu, thì chẳng phải sao?”

Bấy giờ, đức Thế Tôn biết tâm niệm đó của Hiền Hộ, liền dùng thần lực khiến ngôi nhà đó trang nghiêm tráng lệ, rộng lớn, tất cả đồ đạc đều biến thành lưu ly, cũng khiến tất cả dân chúng trong thành đều thấy rõ ràng, và khiến đại chúng đều tùy ý thọ dụng

Lúc đó, đức Thế Tôn vào nhà của Hiền Hộ, rồi tùy theo chỗ mà an tường ngồi xuống, cũng khiến tất cả hàng tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, người, A Tu La, tùy theo chỗ mà ngồi.

Lúc ấy, Hiền Hộ, Bảo Đức Ly Xa Tử, Thiện Thương Chủ, con trưởng giả Già Ha Ngật Đa thấy đức Thế Tônbốn chúng trời người đã đều an tọa, liền tự tay bưng thức ăn vi diệu dâng cúng đức Thế Tôn. Sau khi đức Thế Tôn thọ nhận, Ngài lại ban cho bốn chúng đệ tử những thức ăn đó, khiến mỗi người đều được no đủ. Sau khi tất cả đại chúng dùng ngọ, rửa tay, rửa miệng, rửa bát xong, Hiền Hộ liền từ chỗ ngồi riêng đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ chân đức Thế Tôn, rồi lui trở về chỗ ngồi, nhất tâm chiêm ngưỡng.

Khi đó, đức Thế TônBồ Tát Hiền Hộ, Bảo Đức Ly Xa Tử, cư sĩ Thiện Thương Chủ, con trưởng giả Già Ha Ngật Đa, Na La Đạt Đa Ma Nạp, v.v…, cho đến bốn chúng đệ tử trời người, ứng theo căn cơ họ mà thuyết pháp khai đạo ban thí dụ, khiến họ được vui mừng hiểu rõ, sau đó tất cả các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đại chúng trời người đều trở về chỗ cư trú của mình. Sau khi dâng cúng thức ăn xong, Bồ Tát Hiền Hộbà con quyến thuộc, bạn hữu tri thức, cùng trăm ngàn người vây nhiễu xung quanh, đến chỗ đức Thế Tôn, cung kính đảnh lễ, rồi lui về ngồi một bên, quỳ xuống chấp tay, bạch rằng:

-Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát đầy đủ pháp gì sẽ hay chứng tam muội Hiện Tiền này?

Phật bảo:
-Này Hiền Hộ! Bồ Tát nếu hay thành tựu năm pháp thì sẽ đắc được tam muội Hiện Tiền đó. Năm pháp đó là gì?

1/ Đầy đủ hạnh nhẫn nhục thâm sâu, diệt trừ hết tất cả phiền não.
2/ Thật không có cái gì hết tận, không có chỗ hết tận.
3/ Gốc vốn không có dùng tâm loạn để diệt trừ các sự tán loạn.
4/ Gốc vốn không có cấu uế để diệt trừ các cấu uế.
5/ Gốc vốn không có các bụi trần để diệt trừ các bụi trần.
Này Hiền Hộ! Đó là đại Bồ Tát thành tựu hạnh Vô Sanh Pháp Nhẫn, mà hay đắc được tam muội Hiện Tiền này.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát cũng có năm pháp hay đắc được tam muội đó.
1/ Chán ghét thâm sâu các cõi, chẳng thọ các hành.
2/ Sanh ra bất cứ chỗ nào đều niệm nhớ tâm Bồ Đề.
3/ Nơi sanh ra thường gặp chư Phật.
4/ Quyết chẳng đắm trước các ấm, giới, nhập.
5/ Quyết chẳng đắm trước thọ nhận những sự ái dục vui thú.

Này Hiền Hộ! Đó là đại Bồ Tát thành tựu năm pháp này thì đắc được tam muội Hiện Tiền.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát lại có năm pháp hay đắc được tam muội đó.

1/ Thường nên suy gẫm nghĩ nhớ tâm vô biên tế.
2/ Thường hay khéo nhập thiền định suy tư.
3/ Phân biệt suy tư tất cả các pháp.
4/ Đối với chúng sanh không có tâm tranh chấp.
5/ Thường dùng Bốn Pháp Nhiếp Thọ, như Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, Đồng Sự, để tiếp độ chúng sanh.
Này Hiền Hộ! Đó là đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ năm pháp này thì đắc được tam muội Hiện Tiền.

Này Hiền Hộ! Bồ Tát cũng có năm pháp hay khiến thành tựu tam muội đó.
1/ Thường hành tâm từ đối với chúng sanh.
2/ Trong tất cả thời, thường niệm nhớ tu hạnh thánh hiền.
3/ Thường hành hạnh nhẫn nhục. Thấy kẻ phá giới khởi tâm kính trọng thương xót
4/ Ở nơi các bậc Hòa Thượng, A Xà Lê của mình không tự khoe sự chứng đắc.
5/ Ở mọi nơi đều không dám khinh người khác.
Này Hiền Hộ! Đó là đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ năm pháp hay chứng tam muội Hiện Tiền.

Này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát lại có năm pháp hay thành tựu tam muội Hiện Tiền.
1/ Thường y theo thánh giáo, như lời dạy mà hành trì.
2/ Thanh tịnh ý nghiệp, diệt thân khẩu xấu ác.
3/ Thanh tịnh giới hạnh, đoạn trừ các kiến chấp.
4/ Thường cầu đa văn, tin sâu các điều lành.
5/ Thường niệm nhớ đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.
Này Hiền Hộ! Đó là đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ năm pháp, chứng đắc tam muội Hiện Tiền.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát cũng có năm pháp hay chứng tam muội Hiện Tiền.

1/ Thường hành đại thí, hay làm thí chủ, không khởi tâm tham lam keo kiết, tâm không ganh ghét, thường có tâm bố thí rộng rãi, chân thuần chất trực, không cong vạy; đối với các vị sa môn, bà la môn, người nghèo, cô độc, ăn xin đều thương mến, bố thí cúng dường tất cả đồ vật thượng diệu thù thắng, như là tất cả đồ ăn uống vi diệu, y phục phòng xá cao sang bậc nhất, các loại đèn đuốc hoa hương; đối với tất cả vật dụng đều xả được hết; tuy thường hành bố thí mà chẳng cầu quả báo; thương xót tất cả chúng sanh không có tâm nghi ngờ; bố thí xong tâm không hối hận.

2/ Thường làm thí chủ, hành pháp thí, tức là thường thuyết pháp cho chúng sanh, đó gọi là pháp đệ nhất, tối thượng, tối thắng, tối diệu, tối thanh tịnh; lúc tu hành pháp lớn như thế hay diễn nói tất cả văn nghĩa tương ưng theo thứ lớp chẳng dứt, biện tài vô ngại; đối với hết thảy pháp thậm thâm của đức Như Lai đều hay an trụ thành tựu pháp nhẫn; hoặc lúc bị người khác chửi mắng lăng mạ phỉ nhổ đánh đập quyết không có tâm sân hận độc hại cấu uế; cũng không khinh sợ các khổ não, mà tâm vô úy, thường hoài hoan hỷ.

3/ Lúc được nghe người khác thuyết về tam muội này, chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, biên chép, suy tư nghĩa lý đó, vì người khác mà rộng nói phân biệt giải thích, khiến pháp này được trụ ở thế gian dài lâu; quyết không giữ bí mật khiến pháp này bị diệt mất.

4/ Thường không có tâm ganh ghét, xa rời các sự phiền não, xả bỏ các triền cái trói buộc, đoạn trừ bụi trần, chẳng tự khen mình, cũng chẳng chê người.

5/ Đối với tất cả chư Phật, tâm thường tín phục kính trọng; đối với các bậc sư trưởng thường hành cung kính nể sợ; đối với các vị thiện tri thức thường sanh tâm tàm quý hỗ thẹn; đối với những người nhỏ bé ngây thơ, thường nghĩ nhớ thương xót; cho đến dù thọ ân nhỏ nhưng vẫn nghĩ cách đền đáp, huống gì có mang ơn nặng với người khác mà lại dám quên đi; thường giữ lời chân thật, chưa từng nói láo.

Này Hiền Hộ! Đó là đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ năm pháp thì chứng đắc tam muội Hiện Tiền

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Nếu nơi pháp sâu tâm vui thích
Chán lìa tất cả các loài sau
Bậc trí chẳng nguyện ở mọi đời
Nếu hay đắc tam muội như thế
Chẳng dùng hết thảy luận ngoại đạo
Cho đến lời nói chẳng nghe lấy
Mãi đoạn trừ năm dục thế gian
Nếu hay chứng tam muội như thế
Trì giới thanh tịnh trụ phạm hạnh
Nơi sanh chẳng nghĩ các người nữ
Chán sâu năm dục, chân Phật tử
Nếu hay chứng tam muội như thế
Thường hành đại thí chẳng cầu báo
Cũng không trụ trước tâm hối hận
Đã xả rồi không trọng duyên đó
Chỉ sẽ nhiếp niệm suy tư Phật
Thương xót chúng sanh, lúc bố thí
Quyết định trừ nghi, không thối hóa
An trụ điều nhu mà tu thí
Nếu hay đắc tam muội như thế
Đối với tài thí làm đại chủ
Không có tâm kiêu mạn ganh ghét
Hành tất cả thí, thường hân hoan
Nếu hay đắc tam muội như thế
Lại với pháp thí làm thượng thủ
Khéo giải thích kinh điển vi diệu
Hay biết pháp thâm sâu tịch tĩnh
Nếu hay đắc tam muội như thế
An trụ trong các pháp thâm sâu
Hay khéo kham nhẫn không đố kỵ
Tuy bị mắng chửi, chẳng buồn giận
Nếu hay đắc tam muội như thế
Hoặc lúc được nghe kinh điển này
Viết chép đọc tụng rộng tuyên nói
Chỉ vì pháp trụ lợi thế gian
Nếu hay đắc được tam muội như thế
Chẳng che giấu các Phật pháp đó
Chẳng cầu lợi dưỡng danh tiếng
Chỉ vì hưng long hạt giống Phật
Nếu hay chứng được tam muội này
Xa rời ngủ nghỉ và buồn khổ
Đoạn trừ ganh tỵtriền cái
Chẳng tự khen mình, chê trách người
Hay diệt ngã tướng đắc tam muội
Chánh tín chư Phật, Pháp, và Tăng
Thường hành thành tâm không giả dối
Chẳng quên tất cả các ân đức
Người kia chứng tam muội không khó
Nếu hay nói thật không láo phét
Tất cả các hạnh đều không mất đi
Việc làm tuy được quả báo rộng
Với pháp chứng đắc không chướng ngại
Nếu có ai đủ các pháp này
Trì giới thanh tịnh, nhớ các ơn
Kia đắc Bồ Đề nào khó khăn
Huống gì được định vi diệu sâu”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11613)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11923)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11091)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12052)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10744)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9933)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10160)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12337)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15323)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14313)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12075)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15313)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11986)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12065)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10594)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12542)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13145)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14775)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12639)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16525)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19623)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13095)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12644)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12233)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11818)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10879)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13471)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11928)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11830)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11619)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14493)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15650)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13596)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12876)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9850)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17994)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11147)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9054)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13030)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10284)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12173)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15284)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16577)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12186)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11449)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14253)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19658)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24567)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10667)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant