- 01. Phẩm Tự
- 02. Phẩm Thuần Đà
- 03. Phẩm Ai Thán
- 04. Phẩm Trường Thọ
- 05. Phẩm Kim Cang Thân
- 06. Phẩm Danh Tự Công Đức
- 07. Phẩm Tứ Tướng
- 08. Phẩm Tứ Y
- 09. Phẩm Tà Chánh
- 10. Phẩm Tứ Đế
- 11. Phẩm Tứ Đảo
- 12. Phẩm Như Lai Tánh
- 13. Phẩm Văn Tự
- 14. Phẩm Điểu Dụ
- 15. Phẩm Nguyệt Dụ
- 16. Phẩm Bồ Tát
- 17. Phẩm Đại Chúng Vấn
- 18. Phẩm Hiện Bịnh
- 19. Phẩm Thánh Hạnh
- 20. Phẩm Phạm Hạnh
- 21. Phẩm Anh Nhi Hạnh
- 22. Phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát
- 23. Phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát
- 24. Phẩm Ca Diếp Bồ Tát
- 25. Phẩm Kiều Trần Như
- 26. Phẩm Di Giáo
- 27. Phẩm Ứng Tận Hườn Nguyên
- 28. Phẩm Trà Tỳ
- 29. Phẩm Cúng Dường Xá Lợi
Dịch Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Tịnh Xá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
PHẨM THUẦN ĐÀ THỨ HAI
(Hán bộ phần đầu quyển thứ hai)
Bấy giờ trong đại hội có vị ưu-bà-tắc, con nhà thợ thuyền trong thành Câu-Thi-Na, tên là Thuần- Đà cùng với mười lăm bạn đồng nghiệp, vì muốn đem qủa lành đến cho người đời nên đến trước Phật, quỳ gối chắp tay cúi lạy chơn Phật, buồn khóc rơi lệ, bạch rằng : “Ngửa mong đức Thế- Tôn và Tỳ-Kheo-Tăng thương xót nhận phần cúng dường cuối cùng của chúng con, cho vô-lượng chúng sanh được độ.
Bạch Thế-tôn! Chúng con từ nay nghèo cùng đói khổ không ai cứu giúp, không nơi nương nhờ, muốn xin phước lộc tương lai ở Đức thế-Tôn (17). Cúi xin xót thương nhận chút lễ mọn rồi sẽ nhập Niết-bàn. Bạch Thế-Tôn ! Ví như có người nghèo cùng đến xứ xa lạ ra sức làm ruộng, đặng trâu cày giỏi, ruộng đất tốt màu, bằng phẳng sạch cỏ, chỉ còn chờ trời mưa. Trâu giỏi dụ cho bảy nghiệp của thân và miệng, ruộng tốt bằng phẳng dụ cho trí huệ, sạch cỏ dụ cho trừ sạch phiền não. Bạch Thế-tôn ! Nay đây con đã có trâu giỏi ruộng tốt sạch cỏ, chỉ còn trông chờ trận mưa pháp cam-lồ của Như-Lai. Người nghèo kia chính là con đây,nghèo nơi của báu pháp-bảo vô-thượng. Ngửa mong xót thương dứt trừ sự nghèo cùng khốn khổ của chúng con và cả vô-lượng chúng-sanh. Cúng phẩm của con dầu kém mọn, cũng mong đức Như-Lai và chư Tăng dùng được đủ. Ngày nay con không nơi nương nhờ, không ai nâng đỡ, xin đức Thế-tôn rủ lòng thương xót coi con như La-Hầu-La (18).
Đức Thế-Tôn, bực nhứt-thiết chủng- trí vô- thượng điều-ngự, bảo Thuần-Đà rằng Lành thay! Lành thay ! Hôm nay Như-Lai trừ sự nghèo cùng cho ông, mưa pháp vô-thượng xuống cho ruộng thân tâm ông mọc mầm pháp. Ông muốn cầu thọ-mạng, sắc, lực, an-lạc vô ngại, biện-tài nơi Như-Lai. Như-Lai sẽ ban cho ông các thứ ấy. “Thuần-Đà! Thí- thực có hai, đồng một quả báo; một là thọ xong liền chứng vô- thượng chánh-đẳng chánh-gíac, hai là thọ xong liền nhập Niết-Bàn. Hôm nay Như-Lai nhận phần cúng dường cuối cùng của ông, cho ông đầy đủ bố-thí ba-la-mật” 19).
Thuần-Đà
liền bạch Phật rằng ;” Như Đức Thế-Tôn vừa dạy rằng
hai lúc cúng-thí quả-báo đồng nhau, theo ý con nghĩ, e rằng
không đúng ngĩa. Vì vị thọ-thí trước là bực chưa sạch
phiền não, chưa chứng nhứt-thiết-chủng-trí (20) cũng chưa
có thể làm cho chúng sanh đầy đủ bố-thí ba-la-mật. Còn
vị thọ thí sau là bực nhứt-thiết chủng-trí, đã sạch
phiền-não, có thể làm cho khắp chúng sanh đầy đủ bố-thí-ba-la-mật.
Vị
thọ-thí trước còn là chúng sanh, vị thọ-thí sau là bực
trời trong các trời. Vị thọ-thí trước là thân tạp-thực,
thân phiền-não, thân vô-thường cuối cùng; vị thọ-thí
sau là thân kim-cang không phiền- não, là pháp-thân chơn-thường
vô cùng. Sao lại cho rằng hai sự cúng-thí quả báo đồng
nhau ?
Vị
thọ thí trước chưa được đầy đủ đàn-ba-la-mật nhẫn
đến bát-nhã ba-la-mật, chỉ có nhục nhãn chưa có huệ nhãn
nhẫn đến Phật-nhãn (21). Vị thọ thí sau đã được đầy
đủ cả sáu ba-la-mật nhẫn đến Phật-nhãn. Sao lại cho rằng
hai sự cúng-thí được quả-báo đồng nhau?
Bạch đức Thế-Tôn ! Vị thọ-thí trước, thọ xong ăn nuốt vào
bụng tiêu hóa đặng sống còn, đặng sức khỏe, xinh đẹp,
an vui, vô-ngại-biện. Vị thọ thí sau chẳng ăn chẳng tiêu,
không năm sự quả. Sao lại cho rằng hai sự cúng thí được
quả báo đồng nhau?”
Đức
Phật phán ;” Thuần-Đà! Như-lai đã từ vô-lượng vô-biên
vô số kiếp (22) không có những thân ăn uống, thân phiền
não, thân sau cùng, mà là thân chân-thường, thân kim- cang,
là pháp- thân.
Thuần-Đà
! Người chưa thấy Phật- tánh gọi là thân tạp-thực, phiền
mão, cuối cùng. Lúc đó Bồ-tát thọ đồ ăn uống rồi nhập
kim-cang tam-muội, đồ ăn tiêu hóa xong liền thấy Phật-tánh,
chứng vô- thượng chánh đẳng chánh giác. Vì lẽ ấy nên
Như-Lai nói hai sự cúng-thí được quả báo đồng nhau.
Lúc
thành đạo, Bồ-tát phá hoại bốn ma (23), nay nhập Niết-bàn
cũng phá hoạI bốn ma , nên Như-Lai nói hai quả-báo không sai
khác.
Lúc
trước dẫu Bồ-tát chẳng rộng giảng-diễn mười hai bộ
kinh nhưng đã thông đạt rồi, nay nhập Niết- bàn rộng vì
chúng sanh phân biệt giảng dạy. Vì thế nên Như-Lai nói hai
quả báo đồng nhau.
Thuần-Đà
! Thân của Như-Lai đã từ vô-lượng vô số kiếp chẳng thọ
sự ăn uống. Vì hàng Thanh-Văn mà nói rằng trước thọ
cháo sửa của hai nàng chăn bò là Nan-Đà và Nan- Đà Ba- La,
rồi sau mới chứng quả vô- thượng chánh-giác, nhưng chính
thiệt Như-Lai không ăn. Hôm nay vì đại-chúng trong hội nầy,
mà Như-Lai nhận sự cúng dường cuối cùng của ông dưng.
thiệt ra Như-Lai không ăn”.
Đại-chúng
nghe đức Thế-Tôn khắp vì đại-hội mà nhận sự cúng dường
cuối cùng của Thuần-Đà, đều vui mừng hớn hở. Đồng
rập tiếng khen rằng : Lành thay ! Lành thay ! Hi hữu thay cho
Thuần- Đà ! Thiệt ông không uổng tên là Thuần-Đà. Vì hai
chữ Thuần-Đà là “hiểu diệu-nghĩa”. Ông nay kiến lập
diệu-nghĩa như thế, cứ nghĩa đặt tên gọi là Thuần-Đà.
Hiện đời đây ông được đầy đu ûcả danh tiếng, tài
lợi, đức hạnh, chí nguyện. Rất lạ cho ông Thuần-Đà !
Sanh trong loài người lại được quả lành vô- thượng rất
khó đươc. Lành thay cho Thuần-Đà ! Trong đời khó có người
thứ hai. khác nào hoa Ưu-Đàm. Đức Phật ra đời là rất
khó. Gặp Phật sanh lòng tin, được nghe chánh pháp,
lại là rất khó. Đức Phật sắp nhập Niết-Bàn, thỉnh được
đức Phật nhận phần cúng dường cuối cùng lại càng khó
hơn.
Nam-mô
Thuần-Đà ! Nam-mô Thuần-Đàø ! Nay ông đã đầy đủ bố-thí
ba-la-mật. Đại chúng liền nói kệ rằng :
Ông
dầu sanh nhơn đạo
Đã
siêu trời thứ sáu
Tôi
cùng tất cả chúng
Nay
xin yêu cầu ông :
Đấng
tối-thắng trong người
Nay
sẽ nhập Niết-bàn,
Ông
nên thương chúng tôi
Xin
kíp thỉnh đức Phật
Ở
lâu lại thế gian
Diễn
thuyết pháp vô-thượng
Mà
bực trí tán thán
Hầu
lợi ích chúng sanh.
Nếu
ông không thỉnh Phật
Mạng
tôi ắt khó toàn
Ông
nên vì chúng tôi
Đãnh
lễ đức Điều-Ngự.
Thuần-Đà
vui mừng hớn hở như người có cha mẹ vừa chết bỗng sống
lại. Ông đãng lễ Phật mà nói kệ rằng :
Vui
thay được lợi mình !
Khéo
thọ nơi thân người
Dẹp
trừ tham sân si
Thoát
hẳn ba ác đạo (24)
Thích
thay được lợi mình !
Được
gặp kho vàng báu
Gặp
gỡ đức Điều-Ngự
Chẳng
sợ đọa súc sanh
Phật
như hoa Ưu-Đàm (25)
Khó
gặp gỡ tin kính
Gặp
rồi trồng căn lành
Dứt
hẳn khổ ngạ-quỷ,
Laị
cũng hay tổn giãm
Chủng
loại A-Tu-La.
Hột
cải ghim đầu kim (26)
Phật
ra đời khó hơn,
Tôi
đã đủ đàn độ (27)
Độ
thiên nhơn sanh tử.
Phật
chẳng nhiễm việc đời
Như
hoa sen ở nước
Khéo
dứt giống tam-giới (28)
Thoát
hẳn giòng sanh tử,
Sanh
làm người là khó
Gặp
đời Phật cũng khó
Dường
như trong biển lớn
Rùa
mù gặp bọng cây.
Nay
tôi dưng thực phẩm
Nguyện
đặng báo vô thượng
Xô
phá phiền –não kiết
Tất
cả không bền chắc.
Nay
tôi ở nơi đây
Chẳng
cầu thân nhơn thiên
Dầu
có được thân ấy
Cũng
không lòng ham thích
Được
Phật nhận cúng phẩm
Con
vui sướng không lường
Khác
nào bông Y-Lan (29)
Ngát
mùi hương chiên đàn.
Thân
tôi như Y-Lan
Thế-Tôn
nhận cúng phẩm
Như
ngát hương chiên đàn
Vì
thế tôi vui mừng.
Tôi
nay được hiện báu
Chỗ
tối-thắng thượng-diệu
Đế-Thích
cùng Phạm-Thiên (30)
Đều
đến cúng dường tôi,
Tất
cả các thế gian
Đều
sanh lòng buồn khổ
Vì
biết Phật Thế-tôn
Muốn
nhập đại-niết-bàn
Đồng
cất tiếng xướng to :
Đời
sẽ không Điều-Ngự
Chẳng
nên bỏ chúng sanh
Phải
xem như con một
Phật
ở giữa chư tăng
Diễn
thuyết pháp vô thượng
Như
núi báu Tu-di
Cao
vọi giữa biển cả.
Trí
Phật vay khéo dứt
Tối
vô-minh của tôi
Dường
như giữa hư không
Mây
nổi đặng mát mẻ
Như
–Lai khéo dứt trừ
Tất
cả các phiền não(31)
Như
mặt trời mọc lên
Tan
mây sáng khắp soi
Các
loài chúng sanh đây
Khóc
than sưng cả mắt
Đều
bị dòng sanh tử
Đẩy
trôi rất khốn khổ.
Đức
Thế-Tôn cần phải
Thêm
căn lành chúng sanh
Vì
dứt khổ sanh tử
Ở
nán lại thế gian.
Phật
bảo Thuần-Đà: ”Đúng như lời ngươi nói. Phật ra đời
là khó như hoa Ưu-đàm. Gặp Phật sanh lòng tin lại khó hơn.
Phật sắp nhập Niết-Bàn, dược cúng dường lần cuối cùng
đầy đủ bố-thí ba-la-mật, lại là việc rất khó gấp bội.
Nay
ông chớ buồn khổ, nên phải vui mừng vì đã được dịp
cúng dường Như-Lai lần cuối cùng, do đây thành-tựu bố-thí
ba-la-mật. Ông chẳng nên thỉnh Phật ở lại nơi đời, mà
phải quan sát cảnh giới của chư Phật thảy đều vô-thường,
tánh và tướng của các hành-pháp cũng như vậy”.
Đức Phật liền vì Thuần-Đà mà nói kệ rằng :
Tất
cả các thế gian
Có
sanh đều có tử,
Dầu
thọ-mạng vô-lượng
Tất
có kỳ phải hết.
Có
thạnh tất có suy,
Sum
hiệp có biệt ly,
Tuổi
trẻ chẳng dừng lâu
Khỏe
mạnh bị bịnh xâm,
Sự
chết nuốt mạng người
Không
có gì thường còn.
Bực
vua chúa tự-tại
Thế-lực
không ai bằng
Tất
cả đều dời đổi
Mạng
sống cũng như vậy.
Sự
khổ xoay không ngằn
Lưu-chuyển
không thôi dừng
Ba
cõi đều vô thường
Mọi
loài không có vui.
Tánh
tướng của pháp có
Tất
cả đều trống không,
Pháp
sanh diệt lưu-chuyển
Luôn
có những lo khổ,
Sợ
sệt, các lỗi ác,
Già,
bịnh, chết, buồn rầu.
Những
khổ ấy không ngằn
Hư
rã nhiều tai hại,
Phiền
não bao gói kín
Khác
nào tầm ở kén,
Là
người có trí huệ
Đâu
nên thích chốn nầy.
Các
khổ nhóm nơi thân
Tất
cả đều nhơ nhớp,
Tai
nạn, ghẻ nhọt thảy
Cội
gốc của khổ đau,
Dầu
là thân chư-Thiên
Đều
cũng giống như vậy.
Dục
ái đều vô-thường
Nên
Phật chẳng tham ưa,
Ly
dục khéo tư duy
Đặng
chứng quả chơn thiệt
Rốt
ráo dứt sanh tử
Nay
sẽ vào Niết-bàn.
Phật
đãvượt bờ kia
Đã
thoát hẳn các khổ
Vì
thế nên hiện nay
Thuần
hưởng những diệu-lạc,
Do
các nhơn duyên ấy
Chứng
quả vị chơn thiệt
Dứt
hẳn những triền phược
Hôm
nay vào Niết-bàn.
Phật
không già, bịnh, chết,
Thọ
mạng vô cùng tận,
Phật
nay vào Niết-bàn
Như
ngọn lửa lớn tắt.
Thuần-Đà
! Ông chẳng nên
Suy
lường nghĩa Như-Lai,
Nên
xét tánh Như-Lai
Dường
như núi Tu Di.
Phật
nay vào Niết-bàn
Thọ-trì
bệ nhứt lạc,
Pháp
chư Phật như vậy
Các
ông chớ nên khóc.
Thuần-Đà
bạch Phật rằng : Bạch đức Thế-Tôn ! Đúng như lời Phật
dạy. Trí huệ của con kém nhỏ như muỗi mòng, đâu có thể
nghĩ bàn được nghĩa Niết-bàn sâu kín của Như-Lai.
Bạch
Thế-Tôn ! Ví như người tuổi thơ ấu mới xuất gia, dầu
chưa thọ giới cụ-túc, mà đã được dự vào số chúng tăng.
Con nay cũng vậy, nhờ thần lực của Phật và BồTát, mà
con được dự vào số đại Bồ-Tát, đã được cùng hàng
với các bực Đại-Long-Tượng (32) dứt phiền não, như ngài Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương –Tử v.v…
Thế
nên hôm nay con muốn đức Như-Lai thường ở nơi đời mà
chẳng vào Niết-bàn .
Văn-Thù
Sư-Lợi Pháp-Vương-Tử (33) bảo Thuần-Đà rằng : Ông chẳng
nên nói rằng muốn đức Như-Lai thường ơ nơi đời mà chẳng
vào Niết-bàn. Ông phải quán-sát tánh tướng của hành pháp,
quán sát như thế đặng “không” tam-muội. Muốn cầu chánh
pháp nên học pháp quán-sát như vậy.
Thuần-Đà
nói ;” Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Đức Như-Lai là bực cao
cả nhứt trong người trên trời. Đức Như-Lai như thế há
lại là hành pháp sao? (34) Nếu là hành- pháp thời là pháp
sanh diệt. Ví như bóng nước chóng nổi chóng tan, qua lại
xoay vần như bánh xe lăn, các hành- pháp cũng thế. Tôi nghe
chư Thiên sống rất lâu, tại sao đức Thế-Tôn là bực trời
trong các trời mà lại sống chẳng đầy trăm tuổi.
Cách
hành-pháp là pháp sanh tử, nếu đức Như-Lai nhập diệt thời
đồng với hành-pháp, đâu được gọi là bực trời trong
các trời, là pháp vương tự- tại. Vì thế chẳng nên xem
đức Như-Lai đồng với hành-pháp.
Đức
Như-Lai hàng phục phiền- não ma, ngũ-ấm ma, thiên-ma, tử ma
do nhơn duyên ấy mà thành-tựu đầy đủ vô-lượng công-đức
chơn thiệt, nên hiệu là Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến- Tri,
hiệu là Tam-Giới-Tôn.
Thưa
ngài Văn-Thù Sư-Lợi : Chẳng nên ức-tưởng phân biệt mà
đem pháp Như-Lai cho đồng với các hành pháp. Ví như phú ông
sanh con trai, nhà tướng số xem trẻ ấy có tướng đoản mạng.
Phú ông biết rằng trẻ ấy không thể nối lấy gia nghiệp,
nên chẳng ái trọng. Vả kẻ đoản thọ thời chẳng được
mọi người kính trọng. Nếu đức Như-Lai đồng với các
hành-pháp, ắt chẳng được sa-môn bà-la-môn tất cả trời
người kính thờ, mà pháp chơn thiệt bất biến bất dị của
Như-Lai dạy ra cũng không ai tín thọ. Vì lẽ ấy, ngài chẳng
nên nói rằng Như-Lai đồng với các hành-pháp.
Thưa
ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Như bần-nữ đang có mang mà lại đói
khát không nhà cửa, đẻ nhờ dưới mái nhà kia, chủ nhà
xua đuổi, bần nữ bồng con muốn đến xứ khác để mưu
sinh. Dọc đường phải lội qua con sông, ra giữa dòng bị
nước chảy, xoáy mạnh, không nỡ buông con nên mẹ con đồng
bị chết đuối. Vì tấm lòng từ ái ấy, bần nữ được
sanh lên cõi phạm- thiên.
Nếu
có thiện-nam-tử muốn hộ trì chánh-pháp, chớ nói Như-Lai
đồng với các hành-pháp
hay chẳng đồng với các hành-pháp. Chỉ nên tự trách mình
ngu si không có huệ- nhãn, chánh-pháp của Như-Lai không thể
nghĩ bàn, không nên tuyên nói Như-Lai quyết định là hữu-vi,
hay vô-vi. Nếu là người chánh-kiến nên nói Như-Lai quyết
định là vô- vi. Vì sao thế? Vì nói Như- Lai là vô-vi thời
có thể sanh pháp lành cho chúng sanh.
Thiện-nam-tử
hộ-trì chánh-pháp thà chết chớ chẳng nói Như-Lai đồng
với pháp hữu-vi, mà chỉ nên nói Như-Lai đồng với pháp
vô-vi. Nhơn vì hộ- trì chánh-pháp nói Như-Lai đồng với pháp
vô-vi mà đặng quả vô-thượng chánh-giác. Như bần-nữ thà
chết đuối giữa dòng chớ không chịu buông con, nhơn đó
mà được sanh lên cõi phạm-thiên. Thiện nam-tử này chẳng
cầu giải thoát mà giải thoát tự đến. Khác nào bần nữ
kia chẳng cầu sanh phạm-thiên mà quả phạm- thiên tự đến.
Thưa
ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Như người đi xa giữa đường mỏi
mệt, nghỉ nhờ nhà người. Giữa lúc ngũ, nhà ấy bổng bốc
lửa to. Người ấy choàng dậy biết chắc phải chết, lòng
hổ thẹn sọ thân thể lõa lồ bèn lấy y áo vấn thân mà
chết, liền được sanh lên cõi trời Đạo-Lợi. sau đó tám
mươi đời làm Đại-Phạm-Vương, trăm ngàn đời làm Chuyển-
Luân- vương, người ấy mãi hưởng phước lành như vậy,
hẳn không bị đọa vào ác đạo. Vì duyên cớ ấy, nếu là
người có tâm tàm-quý chẳng nên xem Như-Lai đồng với các
hành- pháp.
Bọn
ngoại đạo tà-kiến mới được nói Như-Lai đồng với pháp
hữu-vi.
Là
Tỳ-Kheo trì-giới đâu nên có quan niệm rằng Như-Lai là pháp
hữu-vi.
Nếu
nói Như-lai là pháp hữu-vi, đó chính là vọng-ngữ. Phải
biết người nầy sẽ đọa địa ngục.
Thưa
ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Như-Lai chơn thiệt, chính là pháp vô-vi,
chẳng nên lại nói là hữu-vi. Từ nay ở trong đường sanh
tử, ngài nên bỏ vô-trí mà cầu nơi chính-trí.
Phải biết Như-Lai chính là vô-vi. Được chánh- quán như thế,
sẽ đầy đủ ba mươi hai tướng, chóng thành tựu quả vô-thượng
bồ-đề.”
Văn-Thù
Sư-Lợi Bồ-Tát khen Thuần-Đà rằng :”Lành thay ! Lành thay
! Nay ông đã tạo nhơn duyên trường thọ, ông biết được
Như-Lai là pháp thường-trụ, là pháp chẳng biến-dị, là
pháp vô-vi. Nay ông khéo che đậy tướng hữu-vi của Như-Lai,
sau nầy ông sẽ đặng đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi
tùy hình, mười tám pháp bất cộng, thọ mạng vô-lượng,
luôn được an vui, không còn sanh tử sẽ thành bực Ứng-Cúng
Chánh-Biến-Tri. Như người lữ khách bị lửa thiêu mà có
lòng hổ thẹn lấy y áo vấn thân, nhờ tâm lành ấy nên được
sanh lên cõi Đao-Lợi, lại nhiều đời làm Phạm-Vương, Chuyển-
Luân-Vương, luôn được an vui chẳng sa ác đạo.
Tôi
cùng ông cũng đều nên che đậy tướng hữu-vi của Như-Lai.
Lát nữa đức Thế-Tôn sẽ giảng rộng về ý nghĩa ấy.
Nên
để hữu-vi vô-vi lại đó. Ông nên kíp lo cúng-dường cơm
nước cho kịp giờ, và cũng nên sắm sữa đồ cần thiết
cho hàng tứ-chúng từ xa hội về đang mõi mệt. Cúng đường
như thế chính là đầy đủ chủng-tử căn-bổn của
đàn-ba-la-mật.
Thuần-Đà
! Nếu cúng dường đức Phật và chư Tăng lần cuối cùng,
hoặc nhiều hay ít, đủ hay thiếu đều phải sớm lo cho kịp
giờ. Đức Như-Lai sẽ nhập Niế-bàn”.
Thuần-Đà
nói : “Thưa ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Sao ngài lại tham chút
uống ăn mànói hoặc ít hoặc nhiều, đủ hay chẳng đủ,
rồi bảo tôi lo cho kịp giờ ? Xưa kia đức Như-Lai khổ hạnh
trọn sáu năm còn chịu nổi, huống là giây lát hôm nay. Ngài
thiệt cho rằng đức Như-Lai chánh giác thọ đồ uống ăn
nầy ư ? Tôi thời biết quyết định thân Như-Lai chính là
pháp-thân, không phải thực-thân.
Phật
bảo Văn-thù Sư-Lợi :’ Thật đúng như lời của Thuần-đà
! Lành thay Thuần-Đà ! Ông đã thành-tựu đại trí-huệ, khéo
thâm nhập kinh- điển đại-thừa”.
Văn-Thù
Sư-Lợi nói với Thuần-Đà : “ Ông cho rằng Như-Lai là vô-vi,
thân Như-Lai là trường-thọ, hiểu biết như vậy đức Phật
rất hài lòng”.
Thuần-Đà
nói :” Đức Như-Lai chẳng riêng gì hài lòng nơi tôi, mà
cũng hài lòng với tất cả chúng sanh”.
Văn-Thù
Sư-Lợi nói :” Đức Như-Lai đối với ông, với tôi, với
tất cả chúng sanh, đều hài lòng”.
Thuần-Đà
nói :’ Ngài chẳng nên nói đức Như-Lai hài lòng. Luận về
hài lòng, chính là đảo-tưởng. Phàm có đảo-tưởng thời
là sanh tử, có sanh tử thời là pháp hữu-vi. Vì lẽ ấy ngài
chẳng nên cho Như- Lai là hữu-vi. Nếu nói Như-Lai là hữu-vi
thời ngài cùng tôi đều điên-đảo cả.
Thưa
ngài Văn-Thù Sư-Lợi ! Đức Như-Lai không có ái- niệm. Luận
về ái- niệm , như trâu mẹ kia ái-niệm con của nó, dầu
là đói khát đi tìm cỏ nước, hoặc no hay chưa no, bỗng nhiên
nhớ con liền trở về. Chư Phật Thế-Tôn không có ái-niệm
như vậy, bình đẳng xem tất cả chúng sanh như La-Hầu-La.
Từ-niệm bình đẳng như vậy chính là cảnh-giới trí-huệ
của chư Phật.
Thưa
ngài Văn-thù Sư-Lợi ! Ví nnư quốc vương ngự trên xe tứ
mã, có người muốn cho xe bò theo kịp xe vua, tất không thể
được. Ngài cùng tôi muốn cùng tận chỗ vi-mật thâm-áo
của Như-Lai cũng không thể được.
Ví
như Kim-Sí-Điểu (35) bay vọt trên cao vô lượng do-tuần, nhìn
xuống biển cả thấy rõ những loài thủy tộc cùng loài
rồng và bóng của nó. Kẻ phàm tục trí kém,
không
thể suy lường chỗ thấy của Kim-Sí-Điểu. Cũng thế,
ngài cùng tôi không thể suy lường được trí huệ của Như-Lai”.
Văn-Thù
Sư-Lợi Bồ-tát bảo Thuần-Đà rằng : “ Đúng như lời ông
vừa nói. Đối với những việc ấy không phải là tôi không
hiểu. Chẳng qua vì muốn đem việc của Bồ-Tát thử ông đó
thôi”.
Bấy
giờ đức Thế-tôn từ trên mặt phóng ra nhiều tia sáng chiếu
thân ngài Văn-Thù. Ngài Văn- Thù liền bảo Thuần-Đà rằng
:” Nay đây đức Nnhư-Lai hiện thoại-tướng từ trên mặt
phóng ra nhiều tia sáng như thế chẳng phải là không duyên
cớ, đó
là
điềm đức Phật sắp nhập Niết-bàn. Ông phải sớm lo dưng
lễ cúng dường lên đức Phật và chư Tăng cho kịp giờ.”
Đức
Phật bảo Thuần-Đà :” Đã phải giờ cho ông dưng thực
phẩm cúng dường Phật và đại- chúng. Như-Lai sẽ nhập Niết-bàn.”
Đức
Phật bảo luôn ba lần như vậy.
Thuần-Đà
nghe đức Phật dạy như vậy, bất giác nghẹn ngào khóc than
nức nở:
“ Khổ thay ! Khổ thay ! Thế gian sẽ trống rỗng.” Rồi ông lại thưa cùng đại-hội :
“
Hôm nay chúng ta phải đồng tha-thiết đảnh lễ cầu đức
Phật đừng nhập Niết-bàn.”
Đức
Thế-Tôn lại bảo Thuần-Đà :”Ông chớ nên khóc than tiều-tụy
như vậy. Ông phải quán sát thân nầy như cây chuối, như
ánh nắng, như bọt nước, như huyễn-hóa, như thành Càn-thát-bà,
như đồ gốm chưa hầm, như làn chớp, như hình vẽ trên nước,
Như tù sắp hành hình, như trái muồi, như cục thịt,
như bức dệt đã hết khổ, như chày giã lên xuống. Phải
quán sát các hành-pháp như món ăn lẫn chất độc, pháp hữu-vi
nhiều tai hại.”
Thuần-Đà
bạch Phật :” Đức Thế-Tôn chẳng muốn ở lại đời làm
sao con không buồn khóc cho được. Khổ thay ! Khổ thay ! Thế-gian
sẽ trống rỗng. Ngữa mong Đức
Thế-Tôn
thương xót chúng con và chúng sanh mà ở luôn nơi đời, chẳng
nhập Niết-bàn”.
Phật
bảo Thuần-Đà : Ông chẳng nên nói rằng thương xót các ông
mà ở luôn nơi Đời. Chính vì thương xót ông và các chúng
sanh mà hôm nay Phật mới muốn nhập Niết-bàn. Vì sao thế
? Chư Phật pháp-nhĩ như vậy. Pháp hữu-vi cũng thế. Nên chư
Phật nói kệ rằng :
Các pháp hữu-vi
Tánh nó vô thường
Sanh rồi chẳng trụ
Tịch-diệt là vui.
Thuần-Đà
! Ông nên quán-sát các hành pháp là tạp độc. Các
pháp hữu-vi là vô-ngã vô-thường chẳng trụ. Tấm thân nầy
có rất nhiều tai hại như bóng nước. Vì lẽ ấy ông chớ
nên khóc lóc”.
Thuần-Đà
bạch Phật :” Thật đúng như lời Thế-Tôn dạy. Mặc dầu
con vốn biết đức Như-Lai phương tiện thị-hiện nhập Niết-bàn,
nhưng con không làm sao ngăn sự buồn thảm được. Giờ đây
tự suy xét, con lại sanh lòng vui mừng.”
Phật
khen Thuần-Đa :” Lành thay ! Lành thay ! Ông có thể rõ biết
Như-Lai thị-hiện đồng với chúng sanh mà phương tiện nhập
Niết-bàn.
Thuần-Đà
! Ông nên nghe đây : Như mùa xuân chim ta-la-tà đều nhóm nơi
ao A-Dậu-Đạt. Chư Phật cũng thế đều đến chỗ ấy.
Ông chẳng nên suy nghĩ chư Phật là trường thọ hay đoản
thọ. Tất cả các pháp đều nnhư tướng huyễn-thuật. Như-Lai
ở trong ấy do sức phương tiện không có nhiễm trước. Vì
sao thế ? Vì chư Phật pháp-nhĩ như vậy.
Thuần-Đà
! Nay Như-Lai nhận phần cúng dường của ông là vì muốn cho
ông thoát khỏi các dòng sanh tử trong ba cõi. Hàng nhơn-thiên
ở nơi sự cúng dường cuối cùng đối với Như-Lai đây,
đều sẽ được quả-báo bất động, luôn được an vui. Vì
sao thế ? Vì Như-Lai là phước điền tốt của chúng sanh.
Nếu ông muốn vì chúng sanh mà làm phước-điền, thời phải
kíp sắm sửa cúng phẩm, chẳng nên để trể”.
Bấy
giờ Thuần-Đà vì các chúng sanh được độ thoát nên cúi
đầu lau lệ mà bạch Phật :” Lành thay đức Thế-Tôn ! Nếu
lúc con kham có thể làm phước-điền, thời có thể biết
rõ Như-Lai là nhập Niết- bàn hay chẳng phải nhập Niết-bàn.
Nay trí huệ của chúng con cùng Thanh-Văn Duyên-Giác nhỏ kém
như kiến muỗi, thiệt không thể suy lường Như-Lai nhập Niết-bàn
hay chẳng phải nhập Niết-bàn”.
Bạch
xong, Thuần-Đà cùng quyến thuộc buồn rầu khóc lóc, thiêu
hương rải hoa, hết lòng cung kính, rồi liền cùng ngài Văn-Thù
Sư-Lợi Bồ-Tát đi lo sắm sữa thực phẩm.
THÍCH NGHĨA
(17) THẾ TÔN : Đấng tôn quý nhứt trong tất cả thế gian và xuất thế gian. Từ ngữ này gồm đủ mười điều vô-thượng : 1 – Như-Lai, 2 – Ứng-Cúng. 3- Chánh-Biến-Tri. 4- Minh-Hạnh-Túc. 5- Thiện- Thệ. 6- Thế-Gian-Giải. 7- Vô-Thượng-Sĩ. 8- Điều-Ngự-Trượng-Phu. 9- Thiên-Nhơn-Sư. 10- Phật.(18) LA-HẦU-LA : Con trai của Thái-Tử Sĩ-Đạt-Ta và Da-Du-Đà-La
(19) BỐ-THÍ-BA-LA-MẬT : Công hạnh bố thí đã đến từng ngã và pháp đều không, đã rốt ráo viên mãn. Biệt-Giáo bực sơ địa viên giáo bực sơ trụ mới thành tựu hạnh nầy.
(20) TRÍ-HUỆ CHỨNG-NGÃ-KHÔNG gọi là “Nhứt-thiết-trí” Hàng nhị thừa có trí nầy. Trí-huệ chứng ngã-không và phần chứng pháp không gọi là “Đạo-chủng-trí”. Pháp thân Bồ-Tát có trí nầy. Trí huệ chứng ngã-không và toàn chứng pháp-không gọi là “Nhứt-thiết-chủng-trí” Chỉ bực Phật mới có trí nầy. Trí huệ nầy gồm có bốn trí : 1- Thành-sở-tác-trí. 2- Diệu quán-sát-trí. 3- Bình-đẳng tánh-trí. 4- Đại-viên cảnh-trí.
(21) NGŨ NHÃN : 1- Nhục nhãn. 2- Thiên nhãn. 3- Huệ nhãn. 4 Pháp nhãn.
5- Phật nhãn. Phàm phu chỉ có nhục nhãn, riêng chư Thiên và chư ngũ thông tiên-nhơn gồm có thiên nhãn. A-La-Hán và Bích-Chi-Phật có nhục nhãn, thiên nhãn và huệ nhãn. Pháp thân Bồ-Tát có ba nhãn trên và pháp nhãn Đức Phật có đủ 5 nhãn.
(22) KIẾP-BA : là thời gian dài. Có tiểu, trung va đại ba kiếp. Một tiểu kiếp có
16798.000 năm (theo năm của nhơn loại địa cầu). Một trung kiếp có 20 tiểu kiếp. Và một đại kiếp có 4 trung kiếp hay 80 tiểu kiếp, tức là : (16798.000 năm x 80 = 1.343.840.000 năm) (một tỷ, ba trăm bốn mươi ba triệu, tám trăm bốn chục ngàn năm). Phàm trong kinh chỉ nói bao nhiêu kiếp, mà không nói trung hay tiểu, thời thường là nói đại kiếp.
(23) BỐN MA ; Ma phiền não, Ma ngũ-ấm, Ma chết, va Thiên ma. Nói đủ là Ma-La có nghĩa là hay phá hoại thiện căn của chúng sanh, của người tu hành.
BA ÁC ĐẠO : Súc sanh, ngạ quỹ và địa ngục. Ba loài nầy vì phạm tội thập ác nhẹ, vừa và nặng mà phải thọ lấy quả khổ ấy, nên gọi là ác đạo, đây là cứ nơi nghiệp nhơn ác mà đặt tên. Nếu theo quả khổ thời gọi là tam đồ : 1- Huyết đồ, loài súc sanh thường ăn nuốt máu thịt lẫn nhau; 2- Đao đồ, loài ngạ quy thường dùng dao gậy đánh đập nhau; 3- Hỏa đồ- loài địa ngục thường bị lửa thui đốt, nấu rang.
ƯU-ĐÀM-BÁT-LA-HOA ; dịch là Linh-Thoại-Hoa. Tục truyền ba ngàn năm mới xuất hiện một lần , là điềm Thánh-Vương, hay Thánh-Nhơn xuất thế. Ném hột cải trúng dính vào đầu nhọn cây kim. “Đàn” là bố thí, “Độ” là ba-la-mật. Đàn-Độ” là bố-thí ba-la-mật.
TAM GIỚI : ba cõi : cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc.
BÔNG Y-LAN : là một thứ hoa có mùi rất hôi thúi.
(30) ĐẾ-THÍCH : nói đủ là Thiên Đế Thích-Đề-Hoàn-Nhơn, vua cõi trời Đao-Lợi.
PHẠM-THIÊN : Thiên Vương cõi sắc.
(31) PHIỀN NÃO : Phiền nhiễu, não loạn, tức là những tâm niệm xấu, cùng ý tưởng ác như : tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến v.v… nó làm nhiễu loạn thân tâm người, đồng thời hay phá hoại thiện căn của người, nên cũng gọi kà phiền não ma.
(32) ĐẠI-LONG-TƯỢNG ; Rồng lớn và Voi lớn là loài to mạnh trong các muông thú. Dùng danh từ nầy là dụ cho các bậc siêu nhơn đại Bồ-Tát. Phật là Pháp-Vương, đại Bồ-Tát sẽ thành Phật, là con của đấng Pháp-Vương nên gọi là Pháp-Vương-Tử.
(34) HÀNH-PHÁP : Pháp di động chuyển biến.
(35) KIM-SÍ-ĐIỂU ; Chim cánh vàng, một loài chim to nhất hay dùng rồng làm món ăn.