Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

10. Phẩm Ðầy Ðủ Năm Pháp

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8174)
10. Phẩm Ðầy Ðủ Năm Pháp

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Ðầy Ðủ Năm Pháp, thứ 10

Bấy giờ, Bồ Tát Hiền Hộ từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, cung kính chắp tay, bạch Phật rằng:

-Cúi xin đức Thế Tôn và chư tỳ kheo thương xót chúng con và chúng sanh, ngày mai vào lúc thọ trai, cùng đến nhà con để sự thọ cúng dường.

Ðức Thế Tôn im lặng thọ nhận lời thỉnh mời của Bồ Tát Hiền Hộ. Biết Phật đã nhận lời, Bồ Tát Hiền Hộ đảnh lễ chân Phật, đi nhiễu Phật ba vòng từ bên phải rồi bước ra. Kế đến, Bồ Tát Hiền Hộ lại tới chùa của bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề, đảnh lễ và bạch rằng:

-Xin A Xà Lê và chư tỳ kheo ni thương xót con, ngày mai đến nhà con để thọ sự cúng dường. Lúc đó tỳ kheo ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề im lặng nhận lời. 

Bồ Tát Hiền Hộ biết vị này đã nhận lời nên đảnh lễ rồi lui ra. Sau đó, Bồ Tát Hiền Hộ đến chỗ của Bảo Ðức Ly Xa Tử, rồi nói rằng:

- Này đạo hữu Bảo Đức! Nhờ ông trở về nhà, mời tất cả thân bằng quyến thuộc, thiện tri thức, cùng các cư sĩ nam trong chúng hội này, cho đến tất cả người mới tới thành Vương Xá, và những thành ấp xóm làng khác vì tôi mà mời họ đến nhà tôi thọ thực vào sáng ngày mai.
 
Cư sĩ Bảo Ðức Ly Xa Tử y theo lời của Hiền Hộ, bảo các cư sĩ trong chúng hội, bà con quyến thuộc, v.v… rằng:

-Các nhân giả nên biết, Bồ Tát Hiền Hộ nhờ tôi mời quý vị đến nhà của ông ta dùng cơm vào ngày mai. 

Khi đó, Bồ Tát Hiền Hộ, Bảo Ðức Ly Xa Tử, trưởng giả Thiện Thương Chủ, con của cư sĩ Già Ha Ngập Ða, Na La Ðạt Ða Ma Nạp, trưởng giả Thủy Thiên, cùng tất cả bà con bạn bè tri thức, đảnh lễ chân Phật, trở ra chùa, đến nhà của Bồ Tát Hiền Hộ, cùng với các gia nhân giúp vị này trong tối hôm đó, chuẩn bị tất cả thức ăn thượng vịthế gian, với màu sắc hương vị ngon ngọt, đủ cả trăm vị. Lại cũng thiết đãi cho tất cả những người ăn xin nghèo cùng ở những xứ khác đến, không khác thức ăn của đại chúng. Vì sao? Tâm của chư Bồ Tát không có thương ghét, không khinh khi họ; các ngài đều dùng tâm bình đẳng đối xử tất cả chúng sanh

Lúc ấy, chủ cõi Ta Bà Ðại Phạm Thiên Vương, cho đến Ðao Lợi Thiên Vương, Thích Ðề Hoàn Nhân Thiên Vương, Tứ Ðại Thiên Vương, Ðề Ðầu Lại Tra, v.v…, cùng thiên tử Thiện Ðức và các quyến thuộc đến hỗ trợ, để giúp Bồ Tát Hiền Hộ chóng thành tựu quả Bồ Ðề.

Lúc đó, Bồ Tát Hiền Hộ cùng các quyến thuộc và bạn bè, tri thức quét dọn nhà cửa, cho đến quét dọn đường xá trong thành Vương Xá, nơi nơi đều treo tràng phan bảo cái vi diệu, trần thiết trang nghiêm đầy đủ, lại dùng các loại hương hoa vi diệu rãi trên mặt đất, lại đốt trầm hương thơm bậc nhất ở thế giancúng dường.

Khi đó, Bồ Tát Hiền Hộ chuẩn bị thức ăn thượng diệu và trang nghiêm thành Vương Xá xong, qua sáng hôm sau cùng các quyến thuộc đến chỗ Phật ở, đầu mặt cung kính đảnh lễ, rồi bạch rằng:

-Bạch đức Thế Tôn! Con đã chuẩn bị xong, cúi xin Ngài biết cho.

Lúc ấy, đức Phật vào buổi sáng vì Hiền Hộ, nên mang y bát, cùng vô số đại chúng tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, người vây quanh phải trái đi đến nhà Bồ Tát Hiền Hộ

Khi ấy, Hiền Hộ suy nghĩ rằng: “Nhà mình chật hẹp, không thể chứa nhiều người. Nếu tự không phải do oai lực của đức Thế tôn gia trì, khiến nhà mình biến thành nhà lưu ly rộng lớn, khiến tất cả dân chúng trong thành đều thấy rõ, cũng khiến hàng trời, người, đại chúng đều tùy ý thọ dụng không thiếu, thì chẳng phải sao?”

Bấy giờ, đức Thế Tôn biết tâm niệm đó của Hiền Hộ, liền dùng thần lực khiến ngôi nhà đó trang nghiêm tráng lệ, rộng lớn, tất cả đồ đạc đều biến thành lưu ly, cũng khiến tất cả dân chúng trong thành đều thấy rõ ràng, và khiến đại chúng đều tùy ý thọ dụng

Lúc đó, đức Thế Tôn vào nhà của Hiền Hộ, rồi tùy theo chỗ mà an tường ngồi xuống, cũng khiến tất cả hàng tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, người, A Tu La, tùy theo chỗ mà ngồi.

Lúc ấy, Hiền Hộ, Bảo Đức Ly Xa Tử, Thiện Thương Chủ, con trưởng giả Già Ha Ngật Đa thấy đức Thế Tônbốn chúng trời người đã đều an tọa, liền tự tay bưng thức ăn vi diệu dâng cúng đức Thế Tôn. Sau khi đức Thế Tôn thọ nhận, Ngài lại ban cho bốn chúng đệ tử những thức ăn đó, khiến mỗi người đều được no đủ. Sau khi tất cả đại chúng dùng ngọ, rửa tay, rửa miệng, rửa bát xong, Hiền Hộ liền từ chỗ ngồi riêng đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ chân đức Thế Tôn, rồi lui trở về chỗ ngồi, nhất tâm chiêm ngưỡng.

Khi đó, đức Thế TônBồ Tát Hiền Hộ, Bảo Đức Ly Xa Tử, cư sĩ Thiện Thương Chủ, con trưởng giả Già Ha Ngật Đa, Na La Đạt Đa Ma Nạp, v.v…, cho đến bốn chúng đệ tử trời người, ứng theo căn cơ họ mà thuyết pháp khai đạo ban thí dụ, khiến họ được vui mừng hiểu rõ, sau đó tất cả các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đại chúng trời người đều trở về chỗ cư trú của mình. Sau khi dâng cúng thức ăn xong, Bồ Tát Hiền Hộbà con quyến thuộc, bạn hữu tri thức, cùng trăm ngàn người vây nhiễu xung quanh, đến chỗ đức Thế Tôn, cung kính đảnh lễ, rồi lui về ngồi một bên, quỳ xuống chấp tay, bạch rằng:

-Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát đầy đủ pháp gì sẽ hay chứng tam muội Hiện Tiền này?

Phật bảo:
-Này Hiền Hộ! Bồ Tát nếu hay thành tựu năm pháp thì sẽ đắc được tam muội Hiện Tiền đó. Năm pháp đó là gì?

1/ Đầy đủ hạnh nhẫn nhục thâm sâu, diệt trừ hết tất cả phiền não.
2/ Thật không có cái gì hết tận, không có chỗ hết tận.
3/ Gốc vốn không có dùng tâm loạn để diệt trừ các sự tán loạn.
4/ Gốc vốn không có cấu uế để diệt trừ các cấu uế.
5/ Gốc vốn không có các bụi trần để diệt trừ các bụi trần.
Này Hiền Hộ! Đó là đại Bồ Tát thành tựu hạnh Vô Sanh Pháp Nhẫn, mà hay đắc được tam muội Hiện Tiền này.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát cũng có năm pháp hay đắc được tam muội đó.
1/ Chán ghét thâm sâu các cõi, chẳng thọ các hành.
2/ Sanh ra bất cứ chỗ nào đều niệm nhớ tâm Bồ Đề.
3/ Nơi sanh ra thường gặp chư Phật.
4/ Quyết chẳng đắm trước các ấm, giới, nhập.
5/ Quyết chẳng đắm trước thọ nhận những sự ái dục vui thú.

Này Hiền Hộ! Đó là đại Bồ Tát thành tựu năm pháp này thì đắc được tam muội Hiện Tiền.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát lại có năm pháp hay đắc được tam muội đó.

1/ Thường nên suy gẫm nghĩ nhớ tâm vô biên tế.
2/ Thường hay khéo nhập thiền định suy tư.
3/ Phân biệt suy tư tất cả các pháp.
4/ Đối với chúng sanh không có tâm tranh chấp.
5/ Thường dùng Bốn Pháp Nhiếp Thọ, như Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, Đồng Sự, để tiếp độ chúng sanh.
Này Hiền Hộ! Đó là đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ năm pháp này thì đắc được tam muội Hiện Tiền.

Này Hiền Hộ! Bồ Tát cũng có năm pháp hay khiến thành tựu tam muội đó.
1/ Thường hành tâm từ đối với chúng sanh.
2/ Trong tất cả thời, thường niệm nhớ tu hạnh thánh hiền.
3/ Thường hành hạnh nhẫn nhục. Thấy kẻ phá giới khởi tâm kính trọng thương xót
4/ Ở nơi các bậc Hòa Thượng, A Xà Lê của mình không tự khoe sự chứng đắc.
5/ Ở mọi nơi đều không dám khinh người khác.
Này Hiền Hộ! Đó là đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ năm pháp hay chứng tam muội Hiện Tiền.

Này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát lại có năm pháp hay thành tựu tam muội Hiện Tiền.
1/ Thường y theo thánh giáo, như lời dạy mà hành trì.
2/ Thanh tịnh ý nghiệp, diệt thân khẩu xấu ác.
3/ Thanh tịnh giới hạnh, đoạn trừ các kiến chấp.
4/ Thường cầu đa văn, tin sâu các điều lành.
5/ Thường niệm nhớ đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.
Này Hiền Hộ! Đó là đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ năm pháp, chứng đắc tam muội Hiện Tiền.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát cũng có năm pháp hay chứng tam muội Hiện Tiền.

1/ Thường hành đại thí, hay làm thí chủ, không khởi tâm tham lam keo kiết, tâm không ganh ghét, thường có tâm bố thí rộng rãi, chân thuần chất trực, không cong vạy; đối với các vị sa môn, bà la môn, người nghèo, cô độc, ăn xin đều thương mến, bố thí cúng dường tất cả đồ vật thượng diệu thù thắng, như là tất cả đồ ăn uống vi diệu, y phục phòng xá cao sang bậc nhất, các loại đèn đuốc hoa hương; đối với tất cả vật dụng đều xả được hết; tuy thường hành bố thí mà chẳng cầu quả báo; thương xót tất cả chúng sanh không có tâm nghi ngờ; bố thí xong tâm không hối hận.

2/ Thường làm thí chủ, hành pháp thí, tức là thường thuyết pháp cho chúng sanh, đó gọi là pháp đệ nhất, tối thượng, tối thắng, tối diệu, tối thanh tịnh; lúc tu hành pháp lớn như thế hay diễn nói tất cả văn nghĩa tương ưng theo thứ lớp chẳng dứt, biện tài vô ngại; đối với hết thảy pháp thậm thâm của đức Như Lai đều hay an trụ thành tựu pháp nhẫn; hoặc lúc bị người khác chửi mắng lăng mạ phỉ nhổ đánh đập quyết không có tâm sân hận độc hại cấu uế; cũng không khinh sợ các khổ não, mà tâm vô úy, thường hoài hoan hỷ.

3/ Lúc được nghe người khác thuyết về tam muội này, chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, biên chép, suy tư nghĩa lý đó, vì người khác mà rộng nói phân biệt giải thích, khiến pháp này được trụ ở thế gian dài lâu; quyết không giữ bí mật khiến pháp này bị diệt mất.

4/ Thường không có tâm ganh ghét, xa rời các sự phiền não, xả bỏ các triền cái trói buộc, đoạn trừ bụi trần, chẳng tự khen mình, cũng chẳng chê người.

5/ Đối với tất cả chư Phật, tâm thường tín phục kính trọng; đối với các bậc sư trưởng thường hành cung kính nể sợ; đối với các vị thiện tri thức thường sanh tâm tàm quý hỗ thẹn; đối với những người nhỏ bé ngây thơ, thường nghĩ nhớ thương xót; cho đến dù thọ ân nhỏ nhưng vẫn nghĩ cách đền đáp, huống gì có mang ơn nặng với người khác mà lại dám quên đi; thường giữ lời chân thật, chưa từng nói láo.

Này Hiền Hộ! Đó là đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ năm pháp thì chứng đắc tam muội Hiện Tiền

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Nếu nơi pháp sâu tâm vui thích
Chán lìa tất cả các loài sau
Bậc trí chẳng nguyện ở mọi đời
Nếu hay đắc tam muội như thế
Chẳng dùng hết thảy luận ngoại đạo
Cho đến lời nói chẳng nghe lấy
Mãi đoạn trừ năm dục thế gian
Nếu hay chứng tam muội như thế
Trì giới thanh tịnh trụ phạm hạnh
Nơi sanh chẳng nghĩ các người nữ
Chán sâu năm dục, chân Phật tử
Nếu hay chứng tam muội như thế
Thường hành đại thí chẳng cầu báo
Cũng không trụ trước tâm hối hận
Đã xả rồi không trọng duyên đó
Chỉ sẽ nhiếp niệm suy tư Phật
Thương xót chúng sanh, lúc bố thí
Quyết định trừ nghi, không thối hóa
An trụ điều nhu mà tu thí
Nếu hay đắc tam muội như thế
Đối với tài thí làm đại chủ
Không có tâm kiêu mạn ganh ghét
Hành tất cả thí, thường hân hoan
Nếu hay đắc tam muội như thế
Lại với pháp thí làm thượng thủ
Khéo giải thích kinh điển vi diệu
Hay biết pháp thâm sâu tịch tĩnh
Nếu hay đắc tam muội như thế
An trụ trong các pháp thâm sâu
Hay khéo kham nhẫn không đố kỵ
Tuy bị mắng chửi, chẳng buồn giận
Nếu hay đắc tam muội như thế
Hoặc lúc được nghe kinh điển này
Viết chép đọc tụng rộng tuyên nói
Chỉ vì pháp trụ lợi thế gian
Nếu hay đắc được tam muội như thế
Chẳng che giấu các Phật pháp đó
Chẳng cầu lợi dưỡng danh tiếng
Chỉ vì hưng long hạt giống Phật
Nếu hay chứng được tam muội này
Xa rời ngủ nghỉ và buồn khổ
Đoạn trừ ganh tỵtriền cái
Chẳng tự khen mình, chê trách người
Hay diệt ngã tướng đắc tam muội
Chánh tín chư Phật, Pháp, và Tăng
Thường hành thành tâm không giả dối
Chẳng quên tất cả các ân đức
Người kia chứng tam muội không khó
Nếu hay nói thật không láo phét
Tất cả các hạnh đều không mất đi
Việc làm tuy được quả báo rộng
Với pháp chứng đắc không chướng ngại
Nếu có ai đủ các pháp này
Trì giới thanh tịnh, nhớ các ơn
Kia đắc Bồ Đề nào khó khăn
Huống gì được định vi diệu sâu”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12470)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10342)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12321)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11621)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28775)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12024)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12982)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11428)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17426)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52983)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35459)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10664)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19210)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12385)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25994)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13296)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14345)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16063)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13711)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16816)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17536)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13105)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12508)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11590)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11579)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14480)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20411)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18937)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19521)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18603)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12166)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13830)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14981)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15022)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13964)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15502)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11376)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17138)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14941)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20164)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14594)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13808)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11680)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15028)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12973)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22836)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14536)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11630)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13144)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16849)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18317)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11484)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15823)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12857)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18882)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18387)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant