Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trang 02

06 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 12463)
Trang 02

KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN 
Dịch Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Tịnh Xá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990

VII
PHẨM TỨ TƯỚNG THỨ BẢY
(Hán bộ trọn quyển thứ tư và thứ năm)

Trang 02

Nầy Ca Diếp! Như tháng mùa hạ, kéo mây nổi sấm xối mưa lớn, khiến nhà nông cày cấy đặng mùa. Người không gieo trồng thời không chỗ được, chẳng phải lỗi của Long Vương, mà Long Vương cũng không chổ tiếc dấu. Như Lai đây cũng như vậy, xối mưa pháp lớn: Kinh Ðại Niết Bàn. Nếu các chúng sanh gieo hột lành thời được mầm trái trí huệ. Nếu không gieo hột lành thời không chỗ được. Ðây không phải là lỗi ở Như Lai, mà Phật Như Lai cũng không chỗ bí tàng." 

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Nay con quyết định rõ biết Như Lai không chỗ bí tàng. Như lời Phật nói: Luận Tỳ Già La là nói Phật Như Lai thường còn không biến đổi. Nghĩa đây không phải. Vì sao? Vì ngày trước Phật có nói kệ: 
Chư Phật cùng Duyên giác 
Nhẫn đến chúng đệ tử
Còn bỏ thân vô thường
Huống là hạng phàm phu

Nay Phật nói là thường còn không biến đổi, nghĩa đây như thế nào? 

Phật dạy: "Nầy Ca Diếp! Như Lai vì hàng Thanh văn đệ tử mà dạy về bán tự nên nói kệ vô thường ấy. 

Nầy Ca Diếp! Xưa kia, vì mẹ chết nên vua Ba Tư Nặc rất thương nhớ buồn khổ, đến thăm Như Lai. Như Lai liền hỏi cớ sao nhà vua lại quá buồn khổ như vậy? - Vua đáp: "Bạch Thế Tôn hôm nay Thái hậu thăng hà. Giả sử có người nào làm cho mẹ tôi sống lại, tôi nhường ngôi và đem của tiền châu báu cùng thân nầy để thưởng tặng cho người ấy xử dụng. "Như Lai khuyên: "Nầy Ðại Vương! Nhà vua chớ nên quá sầu khổ. Tất cả chúng sanh hể thọ mạng hết gọi là chết. Chư Phật, Duyên giác, Thanh văn còn bỏ thân nầy, huống là phàm phu! 

Nầy Ca Diếp! Vì dạy bán tự cho vua Ba Tư Nặc nên Như Lai nói bài kệ ấy. 

Nay Như Lai vì các hàng Thanh văn đệ tử giảng nói luận Tỳ Già La, tức là Như Lai thường còn không biến đổi." 

Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật: "Như lời Phật dạy

Không chỗ chứa nhóm 
Nơi ăn biết đủ 
Như chim bay không
Dấu không thể tìm. 

Bạch Thế Tôn, những nghĩa nầy là thế nào? Trong chúng hội đây ai được gọi là không chỗ chứa nhóm? Ai được gọi là nơi ăn biết đủ? Ai đi nơi hư không chẳng thể tìm dấu? Mà sự đi nầy là đến phương nào? 

Phật dạy: "Luận về chứa nhóm là nói về của báu

Nầy Ca Diếp! Chứa nhóm có hai thứ: một là hữu vi, hai là vô vi. Chứa nhóm hữu vi là hạnh Thanh văn, chứa nhóm vô vi là hạnh Như Lai

Nầy Ca Diếp! Tăng cũng có hai hạng: một là hữu vi, hai là vô vi. Hữu vi Tăng gọi là hàng Thanh văn. Thanh văn Tăng không có chứa nhóm những tôi tớ đồ vật phi pháp, kho đụn lúa gạo, muối, mè, đậu, bắp. Nếu có người nói Như Lai cho chứa tôi tớ các đồ vật như vậy, người ấy sẽ bị báo rút lưỡi. Hàng Thanh văn đệ tử của Như Lai gọi là không chứa nhóm, cũng được gọi là nơi ăn biết đủ. Nếu có tham ăn gọi là chẳng biết đủ. 

Người khó tìm dấu thời là bực gần đạo vô thượng bồ đề. Như Lai nói người nầy dầu đi mà không chỗ đến." 

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Hàng hữu vi Tăng còn không chứa nhóm huống là vô vi Tăng. Vô vi Tăng chínhNhư Lai. Thế sao Như Lai phải có chứa nhóm. Và chứa nhóm đó gọi là cất dấu. Thế nên Như Lai phàm có nói ra đều không lẫn tiếc, thế nào gọi là dấu cất? 

Không thể tìm ra dấu vết đó, gọi là niết bàn. Trong niết bàn không có mặt trời, mặt trăng, tinh tú, lạnh nóng gió mưa. Sanh già bịnh chết, hai mươi lăm cõi, lìa các sự lo khổ và các phiền não. Niết bàn như vậy là chỗ Như Lai ở thường không biến đổi. Vì nhơn duyên ấy, Như Lai đến trong rừng Ta La nơi đại niết bàn mà nhập đại niết bàn." 

Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Chữ Ðại đó tánh ấy rộng lớn. Như người sống lâu vô lượng tuổi thời gọi là đại trượng phu. Người nầy nếu có thể an trụ nơi chánh pháp thời gọi là bực siêu thăng trong loài người. Như tám điều giác ngộ của bực đại nhơn mà Như Lai đã dạy, là một người có đủ hay nhiều người có đủ. Nếu một người đủ cả tam thời là rất siêu thăng. Nói rằng niết bàn đó, không có tỳ vết. 

Nầy Ca Diếp! Như người bị xuông tên độc đau nhức lắm, gặp được lương y nhổ tên độc ra rồi truyền cho thuốc hay, người ấy hết đau nhức được an vui. Vị lương y nầy liền đi nơi thành ấp và các xóm làng, h¬ chỗ nào có người bị thương đau khổ liền đến điều trị

Cũng vậy, Như Lai thành bực Ðẳng Chánh Giác làm vị đại Y Vương, thấy chúng sanh khổ não nơi Diêm Phù Ðề, từ vô lượng kiếp bị tên độc phiền não, dâm nộ, si mê làm đau nhức, bèn nói kinh Ðại Thừa cam lộ pháp dược. Ðiều trị nơi đây rồi, Như Lai lại đến xứ khác, nơi có tên độc phiền não, thị hiện làm Phật để điều trị. Thế nên gọi là đại bát niết bàn

Ðại bát Niết Bàn đó gọi là chỗ giải thoát. Tùy nơi nào có chúng sanh đáng được điều phục, thời Như Lai ở trong ấy mà thị hiện. Vì nghĩa chơn thiệt thậm thâm nầy nên gọi là đại bát niết bàn." 

Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Y sư trong đời có thể điều trị thương tích cho tất cả chúng sanh chăng?" 

Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Thương tích của người đời phàm có hai thứ: một là bịnh có thể trị, hai là bịnh không thể trị. Bịnh có thể trị thời y sư trị được, còn bịnh không thể trị thời y sư không trị được." 

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Cứ như lời Phật dạy, thời Như Lai đã trị bịnh cho chúng sanh nơi Diêm Phù Ðề nầy rồi. Nếu nói đã trị rồi, sao nơi đây còn có chúng sanh chưa được niết bàn? Nếu chưa được niết bàn cả, sao Như Lai nói rằng điều trị đã xong mà muốn đến xứ khác?" 

Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Chúng sanh trong Diêm Phù Ðề nầy có hai hạng: một hạng tin và một hạng không tin. Hạng có lòng tin thời gọi là trị được, vì sẽ không phiền não quyết định được niết bàn, thế nên Như Lai nói trị chúng sanh nơi Diêm Phù Ðề rồi. Hạng không lòng tin gọi là nhứt-xiển-đề. Hạng nhứt-xiển-đề gọi là không trị được. Trừ hạng nhứt-xiển-đề, ngoài ra đều đã trị xong, thế nên niết bàn gọi là không thương tích." 

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là niết bàn?" 

Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Niết bàn đó, gọi là giải thoát." 

- Bạch Thế Tôn! Chỗ nói giải thoát, là sắc hay chẳng phải sắc?" 

- Nầy Ca Diếp! Hoặc là sắc, hoặc là chẳng phải sắc. Thanh văn, Duyên giác giải thoát là không phải sắc. Chư Phật Như Lai giải thoát là sắc. 

Nầy Ca Diếp! Thế nên giải thoát cũng sắc cũng chẳng phải sắc. Như Lai vì hàng Thanh văn đệ tử nói là chẳng phải sắc. 


Ca Diếp Bồ Tát lại bạch: "Như nơi thanh sắt, màu lửa đỏ đã tắt, đem thanh sắt để lại trong lửa, thời màu đỏ sẽ sanh lại. Nếu như vậy, Như Lai lẽ ra sanh phiền não lại, nếu phiền não sanh trở lại bèn là vô thường". 

Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Ông không nên nói Như Lai vô thường, vì Như Laithường trụ

Như đốt gỗ, khi gỗ hết lửa tắt thời còn tro, phiền não diệt rồi bèn có niết bàn. Các điều dụ như áo hư, chém đầu, lọ vỡ cũng như vậy. 

Nầy Ca Diếp! Như sắt nguội có thể làm nóng lại. Như Lai không phải như vậy, dứt phiền não rồi rốt ráo thanh lương, lửa phiền não chẳng còn sanh trở lại

Vô lượng chúng sanh như thanh sắt kia Như Lai dùng lửa mạnh trí tuệ đốt sắt kiết sử phiền não của chúng sanh". 

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Lành thay! Lành thay! Con nay thật biết rõ chư Phật là thường trụ". 

Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Ví như Thánh Vương vốn ở trong cung, hoặc có lúc dạo chơi nơi vườn; dầu lúc ấy vua không có ở giữa đám cung phi, cũng chẳng được nói là vua đã chết. Cũng vậy, Như Lai dầu nhập vào trong niết bàn không hiện nơi cõi Diêm Phù, chẳng gọi là vô thường. Như Lai ra khỏi vô lượng phiền não vào nơi niết bàn an vui, dạo chơi vui vẻ nơi các vườn hoa chánh giác". 

Ca Diếp Bồ Tát lại hỏi: "Như đức Phật đã dạy: Từ lâu Như Lai đã vượt khỏi biển phiền não. Duyên cớ gì lại cùng Gia Du Ðà La sanh La Hầu La? Do cớ đây mà biết rằng Như Lai chưa vượt khỏi biển cả phiền não. Cúi xin Như Lai nói về nhơn duyên đó". 

Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Ông chẳng nên nói Như Lai từ lâu đã vượt khỏi biển cả phiền não, duyên cớ gì lại cùng Gia Du Ðà La sanh La Hầu La, vì cớ đây nên biết Như Lai chưa vượt khỏi biển cả phiền não

Nầy Ca Diếp! Ðại niết bàn đây hay kiến lập sự nghĩa to lớn. Nay các ông nên chí tâm lóng nghe, rồi rộng vì người mà giảng thuyết, chớ sanh lòng nghi ngờ

Nếu có vị đại Bồ Tát trụ đại Niết bàn, có thể đem núi Tu Di cao rộng để vào trong vỏ hột đình lịch. Các loài ở tại núi Tu Di không bị chật hẹp, vẫn y như thường, cũng không có quan niệm gì khác, chỉ có người đáng được độ mới thấy vị Bồ Tát ấy đem núi Tu Di để vào vỏ hột đình lịch, rồi đem để lại chỗ cũ. 

Nầy Ca Diếp! Lại có vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn, có thể đem cả cõi đại thiên để vào vỏ hột đình lịch, chỉ có người đáng được độ là thấy việc làm nầy, ngoài ra tất cả chúng sanh đều không hay biết cũng không thấy chật hẹp, vẫn y như cũ. Cho đến đem cõi đại thiên để vào lỗ chưn lông cũng như vậy. 

Lại có vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn ngắt lấy nhiều thế giớimười phương để nơi đầu mũi kim, như ghim lá táo, rồi ném để nơi thế giới khác. Những chúng sanh trong các thế giới bị ném đó không hay không biết, chỉ có người đáng được độ là thấy việc làm nầy, và cũng thấy Bồ Tát đem thế giới đã ném để lại chỗ cũ. 

Lại có vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn, bức lấy các thế giớimười phương để trên bàn tay mặt, rồi ném vụt qua khỏi vô lượng thế giới khác. Cũng có vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn đem vô lượng thế giớimười phương để vào trong thân mình, hoặc để vào trong một vi trần, vẫn không chật hẹp. Chúng sanh trong các cõi ấy không bị bức ngộp, cũng chẳng hay chẳng biết, chỉ có người đáng được độ mới thấy biết việc làm nầy, và cũng thấy Bồ Tát đem những thế giới để lại chỗ cũ. 

Nầy Ca Diếp! Vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn thời có thể thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, vì thế nên gọi là đại bát niết bàn

Tất cả chúng sanh không có thể suy lường đến được. Nay ông làm thế nào biết Như Lai gần nơi ái dục sanh La Hầu La? 

Nầy Ca Diếp! Như Lai từ lâu đã trụ nơi đại niết bàn , thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, ở trong cõi đại thiên trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức Diêm Phù Ðề nầy, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đã có nói nhiều. Hoặc ở Diêm Phù Ðề thị hiện nhập niết bàn, mà chẳng rốt ráo nhập niết bàn. Hoặc ở Diêm Phù Ðề thị hiện vào thai mẹ, làm cho cha mẹ tưởng là con trai của mình sanh đẻ, mà thân của Như Lai đây trọn hẳn chẳng từ nơi ái dục hoà hiệp mà sanh. Như Lai đã lìa ái dục từ nơi vô lượng kiếp rồi. Thân của Như Lai đây chính là pháp thân, vì tùy thuận thế gianthị hiện vào thai mẹ. 

Nầy Ca Diếp! Nơi vườn Lâm Tỳ Ni, thị hiện từ nơi mẹ là Ma-Gia sanh ra, vừa sanh liền đi qua hướng đông bảy bước xướng lên rằng: — trong hàng trời, người, A Tu La, ta là bực tôn thượng hơn cả. 

Cha mẹ và trời người thấy thế vừa sợ vừa mừng cho rằng hi hữu. Mà mọi người nói là đứa trẻ nhỏ. Nhưng chính thiệt thời thân của Như Lai đã lìa cách trên đây từ vô lượng kiếp. 

Thân của Như Lai tức là pháp thân, chẳng phải thân thịt máu mạch gân xương tủy hiệp thành. Vì thuận cách sanh của chúng sanhthị hiện làm đứa trẻ. Ði qua hướng Nam bảy bước là thị hiện muốn làm phước điền vô thượng cho chúng sanh. Ði qua hướng Tây bảy bước là thị hiện thân nầy là thân cuối cùng không còn sanh tử nữa. Ði qua hướng Bắc bảy bước là thị hiện đã qua khỏi sự sanh tử của các cõi. Ði qua hướng Ðông bảy bước là thị hiện làm đạo sư cho chúng sanh. Ði qua bốn hướng cạnh bảy bước là thị hiện dứt diệt các thứ phiền nãobốn loài ma, mà thành đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Ði lên bảy bước là thị hiện không bị vật dơ làm ô nhi¬m, như hư không. Ði xuống bảy bước, là thị hiện rưới mưa pháp dập tắt lửa địa ngục, cho chúng sanh hưởng vui an ổn

Nơi Diêm Phù Ðề, sau khi sanh bảy ngày lại thị hiện cạo tóc, mọi người đều cho rằng Như Lai là đứa trẻ mới cạo tóc lần đầu. Kỳ thiệt, tất cả trời, người, ma vương, Sa môn, Bà la môn, không một ai có thể thấy được đảnh tướng của Như Lai, huống là có người cầm dao đến cạo tóc được. Trong vô lượng kiếp lâu xa về trước, Như Lai đã cạo bỏ râu tóc rồi. Vì muốn tuỳ thuận theo pháp thế gian, nên Như Lai thị hiện cạo tóc

Cha mẹ đem ta đến miếu thờ trời, ra mắt Ðại Tự Thiên. Lúc Ðại Tự Thiên thấy Như Lai, liền chấp tay cung kính đứng qua một bên. Từ lâu xa vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa cách vào miếu trời, nhưng vì tuỳ thuận thế gianthị hiện như vậy. 

Diêm Phù Ðề, Như Lai thị hiện xỏ lỗ tai, kỳ thiệt, tất cả chúng sanh không ai có thể xỏ lỗ tai Như Lai được, vì tùy thuận thế gianthị hiện như vậy. 

Lại lấy các châu báu làm bông tai sư tử để đeo vào, kỳ thiệt từ vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa đồ trang điểm, nhưng vì muốn tuỳ thuận thế gianthị hiện việc như vậy. 

Rồi vào học đường học tập chữ nghĩa, võ nghệ, nghề nghiệp v.v... kỳ thiệt từ vô lượng kiếp Như Lai đã hoàn toàn rành rẽ tất cả những môn ấy. Xem khắp cả ba cõi, không một ai có khả năng làm thầy của Như Lai được, vì muốn tùy thuận thế gianthị hiện vào học đường. Vì thế nên gọi là đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri

— cõi Diêm Phù Ðề, tùy thuận thế gianthị hiện làm Thái Tử, mọi người đều thấy Như LaiThái Tử con trai lớn vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Gia, hưởng sự vui sướng trong cảnh ngũ dục (41). Kỳ thiệt trong vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa sự vui ngũ dục rồi. 

Nhà tướng số đoán rằng Thái Tử nếu chẳng xuất gia thời sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương cai trị Diêm Phù Ðề, mọi người đều tin lời đoán ấy. Kỳ thiệt, từ vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ vị Chuyển Luân Thánh Vương mà làm bực Pháp Vương

Thị hiện nhằm lìa cảnh vui ngũ dục, dạo thành gặp người già, bịnh, chết cùng vị Sa môn, rồi vượt thành xuất gia hành đạo. Mọi người đều cho rằng Thái Tử Sĩ Ðạt Ða mới xuất gia. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã xuất gia hành đạo rồi. 

Thị hiện thọ giới cụ túc, tinh tấn tu hành đạo, chứng quả Tu Ðà Hoàn, quả Tư Ðà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán. Mọi người thấy vậy đều nói quả A La Hán d¬ được không khó. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã thành tựu quả A La Hán rồi. 

Vì muốn độ thoát mọi loài chúng sanh, mà thị hiện trải cỏ làm tòa, ngồi nơi đạo tràng dưới cội Bồ Ðề hàng phục Ma quân. Ðại chúng đều cho rằng Như Lai mới thành đạo, hàng phục Ma quân. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã hàng phục Ma quân rồi. Vì muốn hàng phục chúng sanh cang cường nên thị hiện như vậy. 

Như Lai lại thị hiện đại tiện, tiểu tiện, thở ra, hít vào. Mọi người đều cho rằng Như Lai có đại tiện, tiểu tiện và thở. Kỳ thiệt thân của Như Lai đây đều không có những việc ấy, vì tùy thuận thế gianthị hiện như vậy. 

Lại thị hiện thọ thực phẩm của người dưng cúng, nhưng thiệt ra thân của Như Lai đều không có sự đói khát. Lại thị hiện ngủ nghỉ đồng như chúng sanh, nhưng từ vô lượng kiếp, Như Lai đầy đủ trí huệ thâm diệu, xa lìa tất cả những sự thế gian như đi, đứng, nằm, ngồi, đau đầu, đau bụng, đau lưng, rửa tay, rửa mặt, súc miệng v.v..., mọi người đều cho rằng Như Lai có các oai nghi như vậy. Nhưng thân của Như Lai đều không có những sự ấy, tay chơn trong sạch như hoa sen, hơi miệng thơm sạch như mùi thơm ưu-bát-la. 

Ðại chúng cho rằng Như Lai là nhơn loại, mà thiệt thời Như Lai không phải nhơn loại. 

Lại thị hiện nhận lấy y phấn tảo, giặt giủ may nhuộm, nhưng từ lâu Như Lai chẳng cần đến cái y ấy. 

Nầy Ca Diếp! Dầu Như Lai luôn thị hiện nhập niết bàn tại Diêm Phù Ðề nầy. Kỳ thiệt Như Lai chẳng rốt ráo nhập niết bàn, mà chúng sanh cho rằng Như Lai thiệt diệt độ. Phải biết tánh Như Lai thiệt chẳng diệt hẳn, là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi

Nầy Ca Diếp! Ðại Niết bànpháp giới của Phật Như Lai

Như Lai thị hiện ra đời thành Phật, chúng sanh đều nói Như Lai mới thành Phật; nhưng thiệt ra Như Lai chỗ làm đã xong từ vô lượng kiếp rồi, vì tùy thuận thế gianthị hiện như vậy. 

Nầy Ca Diếp! — Diêm Phù Ðề có lúc Như Lai thị hiện chẳng giữ giới cấm, phạm tứ trọng tội, nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai giữ chặt cấm giới chẳng một mảy thiếu xót. 

Có lúc thị hiện làm gã nhứt-xiển-đề, nhưng thiệt ra không phải nhứt-xiển-đề. Làm gì có nhứt-xiển-đề mà thành bực vô thượng chánh giác! 

Có lúc thị hiện phá hoà hiệp tăng, có lúc thị hiện hộ trì chánh pháp, mọi người đều phải kinh quái. 

Có lúc thị hiện làm Ma vương Ba tuần, nhưng từ vô lượng kiếp, Như Lai đã lìa ma sự, trong sạch không nhiễm như hoa sen

Có lúc thị hiện thân gái thành Phật, mọi người đều nói, rất lạ cho người nữ mà có thể thành Phật. Phải biết Như Lai trọn hẳn không thọ thân gái, vì muốn điều phục vô lượng chúng sanh nên hiện thân gái. Và cũng vì thương xót chúng sanh mà hiện nhiều thứ thân, cho đến hiện thân A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Ðịa Ngục, để độ chúng sanh trong các loài ấy. 

Lại thị hiện làm Phạm Thiên Vương để cho người thờ Phạm Thiên vào trong chánh pháp, nhẫn đến thị hiện các thân trời khắp các miếu trời cũng vì mục đích ấy. Nhưng thiệt ra Như Lai không phải Phạm Thiên, không phải thân trời. 

Có lúc thị hiện vào nhà gái dâm, nhưng Như Lai thiệt không có niệm dục, lòng Như Lai trong sạch không nhiểm ô như hoa sen, vào đấy để tuyên thuyết diệu pháp cho hạng người say mê sắc dục

Lại thị hiện vào nhà thanh y, để giáo hóa hạng nô tỳ cho chúng nó được trụ nơi chánh pháp

Lại thị hiện làm bác sĩ để dạy học trò, thị hiện chơi bài bạc để độ hạng người bài bạc, thị hiện thân chim thứu để độ loài thứu, lại thị hiện làm trưởng giả để an lập mọi người trụ nơi chánh pháp, thị hiện làm vua, làm quan, để dìu dắt nhơn dân tu chánh pháp

Lại thị hiện tật dịch (42) tại nơi Diêm Phù đề, rồi trước thí thuốc cho bịnh nhơn, sau giảng dạy đạo pháp. Lại thị hiện cơ cẩn tai, trước bố thí cơm áo, sau tuyên truyền diệu pháp. Lại thị hiện đao binh tai, rồi thuyết diệu pháp

Lại thị hiện vì hạng chấp thường mà giảng pháp vô thường, vì hạng chấp lạc mà giảng pháp khổ, vì hạng chấp ngãgiảng pháp vô ngã, vì hạng chấp tịnh mà giảng pháp bất tịnh. Vì người tham chấp ba cõi, mà thuyết pháp cho họ xa lìa ba cõi, vì độ chúng sanhtuyên thuyết diệu pháp vô thượng, trồng cây pháp dược vô thượng để thay cây phiền não, di¬n nói chánh pháp để cứu bọn ngoại đạo tà kiến. Dầu thị hiện làm thầy chúng sanh, nhưng Như Lai trọn không có quan niệm là Thầy. 

Ðức Như Lai chánh giác an trụ đại bát niết bàn như vậy, nên gọi là thường trụ không biến đổi

Cũng như thị hiện ở Diêm Phù Ðề, ở Ðông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Cu Lô Châu, nhẫn đến ở khắp cõi đại thiên, Như Lai đều thị hiện như vậy. Như kinh Thủ Lăng Nghiêm đã nói rộng. Vì lẽ ấy nên gọi là đại bát niết bàn

Nếu có vị đại Bồ Tát an trụ đại bát niết bàn như vậy, thời có thể thị hiện vô lượng thần thông biến hóa như trên, mà trọn không có chút chướng ngại cùng e sợ. 

Nầy Ca Diếp! Do nhơn duyên trên đây, ông chẳng nên nói rằng La Hầu La là con trai của Phật, vì từ vô lượng kiếp. Như Lai đã lìa hẵn dục nhi¬m, nên Như Lai gọi thường trụ không biến đổi". 

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Như lời Phật nói: như ngọn đèn đã tắt thời không có phương sở. Cũng vậy, Như Lai diệt độ rồi thời không phương sở. Thế nào Như Lai gọi là thường trụ?" 

Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Ví như người đời thắp đèn dầu, theo số dầu còn thời ngọn đèn cháy, khi dầu hết thời ngọn đèn tắt, ngọn đèn tắt dụ cho lửa phiền não dứt. Ngọn đèn tắt mà bình đèn vẫn còn. Cũng vậy, phiền não dầu dứt mà Như Lai pháp thân thường còn. 

Nầy Ca Diếp! Ngọn đèn cùng bình đèn có cùng tắt dứt cả không?" 

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, không ạ! Tuy không cùng tắt dứt cả, nhưng là vô thường. Nếu đem pháp thân dụ với bình đèn, thời pháp thân cũng vô thường". 

Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Ông không nên nạn như vậy. Ðồ vật thế gianvô thường, Như Lai không phải vô thường. Trong tất cả pháp niết bàn là thường, Như Lai tức niết bàn nên gọi là thường. 

Nầy Ca Diếp! Nói đèn tắt đó, là nói niết bàn của bực A La Hán chứng, vì A La Hán dứt tham ái phiền não nên dụ như đèn tắt. Bực A Na Hàm gọi là có tham, vì có tham nên chẳng được gọi là đồng với đèn tắt. Do nghĩa ấy nên ngày trước Như Lai nói dụ như đèn tắt, chớ chẳng phải đại niết Bàn đồng với đèn tắt. Bực A Na Hàm chẳng còn lại thọ thân trong ba cõn nữa, chẳng còn lại thọ thân hôi nhơ, thân trùng, thân ăn uống, thân độc khổ, nên gọi là A Na Hàm. Nếu còn thọ thân thời gọi là Na Hàm, không còn thọ thân mới gọi là A Na Hàm. Nếu còn khứ lai thời gọi là Na Hàm, không còn khứ lai mới gọi là A Na Hàm

Bấy giờ Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy "Chư Phật Thế Tôn có tạng bí mật!" Nghĩa nầy không phải. Vì chư Phật Thế Tôn chỉ có mật ngữ mà không có mật tạng. Như nhà ảo thuật điều khiển người máy. Mọi người dầu thấy người máy co duỗi cúi ngửa, nhưng chẳng biết bộ phận trong thế nào. Phật pháp không phải như vậy, Phật pháp làm cho chúng sanh đều hiểu đều biết. Thế sao lại bão rằng chư Phật Thế Tôn tôn có tạng bí mật?" 

Phật khen: "Lành thay! Lành thay! Ðúng như lời ông vừa nói. Như Lai thiệt không có tạng bí mật. Như trăng tròn giữa đêm thu, trời trong không mây mù, mọi người ai cũng thấy rõ vầng trăng sáng. Lời của Như Lai cũng khai phát hiển lộ rõ ràng, kẻ ngu kia tự không hiểu rồi cho là tạng bí mật. Người trí suốt thấu thời không gọi là tạng. 

Nầy Ca Diếp! Ví như có người để dành vàng bạc đến số ức triệu, vì lòng bỏn xẻn nên chẳng ban ơn bố thí cho kẻ nghèo cùng, chứa của như vậy mới gọi là dấu kín. Như Lai thời không phải thế, từ vô lượng kiếp chứa để vô lượng diệu pháp, lòng không bỏn xẻn, thường đem ban bố cho mọi loài chúng sanh, đâu có thể gọi là Như Lai bí tạng được. 

Như có người tật nguyền, hoặc một mắt, cụt tay, què chơn, vì hổ thẹn mà không cho người thấy, vì thế nên gọi là núp kín. Như Lai thời không phải thế, bao nhiêu chánh pháp đầy đủ không thiếu đều cho người thấy cả nên pháp của Như Lai không gọi là bí tạng được. 

Như người nghèo thiếu nợ nhiều, vì sợ chủ nợ đòi mà ẩn trốn, nên gọi là trốn kín. Như Lai thời không phải thế, Như Lai không có nợ chúng sanh về pháp thế gian. Dầu đối với chúng sanh có nợ xuất thế, nhưng cũng chẳng ẩn mặt, vì Như Lai luôn xem chúng sanh như con đẻ, mà thường di¬n thuyết pháp nghĩa vô thượng

Như trưởng giả giàu có nhiều của, chỉ có một người con trai, trưởng giả rất mến yêu con, bao nhiêu tiền của châu báu đều chỉ cho con biết. Cũng vậy, Như Lai xem chúng sanh đồng là con một. 

Như người đời vì nam căn, nữ căn (43) xấu xí nên dùng y phục để che đậy nên gọi là phúc tàng. Như Lai không phải thế, đã dứt hẳn thứ căn ấy, vì không căn nên không chỗ phúc tàng. 

Như dòng Bà La Môn có những điều luận nói, trọn không muốn cho người trong dòng Sát Lợi, Tỳ Xá, Thủ Ðà (44) nghe biết, vì trong các luận điều của họ có chỗ lỗi ác. Chánh pháp của Như Lai thời không phải như vậy, tất cả đều là lành là phải, vì thế nên chẳng được gọi là bí tạng

Như trưởng giả (45) rất cưng yêu đứa con trai một, dắt đến nhà trường ý muốn cho học, sau vì sợ con không được mau thành tài nên lại dắt về. Vì thương con nên trưởng giả ngày đêm ân cần dạy cho nó về bán tự, mà không dạy luận Tỳ Già La, vì nó còn nhỏ tuổi quá, chưa đủ sức học. 

Nầy Ca Diếp! Giả sử trưởng giả dạy về bán tự xong, đứa con trai ấy có thể liền đặng hiểu biết luận Tỳ Già La không? 

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn không!" 

Phật hỏi: "Như vậy trưởng giả có bí tàng đối với con của ông không?" 

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn không! Vì đứa con còn thơ ấu, nên trưởng giả không dạy, chớ chẳng phải vì bí tàng lẩn tiếc mà không dạy. Nếu có lòng tật đố lẩn tiếc mới gọi là bí tàng. Như Lai không như vậy, sao lại gọi là Như Lai bí tàng được." 

Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Ðúng như lời ông nói. Nếu có lòng tật đố giận hờn lẩn tiếc mới gọi là bí tàng. Như Lai không có những lòng quấy ấy đâu gọi là bí tàng được. 

Nầy Ca Diếp! Ông trưởng giả trên kia là chỉ cho Như Lai, đứa con trai một của ông là chỉ cho tất cả chúng sanh. Như Lai xem tất cả chúng sanh như con một. Dạy con trai một là nói hàng Thanh văn đệ tử. Còn bán tự (46) đó là nói chín bộ kinh Tiểu Thừa. Luận Tỳ Già La là nói về kinh điển Phương Ðẳng (47) Ðại Thừa. Vì hàng Thanh văn không đủ sức trí huệ nên Như Lai dạy cho họ bán tự chín bộ kinh điển mà chẳng dạy luận Tỳ Già La kinh điển Phương Ðẳng Ðại Thừa. 

Nầy Ca Diếp! Như đứa con trai kia tuổi đã lớn, đủ sức học tập, mà trưởng giả không dạy luận Tỳ Già La mới có thể gọi trưởng giả là bí tàng. Nếu hàng Thanh văn (48) đủ sức lãnh thọ Ðại Thừa mà Như Lai lẩn tiếc không dạy, mới có thể gọi Như Lai có tạng bí mật. Nhưng thiệt ra Như Lai không phải như vậy, nên Như Lai không có bí tàng. 

Như trưởng giả sau khi dạy bán tự xong, kế vì con mà di¬n nói Luận Tỳ Già La. Cũng vậy, Như Lai vì các đệ tử giảng nói bán tự chín phần kinh xong, kế vì giảng nói luận Tỳ Già La Phương Ðẳng Ðại Thừa, chính là diệu lý Như Lai thường còn không biến đổi

Nầy Ca Diếp! Như tháng mùa hạ, kéo mây nổi sấm xối mưa lớn, khiến nhà nông cày cấy đặng mùa. Người không gieo trồng thời không chỗ được, chẳng phải lỗi của Long Vương, mà Long Vương cũng không chổ tiếc dấu. Như Lai đây cũng như vậy, xối mưa pháp lớn: Kinh Ðại Niết Bàn. Nếu các chúng sanh gieo hột lành thời được mầm trái trí huệ. Nếu không gieo hột lành thời không chỗ được. Ðây không phải là lỗi ở Như Lai, mà Phật Như Lai cũng không chỗ bí tàng." 

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Nay con quyết định rõ biết Như Lai không chỗ bí tàng. Như lời Phật nói: Luận Tỳ Già La là nói Phật Như Lai thường còn không biến đổi. Nghĩa đây không phải. Vì sao? Vì ngày trước Phật có nói kệ: 

Chư Phật cùng Duyên giác 
Nhẫn đến chúng đệ tử
Còn bỏ thân vô thường
Huống là hạng phàm phu
Nay Phật nói là thường còn không biến đổi, nghĩa đây như thế nào? 

Phật dạy: "Nầy Ca Diếp! Như Lai vì hàng Thanh văn đệ tử mà dạy về bán tự nên nói kệ vô thường ấy. 

Nầy Ca Diếp! Xưa kia, vì mẹ chết nên vua Ba Tư Nặc rất thương nhớ buồn khổ, đến thăm Như Lai. Như Lai liền hỏi cớ sao nhà vua lại quá buồn khổ như vậy? - Vua đáp: "Bạch Thế Tôn hôm nay Thái hậu thăng hà. Giả sử có người nào làm cho mẹ tôi sống lại, tôi nhường ngôi và đem của tiền châu báu cùng thân nầy để thưởng tặng cho người ấy xử dụng. "Như Lai khuyên: "Nầy Ðại Vương! Nhà vua chớ nên quá sầu khổ. Tất cả chúng sanh hể thọ mạng hết gọi là chết. Chư Phật, Duyên giác, Thanh văn còn bỏ thân nầy, huống là phàm phu! 

Nầy Ca Diếp! Vì dạy bán tự cho vua Ba Tư Nặc nên Như Lai nói bài kệ ấy. 

Nay Như Lai vì các hàng Thanh văn đệ tử giảng nói luận Tỳ Già La, tức là Như Lai thường còn không biến đổi." 

Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật: "Như lời Phật dạy

Không chỗ chứa nhóm 
Nơi ăn biết đủ 
Như chim bay không
Dấu không thể tìm. 

Bạch Thế Tôn, những nghĩa nầy là thế nào? Trong chúng hội đây ai được gọi là không chỗ chứa nhóm? Ai được gọi là nơi ăn biết đủ? Ai đi nơi hư không chẳng thể tìm dấu? Mà sự đi nầy là đến phương nào? 

Phật dạy: "Luận về chứa nhóm là nói về của báu

Nầy Ca Diếp! Chứa nhóm có hai thứ: một là hữu vi, hai là vô vi. Chứa nhóm hữu vi là hạnh Thanh văn, chứa nhóm vô vi là hạnh Như Lai

Nầy Ca Diếp! Tăng cũng có hai hạng: một là hữu vi, hai là vô vi. Hữu vi Tăng gọi là hàng Thanh văn. Thanh văn Tăng không có chứa nhóm những tôi tớ đồ vật phi pháp, kho đụn lúa gạo, muối, mè, đậu, bắp. Nếu có người nói Như Lai cho chứa tôi tớ các đồ vật như vậy, người ấy sẽ bị báo rút lưỡi. Hàng Thanh văn đệ tử của Như Lai gọi là không chứa nhóm, cũng được gọi là nơi ăn biết đủ. Nếu có tham ăn gọi là chẳng biết đủ. 

Người khó tìm dấu thời là bực gần đạo vô thượng bồ đề. Như Lai nói người nầy dầu đi mà không chỗ đến." 

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Hàng hữu vi Tăng còn không chứa nhóm huống là vô vi Tăng. Vô vi Tăng chínhNhư Lai. Thế sao Như Lai phải có chứa nhóm. Và chứa nhóm đó gọi là cất dấu. Thế nên Như Lai phàm có nói ra đều không lẫn tiếc, thế nào gọi là dấu cất? 

Không thể tìm ra dấu vết đó, gọi là niết bàn. Trong niết bàn không có mặt trời, mặt trăng, tinh tú, lạnh nóng gió mưa. Sanh già bịnh chết, hai mươi lăm cõi, lìa các sự lo khổ và các phiền não. Niết bàn như vậy là chỗ Như Lai ở thường không biến đổi. Vì nhơn duyên ấy, Như Lai đến trong rừng Ta La nơi đại niết bàn mà nhập đại niết bàn." 

Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Chữ Ðại đó tánh ấy rộng lớn. Như người sống lâu vô lượng tuổi thời gọi là đại trượng phu. Người nầy nếu có thể an trụ nơi chánh pháp thời gọi là bực siêu thăng trong loài người. Như tám điều giác ngộ của bực đại nhơn mà Như Lai đã dạy, là một người có đủ hay nhiều người có đủ. Nếu một người đủ cả tam thời là rất siêu thăng. Nói rằng niết bàn đó, không có tỳ vết. 

Nầy Ca Diếp! Như người bị xuông tên độc đau nhức lắm, gặp được lương y nhổ tên độc ra rồi truyền cho thuốc hay, người ấy hết đau nhức được an vui. Vị lương y nầy liền đi nơi thành ấp và các xóm làng, hễ chỗ nào có người bị thương đau khổ liền đến điều trị

Cũng vậy, Như Lai thành bực Ðẳng Chánh Giác làm vị đại Y Vương, thấy chúng sanh khổ não nơi Diêm Phù Ðề, từ vô lượng kiếp bị tên độc phiền não, dâm nộ, si mê làm đau nhức, bèn nói kinh Ðại Thừa cam lộ pháp dược. Ðiều trị nơi đây rồi, Như Lai lại đến xứ khác, nơi có tên độc phiền não, thị hiện làm Phật để điều trị. Thế nên gọi là đại bát niết bàn

Ðại bát Niết Bàn đó gọi là chỗ giải thoát. Tùy nơi nào có chúng sanh đáng được điều phục, thời Như Lai ở trong ấy mà thị hiện. Vì nghĩa chơn thiệt thậm thâm nầy nên gọi là đại bát niết bàn." 

Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Y sư trong đời có thể điều trị thương tích cho tất cả chúng sanh chăng?" 

Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Thương tích của người đời phàm có hai thứ: một là bịnh có thể trị, hai là bịnh không thể trị. Bịnh có thể trị thời y sư trị được, còn bịnh không thể trị thời y sư không trị được." 

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Cứ như lời Phật dạy, thời Như Lai đã trị bịnh cho chúng sanh nơi Diêm Phù Ðề nầy rồi. Nếu nói đã trị rồi, sao nơi đây còn có chúng sanh chưa được niết bàn? Nếu chưa được niết bàn cả, sao Như Lai nói rằng điều trị đã xong mà muốn đến xứ khác?" 

Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Chúng sanh trong Diêm Phù Ðề nầy có hai hạng: một hạng tin và một hạng không tin. Hạng có lòng tin thời gọi là trị được, vì sẽ không phiền não quyết định được niết bàn, thế nên Như Lai nói trị chúng sanh nơi Diêm Phù Ðề rồi. Hạng không lòng tin gọi là nhứt-xiển-đề. Hạng nhứt-xiển-đề gọi là không trị được. Trừ hạng nhứt-xiển-đề, ngoài ra đều đã trị xong, thế nên niết bàn gọi là không thương tích." 

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là niết bàn?" 

Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Niết bàn đó, gọi là giải thoát." 

- Bạch Thế Tôn! Chỗ nói giải thoát, là sắc hay chẳng phải sắc?" 

- Nầy Ca Diếp! Hoặc là sắc, hoặc là chẳng phải sắc. Thanh văn, Duyên giác giải thoát là không phải sắc. Chư Phật Như Lai giải thoát là sắc. 

Nầy Ca Diếp! Thế nên giải thoát cũng sắc cũng chẳng phải sắc. Như Lai vì hàng Thanh văn đệ tử nói là chẳng phải sắc. 

- Bạch Thế Tôn! Thanh văn Duyên giác nếu chẳng phải sắc thời thế nào được trụ? 

- Nầy Ca Diếp! Như trời phi tưởng phi phi tưởng cũng phải là sắc chẳng phải sắc, Như Lai cũng nói là chẳng phải sắc. Như có người nạn rằng Trời phi tưởng phi phi tưởng nếu chẳng phải sắc thế nào được trụ, đi lại, cử động? Những nghĩa nầy là cảnh giới chư Phật. Chẳng phải Thanh văn Duyên giác biết được. Giải thoát cũng vậy là sắc chẳng phải sắc nói là chẳng phải sắc, cũng là tưởng chẳng phải tưởng nói là chẳng phải tưởng. Những nghĩa như vậy là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải hàng Thanh văn Duyên giác biết được. 

Bấy giờ Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật rằng: "Ngưỡng mong đức Thế Tôn thương xót nói rộng lại những nghĩa hạnh đại niết bàn giải thoát." 

Phật khen: "Lành thay! Lành thay! Nầy Ca Diếp! Người chơn giải thoát gọi là xa lìa tất cả hệ phước. Nếu chơn giải thoát lìa các hệ phước thời không có sanh cũng không hòa hiệp. Ví như cha mẹ hòa hiệp sanh ra con. Người chơn giải thoát thời không phải như vậy, thế nên giải thoát gọi rằng chẳng sanh. 

Nầy Ca Diếp! Như đề hồ, tánh nó thanh tịnh. Cũng vậy, Như Lai chẳng phải nhơn cha mẹ hòa hiệp mà sanh, tánh Như Lai thanh tịnh, sở dĩ thị hiệncha mẹ là vì muốn hóa độ các chúng sanh. Người chơn giải thoát tức là Như Lai. Như Lai cùng giải thoát không hai không khác. 

Ví như tháng mùa xuân gieo các hột giống, đặng hơi ẩm ướt liền mọc mầm lên cây. Người chơn giải thoát thời chẳng như vậy. 

Lại giải thoát gọi là hư vô. Hư vô tức là giải thoát, giải thoát tức là Như Lai, Như Lai tức là hư vô, chẳng phải năng tác sở tác. Phàm là tác giả dường như thành quách lầu nhà để ngăn kẻ địch, chơn giải thoát thời chẳng như vậy. Thế nên giải thoát tức là Như Lai

Lại giải thoát tức là pháp vô vi. Ví như thợ gốm làm đồ rồi lại bị bể. Giải thoát chẳng như vậy. Chơn thiệt giải thoát chẳng sanh chẳng diệt. Thế nên giải thoát tức là Như Lai. Cũng vậy, Như Lai bất sanh bất diệt, chẳng già, chẳng chết, chẳng hư chẳng hoại, chẳng phải pháp hữu vi. Do những nghĩa nầy nên gọi Như Lai nhập đại niết bàn

Già là dời đổi, tóc bạc, mặt nhăn, chết là thân hư mạng hết, trong giải thoát không hai thứ nầy. Vì không già chết nên gọi giải thoát. Như Lai cũng không tóc bạc mặt nhăn các pháp hữu vi dời đổi, thế nên Như Lai không có già. Không có già thời không có chết. 

Lại giải thoát gọi rằng không bịnh. Bịnh là bốn trăm lẽ bốn bịnh và các thứ bịnh ở ngoài đến xâm tổn nơi thân. Nơi đây không có các bịnh ấy nên gọi là giải thoát. Không tật bịnh là chơn thiệt giải thoát, chơn thiệt giải thoát tức là Như Lai. Như Lai không bịnh cho nên pháp thân cũng không có bịnh. Không bịnh như vậy tức là Như Lai

Chết là thân hư mạng hết. Nơi đây không chết tức là cam lộ. Cam lộ nầy là chơn thiệt giải thoát, chơn giải thoát tức là Như Lai

Như Lai thành tựu công đức như vậy, thế sao lại nói Như Lai vô thường? Không có lẽ gì nói Như Laivô thường được. Là thân kim cang thế nào vô thường! Thế nên Như Lai không gọi là chết. 

Như Lai thanh tịnh không có cấu nhơ. Thân Như Lai chẳng bị nhơ nhớp trong thai, như hoa sen trắng bổn tánh trong sạch. Như Lai giải thoát cũng lại như vậy. Giải thoát như vậy tức là Như Lai. Thế nên Như Lai thanh tịnh không cấu nhơ. 

Lại giải thoát trọn không còn sót thừa những phiền não lỗi lầm. Cũng vậy, Như Lai không có tất cả phiền não lỗi lầm

Lại giải thoát không có đấu tranh. Ví như người đói, thấy kẻ khác ăn uống thời sanh lòng tham đoạt. Giải thoát không phải như vậy. 

Lại giải thoát gọi là an tịnh. Người phàm tục cho rằng an tịnh là Ðại Tự Tại thiên, đây là lời hư vọng. Chơn thiệt an tịnhrốt ráo giải thoát, rốt ráo giải thoát tức là Như Lai

Lại giải thoát tức là an ổn. Như chỗ nhiều giặc cướp chẳng gọi an ổn. Nơi thanh bình mới gọi là an ổn. Trong giải thoát không có bố úy nên gọi là an ổn. Thế nên an ổn tức là chơn thiệt giải thoát, chơn giải thoát tức là Như Lai. Như Lai tức là pháp vậy. 

Lại giải thoát không có bạn đồng hàng. Có bạn đồng hàng như quốc vương có các lân quốc. Không bạn đồng hàng như Chuyển Luân Thánh Vương không có vua nào đứng ngang hàng. Cũng vậy, giải thoát không có đồng hạng. Không có đồng hàng là chơn giải thoát. Chơn giải thoátNhư Lai Chuyển Pháp Luân Vương. Thế nên Như Lai không bạn đồng hàng. 

Lại giải thoát không ưu sầu. Có ưu sầu như Quốc Vương sợ nước láng giềng mạnh nên ưu sầu. Giải thoát không như vậy. Như phá được oán địch thời không còn lo sợ nữa. Cũng vậy, giải thoát không có lo sợ, không lo sợ tức là Như Lai

Lại giải thoát là không lo mừng. Ví như người đàn bà chỉ có một đứa con trai, có việc xa nhà, thoạt có tin con bị nạn chết thời rất sầu khổ, về sau lai nghe rằng còn sống thời rất vui mừng. Trong giải thoát không có sự lo mừng như vậy. Không lo mừng là chơn giải thoát, chơn giải thoát tức là Như Lai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12510)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14108)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10848)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10512)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11191)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11998)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13133)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13633)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33654)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11335)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12922)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13056)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11624)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17890)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11431)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11849)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11488)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18972)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12539)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11321)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13136)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15753)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11808)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11689)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12764)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12630)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13965)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12979)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12936)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13295)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12759)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12687)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11733)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11722)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12324)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12383)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19815)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11958)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11989)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16880)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12666)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15057)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16115)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12871)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12218)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11915)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11923)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13150)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16504)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13228)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12483)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11816)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19857)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11149)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11253)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10401)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11089)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10958)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10034)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11745)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant