KINH ÐẠI BÁT
NIẾT BÀN
Dịch
Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Tịnh
Xá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
XXVIII
PHẨM
TRÀ TỲ THỨ HAI MƯƠI TÁM
Lúc
đó tất cả nhân dân nam nữ trong thành Câu Thi Na hỏi
ngài A Nan pháp tắc trà tỳ đối với Đức Như Lai.
Ngài
A Nan thuật lại lời Phật nên theo pháp tắc Chuyển Luân Thánh
Vương.
Tất
cả nhân dân buồn khóc rơi lệ trở vào trong thành làm kim
quan dùng thất bảo trang nghiêm, cùng lo sắm ngàn bức bạch
điệp vô giá, vô số bông đâu la miên mềm nhuyễn, vô số
chiên đàn, trầm thủy, hòa hương hương thủy, hương
nê, phan lọng hoa hương v.v… Sắm sửa xong, cùng nhau đến
trước Phật rơi lệ nghẹn ngào mà dâng lên cúng dường.
Lúc
đó đại chúng buồn thương cung kính dùng bạch điệp tốt
che tay đỡ Như Lai vào trong kim quan đổ đầy dầu thơm, nắp
kim quan liền đóng kín lại.
Nhơn
dân trong thành Câu Thi Na vì tham phước lành, không muốn cho
đại chúng trời người khiêng kim quan của Phật, họ sai bốn
đại lực sĩ thỉnh kim quan của Phật vào trong thành để
cúng dường. Bốn đại lực sĩ nầy vận dụng hết sức mình
mà vẫn không động được kim quan. Trong thành lại sai tám
đại lực sĩ, rồi đến mười sáu đại lực sĩ, nhưng vẫn
không khiêng nổi.
Ngài
A Nâu Lâu Đà thong thả bảo các lực sĩ rằng : “ Dầu cho
tất cả nhơn dân trong thành cũng không khiêng nổi kim quan,
huống là các ông. Các ông phải thỉnh đại chúng cùng chư
thiên trợ lực các ông mới khiêng kim quan vào thành được.
Lúc
đó Thiên Đế Thích cùng chư thiên cầm lọng thất bảo lớn
cùng vô số hoa hương phan lọng các thứ âm nhạc, khóc lóc
rơi lệ ở giữa hư không giăng che cúng dường kim quan của
Phật. Lục dục thiên cùng sắc giới thiên cũng đồng cúng
dường kim quan như Đế Thích.
Đức
Đại Bi của Thế Tôn muốn cho thế gian được tâm bình đẳng
đồng được phước, kim quan liền từ rừng Ta La tự bay lên
hư không cao bằng một cây Đa La.
Nhơn
dân trong thành Câu Thi Na và tất cả đại chúng trời người,
vì không được khiêng kim quan nên tự cảm thương kêu khóc.
Chư
thiên đem hoa hương châu ngọc rải trước kim quan, vần vũ
quanh kim quan. Đồng than thở xướng to rằng : Khổ thay ! Khổ
thay ! Chúng ta vô phước chẳng đặng khiêng kim quan.
Lúc
đó kim quan của Phật bay trên hư không, từ rừng Ta La bay
chậm chậm vào cửa Tây thành Câu Thi Na, Tất cả nhơn dân
đại chúng trời, người, Bồ Tát, Thanh Văn, hoặc đi dưới
đất, hoặc đi trên hư không, theo sau kim quan buồn khóc than
thở nghẹn ngào rơi lệ.
Thành
Câu Thi Na mỗi phía rộng bốn mươi tám do tuần. Kim quan của
Phật bay chậm chậm trên hư không vòng ra cửa Đông hữu nhiễu
vào của Nam, rồi vẫn bay chậm chậm trên hư không mà ra của
Bắc, lại tả nhiễu vào cửa Tây. Bay nhiễu đủ ba vòng như
vậy, kim quan bay chậm chậm trên không vào cửa Tây rồi ra
cửa Đông, tả nhiễu vào cửa Bắc lại ra cửa Nam, hữu nhiễu
trở lại vào cửa Tây, bay như vậy đủ bốn vòng.
Lúc
kim quan của Phật bay vào thành, vô số đại chúng mang vô
số gỗ thơm, chiên đàn, trầm thủy, tất cả hương báu cùng
vô số phan lọng hương hoa chuỗi ngọc đến chỗ trà tỳ.
Tứ
Thiên Vương cùng chư thiên cũng đem những thứ hương thượng
diệu cõi trời đến chỗ trà tỳ.
Chư
thiên cõi trời Đao Lợi nhẫn đến chư thiên cõi trời Tha
Hóa cũng đều đem vô số thứ hương thượng diệu cõi trời
và phan lọng hoa hương chuỗi ngọc gấp bội trời Tứ Thiên
Vương đến chỗ trà tỳ.
Chư
thiên cõi sắc, cõi vô sắc chỉ đem hương hoa đến chỗ trà
tỳ.
Ngài
A Nâu Lâu Đà, lệ đầy mắt chẳng xiết buồn thương, khất
gỗ thơm chiên đàn trầm thủy cõi trời đủ sáu ngàn cây
đem đến chỗ trà tỳ.
Lúc
Đức Thế Tôn mới thành đạo, bờ phía Bắc sông Hằng mọc
lên một cây chiên đàn, lớn như bánh xe, cao bằng bảy cây
Đa La. Hơi thơm bay tỏa khắp nơi Thọ Thần của cây chiên
đàn nầy sanh đồng thời với cây, thường đem hương của
cây nầy đến cúng dường Phật. Giờ Phật nhập Niết Bàn,
cây chiên đàn nầy liền chết nhánh lá khô rụng, Thọ Thần
nầy cũng chết theo cây. Các vị thần khác đem cả cây
chiên đàn đã chết khô nầy đến chỗ trà tỳ để cúng
dường.
Nơi
đây là chỗ trà tỳ của tam thế chư Phật. Nơi đây có vô
lượng tháp báu của chư Phật quá khứ. Nơi đây là chỗ
đất Kim cang cứng chắc.
Lúc
đó kim quan của Phật bay chầm chậm trên không hữu nhiễu
tả nhiễu bay quanh thành Câu thi Na đủ bảy vòng, rồi từ
từ hạ xuống trên giừơng thất bảo, trong thời gian đó
trải qua bảy ngày.
Nhơn
dân đại chúng trời người , Thanh Văn, Bồ Tát cầm phan lọng
hoa hương buồn khóc rơi lệ theo sau kim quan trọn bảy ngày.
Do
thần lực của Phật, tất cả đại chúng đều không đói
khát, không một ai nghĩ đến ăn uống, chỉ thành tâm cung
kính mến luyến Đức Như Lai.
Vì
đã đủ bảy ngày sắp đem Như Lai ra khỏi kim quan, đại chúng
kêu khóc chấn động thế giới, dùng bạch điệp mịn nhuyễn
che tay cung kính phò thân Kim Cang bất hoại đủ ba mươi hai
tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Như Lai an lành ra khỏi
kim quan để trên giừơng thất bảo.
Đại
chúng càng thêm buồn thương than khóc, đem hoa hương, trổi
âm nhạc cúng dường Như lai.
Mọi
người mắt đầy lệ, miệng nghẹn ngào, dùng vô số hương
thủy, cung kính tắm rửa thân Như Lai từ đầu đến chân.
Cũng rửa kim quan trong ngoài sạch sẽ.
Tắm
rửa thân Như Lai xong, đại chúng lại đem vô số hương hoa
phan lọng buồn thương khóc lóc, cúng dường như Lai. Dùng
vô số bông đâu la miên mịn màng bao bọc thân Kim Cang của
Như Lai từ đầu đến chân. Rồi lấy bạch điệp vô giá
tuần tự quấn ngoài bông đâu la miên đủ một ngàn bức.
Đại
chúng lại khóc than cúng dường rồi lấy bạch điệp che tay
cung kính phò thân Như Lai vào trong kim quan, đổ đầy dầu
thơm, nắp kim quan liền đóng lại.
Đại
chúng lại buồn than khóc lóc trổi âm nhạc dưng hương hoa
cúng dường kim quan.
Sau
đó đại chúng chất gỗ thơm chiên đàn trầm thủy thành
lầu hương lớn, bốn phía treo giăng những lọng báu phan đèn,
chuỗi ngọc, dây vàng. Mùi gỗ thơm bay tỏa khắp thành.
Sau
khi dâng hoa hương, trổi âm nhạc thương khóc cúng dường,
đại chúng trời người dùng bạch điệp che tay cung kính khiêng
kim quan để lên lầu hương.
Đại
chúng lại than khóc, nhiều người ngất xỉu. Khi tỉnh lại
đồng kêu rằng : Khổ thay ! Khổ thay ! Nào ngờ cuối cùng
không chỗ nương cậy ! Than xong nghẹn ngào rơi lệ lại rải
hương hoa, treo phan lọng, trổi âm nhạc cúng dường Như Lai.
Lúc
đó sắp sửa nổi lửa trà tỳ, đại chúng lại kêu gào than
khóc chấn động cõi đại thiên trần thiết cúng dường kim
quan của Phật.
Mọi
người vừa khóc lóc lệ đầy mắt, đều cầm đuốc hương
lớn cả ôm, cháy sáng cả vùng, đem đến châm vào lầu gỗ
thơm. Khi đến gần lầu gỗ thơm, tất cả ngọn đuốc đều
tự nhiên tắt. Đại chúng lại thay vô số đuốc khác ném
vào dưới lầu hương, tất cả ngọn đuốc cũng đều tắt.
Trăm
ngàn Hải Thần đem đuốc lớn thất bảo đến châm vào lầu
hương, những đuốc nầy cũng đều tắt.
Đại
chúng chẳng biết cớ gì trà tỳ chẳng được, đây có lẽ
Đức Như lai còn có nhơn duyên gì chưa xong.
Lúc
đó ngài Ma Ha Ca Diếp cùng năm trăm Tỳ Kheo ở tại núi Kỳ
Xà Quật cách thành Câu Thi Na năm mươi do tuần, đương nhập
Tam Muội, bỗng nhiên tim nhảy thân rung, liền xuất định
thấy núi cây đều chấn động, biết rằng Đức Như Lai đã
nhập Niết Bàn. Ngài bảo các Tỳ Kheo: Đức Đại Sư Thế
Tôn của chúng ta đã nhập Niết Bàn bảy ngày rồi, hiện
đã vào trong kim quan.
Khổ
thay ! Khổ thay ! Chúng ta phải mau đến chỗĐức Như Lai, sợ
rằng đã trà tỳ rồi chẳng còn được thấy sắc thân chơn
tịnh ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Đức
Phật.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp vì lòng kính trọng Phật nên chẳng dám dùng
thần thông bay đi, bèn dắt các Thầy Tỳ Kheo đi bộ bảy
ngày mới tới thành Câu Thi Na.
Trên
đầu đường cửa Đông, ngài Ma Ha Ca Diếp thấy một Bà La
Môn tay cầm một nhánh thiên hoa đi ngược chiều, liền hỏi
: “ Ông từ đâu mà đến đây?”
Bà
La Môn đáp : “ Đức Phật đã nhập Niết Bàn, tôi vừa ở
chỗ trà tỳ về”.
_ Ông
đương cầm đó là hoa gì ?
_ Tôi
ở chỗtrà tỳ được cành hoa trời nầy.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp ngỏ ý xin hoa ấy.
Bà
La Môn nói : “ Không được ! Tôi muốn đem hoa nầy về cho
thân tộc tôi cúng dường trong nhà.”
Ngài
Ma Ha Ca Diếp bèn mượn cành hoa, hai tay cung kính để lên đầu
mình, liền ngất xỉu té xuống đất. Giây lậu tỉnh lại
suy nghĩ rằng : Ở đây than khóc, chẳng thấy được
sắc thân hùynh kim của Như Lai cũng không ích gì.
Nghĩ
xong, liền cùng các Tỳ Kheo đi gấp vào cửa Bắc thành Câu
Thi Na, ghé vào một tăng phường thấy các Tỳ Kheo đang hội
họp.
Các
Tỳ Kheo nầy bảo ngài rằng : Xem các ông dường như từ xa
mới đến, có lẽ nhọc nhằn đói khát, nên ngồi nghỉ chờ
đến giờ ăn.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp nói : Đấng Đại Sư đã nhập Niết Bàn, chúng
tôi còn lòng nào ở yên đây chờ ăn.
_ Đại
Sư là ai ?
_ Khổ
thay , đau đớn thay ! Các Thầy chẳng biết ư ? Đấng Đại
Giác Thế Tôn nay đã nhập Niết Bàn.
Các
Tỳ Kheo nầy nghe rồi vui mừng lắm, nói rằng : “ Sướng
lắm ! Sướng lắm ! Đức Như Lai còn tại thế cấm răn chúng
ta, đặt ra giới luật nghiêm tuấn, chúng ta chẳng chịu nổi.
Nay đã nhập diệt, những giới luật nghiêm tuấn ấy cũng
phải bỏ. Các ông thong thả chờ ăn uống, có gì phải vội
gấp.”
Đức
Phật dùng thần lực bít tai chư thiên và các Tỳ Kheo theo
ngài Ca Diếp. Những Tỳ Kheo nầy cùng chư thiên đều
chẳng nghe những lời ác của các Tỳ Kheo vừa nói. Chỉ một
mình ngài Ma Ha Ca Diếp nghe thôi.
Lúc
đó, ngài Ca Diếp dắt các Tỳ Kheo rời tăng phường vội
vã đến chỗ Phật. Vừa đi vừa suy nghĩ chúng tôi làm sao
được có những đồ cúng dường, để khi đến chỗ Phật
dâng lên cúng dường ?
Ngài
Ma Ha Ca Diếp lại suy nghĩ : Tôi vốn sanh trưởng ở trong thành
nầy, nay xin đồ cúng dường có lẽ cũng được.
Ngài
liền dắt các Tỳ Kheo ghé từng nhà để xin, được ngàn
bức bạch điệp tốt, vô số bông đâu la miên, cùng rất
nhiều hương hoa, hương nê, hương thủy, hương du, phan
lọng, hàng màu, chuỗi ngọc.
Xin
đồ cúng dường xong, các ngài lật đật mang ra cửa Tây.
Từ xa nghe vẳng tiếng đại chúng than khóc ở chỗ trà tỳ.
Nghe đại chúng hỏi Thiên Đế cúng dường đã xong làm sao
có lửa để đốt lầu hương ? Nghe Thiên Đế đáp rằng đại
chúng nên chờ, ngài Ma Ha Ca Diếp sắp đến.
Tất
cả đại chúng đương buồn khóc thấy ngài Ma Ha Ca Diếp cùng
năm trăm Tỳ Kheo vừa đi, vừa khóc mà đến, liền tránh đường
nhường chỗ cho ngài Ma Ha Ca Diếp đi thẳng vào lầu hương.
Ngài Ma Ha Ca Diếp dắt cácTỳ Kheo vòng lên kim quan mà lễ
bái kêu khóc ngất xỉu, giây lâu tỉnh lại nước mắt tuôn
rơi, hỏi đại chúng rằng : “ Làm sao để được mở kim
quan của Phật ?”
Đại
chúng đáp : “ Phật nhập Niết Bàn đã trải qua hai thất,
sợ có tổn hoại chăng?”
Ngài
Ma Ha Ca Diếp nói : “Thân của Như Lai là thân Kim Cang thường,
lạc, ngã, tịnh, không thể có sự hư rã, thân Phật thơm
tho ngào ngạt như núi Chiên Đàn.”
Nói
xong các ngài liền đến bên kim quan than thở khóc lóc.
Lúc
đó Đức Như Lai Đại Bi bình đẳng vì ngài Ma Ha Ca Diếp
nên kim quan tự nhiên mở nắp. Ngàn trương bạch điệp cùng
bông đâu la miên đều tự tháo tung, lộ bày thân huỳnh kim
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Vừa thấy kim
thân của Phật lộ ra, các ngài liền ngất xỉu té xuống,
giây lâu tỉnh lại nghẹn ngào than khóc, nước mắt chảy
tuôn đem hoa hương phan lọng hàng màu chuỗi ngọc của mình
xin đặng dâng lên cúng dường, rồi lấy hương nê hương
thủy tắm rửa kim thân của Như Lai, đốt hương rải hoa khóc
lóc cúng dường. Sau đó các ngài đem bông đâu la miên
của mình bao trùm kim thân kế lấy bông đâu la miên cũ bao
ngoài. Lại lấy ngàn bức bạch điệp của mình tuần tự
quấn ngoài bông đâu la miên, kế đó lấy ngàn bức bạch
điệp cũ cũng theo thứ tự quấn ngoài bạch điệp mới. Sau
khi quấn bạch điệp xong nắp kim quan liền đóng lại.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp cùng các Tỳ Kheo khóc lóc rơi lệ đi nhiễu kim
quan bảy vòng, quì gối chắp tay nói kệ than thở :
Khổ
thay khổ thay đấng Đại Thánh, Nay tôi đau đớn như cắt
lòng, Thế Tôn diệt độ sao quá sớm, Đại Bi chẳng thể
nán chờ tôi. Trong thiền định ở núi Xà Quật, Tôi khắp
tìm Phật đều chẳng thấy, Nhìn lại thấy Phật đã Niết
Bàn, Thoạt vậy thân tâm tôi kinh động. Bỗng thấy mây đen
khắp thế gian, Lại thấy núi cây đều chấn động, Liền
biết Như Lai đã Niết Bàn, Chúng tôi vội đến chẳng được
thấy. Thế Tôn Đại Bi chẳng đến tôi, Khiến tôi chẳng
thấy Phật nhập diệt, Chẳng được nghe một lời dạy bảo,
Tôi nay côi cùng biết nương đâu ! Thế Tôn ôi ! Tôi quá đau
đớn, Rối loạn tinh thần tâm mê muội Nay tôi cúi lạy đầu
Thế Tôn, Và cũng kính lạy ngực Thế Tôn, Kính lễ hai tay
của Đại Thánh, Và cũng kính lễ lưng Thế Tôn, Cung kính
đảnh lễ rún Thế Tôn, Thâm tâm kính lễ chưn của Phật.
Khổ thay chẳng thấy Phật Niết Bàn, Xin hiện bày chỗ
tôi kính lễ. Như Lai ở đời chúng an vui, Nay nhập Niết Bàn
đều rất khổ. Buồn thay buồn thay quá đớn đau, Đại Bi
hiện bày chỗ tôi lễ.
Lúc
ngài Ma Ha Ca Diếp khóc than nói kệ rồi, đấng đại bi Thế
Tôn liền hiện hai bàn chân thiên bức luân tướng ra ngoài
kim quan. Từ thiên bức luân phóng ngàn tia sáng chiếu khắp
tất cả thế giới ở mười phương.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp cùng các Tỳ Kheo thấy chưn Phật, đồng thời
cúi lạy tướng thiên bức luân. Vì quá cảm động, các ngài
mê muội ngất xỉu, giây lâu tỉnh lại nghẹn ngào kêu khóc,
đi nhiễu bảy vòng rồi lại đảnh lễ chưn Phật buồn khóc
nói kệ rằng :
Như
Lai tâm Đại Bi trọn vẹn, Từ quang bình đẳng không phân
biệt, Chúng sanh có cảm đều ứng hiện, Cho tôi được thấy
tướng túc luân. Nay tôi thâm tâm quy mạng lễ, Đấng
hai chân thiên bức luân tướng, Trong thiên luân phóng ngàn
tia sáng, Chiếu khắp cõi Phật ở mười phương. Nay tôi quy
y cúi đầu lạy, Thiên bức luân tướng phóng ánh sáng, Chúng
sanh được chiếu đều giải thoát, Tam đồ bát nạn đều
lìa khổ. Tôi lại quy y cúi đầu lạy, Ánh sáng khắp cứu
các ác thú. Thuở xưa Thế Tôn từ nhiều kiếp, Vì chúng tôi
siêng tu khổ hạnh, Ngày nay chứng được thân kim cang,
Do đây dưới chưn ngàn tia sáng. Buồn thương cúi đầu quy
mạng lễ, Thiên luân an lạc các chúng sanh. Phật tu công đức
vì tất cả, Dưới cội đạo thọ hàng bốn ma, Bốn ma hàng
rồi dẹp ngoại đạo, Nhơn đây chúng sanh được chánh kiến.
Cung kính quy y cúi đầu lạy, Chưn sáng khiến chúng được
chánh kiến, Phật là cha lành của tất cả, Chưn sáng bình
đẳng độ chúng sanh. Tôi lại quy y cúi đầu lạy, Chưn sáng
bình đẳng cứu thoát khổ, Tôi gặp chưn sáng thiên bức luân,
Buồn mừng xen lộn đau đớn lòng. Tôi lại khóc than cúi đầu
lạy, Tướng sáng thiên luân có cảm ứng, Quy y cúi lạy ánh
sáng chưn, Nương thừa rốt ráo ra ba cõi. Kính lễ chưn trời
người quy y, Ánh sáng khắp soi ba cõi khổ, Chúng sanh
chưa được giải thoát khổ, Thảy đều qui mạng chưn thiên
quang. Chúng tôi luân hồi chưa ra khỏi, Cớ sao chưn Phật lại
bỏ rơi, Thương thay, thương thay cho chúng sanh. Tia sáng thiên
luân mãi chẳng thấy, Sám hối với đấng Đại Từ Bi, Đảnh
lễ chưn vàng ngàn tia sáng. Buồn thay nay gặp tướng Thiên
Luân, Từ đây lúc nào được thấy lại !
Ngài
Ma Ha Ca Diếp cùng các Tỳ Kheo nói kệ trên đây rồi, lại
ngất xỉu mê muội, giây lâu tỉnh lại nghẹn ngào buồn thương
không dằn được.
Hai
chân Kim Cang thiên bức luân tướng của Đấng Đại Giác Thế
Tôn tự rút vào kim quan đóng kín như cũ.
Tất
cả nhơn dân đại chúng trời người ngó thấy ngài Ma Ha Ca
Diếp càng thêm sầu khổ đấm ngực kêu gào, tiếng khóc than
vang động cả thế giới, đem lễ vật nghẹn ngào dâng cúng.
Lúc
đó trong thành Câu Thi Na sai bốn lực sĩ đeo chuỗi ngọc trang
nghiêm nơi thân, tay cầm đuốc lớn như bánh xe ngọn lửa
chói sáng, đến đốt lầu hương để trà tỳ Như Lai. Vừa
đến lầu hương lửa đuốc liền tắt. Trong thành lại sai
tám lực sĩ, lần lượt sai đến ba mươi sáu đại lực sĩ,
mỗi lực sĩ vác đuốc lớn đến châm vào lầu hương để
đốt. Tất cả lửa đuốc đều tắt.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp bảo các lực sĩ cùng mọi người rằng kim quan
của Phật, lửa trong tam giới không thể đốt cháy được.
Đại chúng nên biết rằng giả sử tất cả những lửa trên
trời cùng nhơn gian đều không thể trà tỳ kim quan của Như
Lai. Mọi người chớ gắng gượng luống đốt nhọc nhằn.
Đại
chúng nghe lời trên đây càng thêm buồn khổ đồng nhau đảnh
lễ cúng dường đi nhiễu kim quan bảy vòng, tiếng khóc than
vang động cả mười phương.
Lúc
bấy giờ Đức Như Lai dùng sức Đại Bi, từ nơi ngực phóng
ngọn lửa ra ngoài ki8m quan, lần lần đốt cháy lầu hương
trải qua bảy ngày mới cháy hết.
Tất
cả đại chúng trời người cùng nhân dân nam nữ trong thành
cũng buồn than khóc lóc trọn bảy ngày không dứt tiếng, đồng
thời chẳng ngớt cúng dường đảnh lễ.
Lúc
đó Tứ Thiên Vương đều nghĩ rằng : Tôi dùng nước thơm
rưới tắt lửa, gấp lượm lấy Xá Lợi đem về cõi trời
cúng dường. Nghĩ xong, Tứ Thiên Vương liền mang bình vàng
đựng đầy nước thơm, lại đem bốn cây cam nhũ, bốn cây
nầy mọc ở trên bốn triền núi Tu Di, mỗi cây cao trăm do
tuần, lớn một ngàn ôm, đồng đến chỗ trà tỳ. Thiên Vương
trút nước thơm trong bình, bốn cây tuôn nước cam nhũ tưới
trên ngọn lửa. Tưới xong, thấy lửa càng mạnh không tắt.
Lúc
đó Hải Thần cùng Ta Già La Long Vương và Giang Thần, Hà Thần
thấy Tứ ThiênVương tưới nước thơm chẳng tắt lửa, đều
nghĩ rằng : Chúng ta đem nước thơm tưới tắt lửa thâu gấp
Xá Lợi đem về cúng dường tại chỗ của chúng ta. Nghĩ
xong, mỗi thần cầm bình báu đựng vô lượng nước thơm
mang đến chỗ trà tỳ đồng thời tưới trên lửa, thấy
lửa như cũ không tắt chút nào.
Ngài
A Nâu Lâu Đà hỏi Tứ Thiên Vương cùng các Thần : “ Các
ông tưới nước thơm, có phải muốn lửa tắt để lấy Xá
Lợi về cúng dường tại chỗ ở của các ông chăng ?”
_ Thưa
ngài A Nâu Lâu Đà ! Đúng như vậy.
Ngài
A Nâu Lâu Đà bảo Tứ Thiên Vương : “ Các ông lòng quá tham
! Nếu tất cả Xá Lợi đều theo các ông về thiên cung, người
ở địa cầu làm sao lên trời được để cúng dường
?
Ngài
lại bảo các Thần : “ Các ông ở trong biển lớn dưới
sông sâu, nếu các ông đem Xá Lợi của Đức Như Lai về chỗ
ở của các ông, thời người trên mặt đất nầy làm sao
đến đó để cúng dường ?
Tứ
Thiên Vương cùng chư Thần đều sám hối.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như nơi ngã tư đường có người đựng đầy
đồ ăn thơm ngon trong chậu, trong bát, bày ra để bán. Có
người khách từ xa đến quá đói, thấy đồ ăn ấy thơm
ngon, liền hỏi đây là vật gì ? Người bán nói : Đây là
đồ ăn thơm ngon, nếu ai ăn thứ nầy, thời đặng sắc tốt,
sức mạnh, có thể hết đói, hết khát và đặng thấy chư
Thiên. Nhưng chỉ có một tai hại là sẽ chết. Người
khách nghe xong nghĩ rằng : Nay tôi chẳng dùng sắc đẹp, sức
mạnh, thấy chư Thiên, vì tôi chẳng muốn chết. Nghĩ xong
hỏi rằng : Ăn vật thực nầy nếu phải chết sao ông lại
đem bán.
Người
bán đáp : Những người có trí không ai bằng lòng mua. Chỉ
có kẻ ngu, chẳng biết việc nầy, họ tham ăn nên họ trả
giá đắt cho tôi.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng nguyện
sanh cõi trời, đặng sắc đẹp, đặng sức mạnh, thấy chư
Thiên, vì sanh cõi trời chẳng khỏi những khổ não. Kẻ phàm
phu ngu si sanh chỗ nào cũng đều tham luyến vì họ chẳng thấy
gìa, bệnh, chết.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như cây độc, gốc rễ cũng có thể giết
người, thân cây, vỏ, bông, trái, hột đều cũng có thể
giết người. Tất cả thân ngũ ấmtrong hai mươi lăm cõi đều
có thể hại chúng sanh cũng như vậy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như phân nhơ, nhiều hay ít đều hôi cả.
Cũng vậy, thọ sanh dầu sống lâu tám muôn tuổi hay mười
tuổi cũng đều khổ não cả.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như hầm sâu nguy hiểm, lấy cỏ che trên
miệng hầm, bờ bên kia của hầm có mạch cam-lồ, người
nào được ăn chất cam lồ, sẽ sống lâu ngàn năm không bệnh
tật, an ổn , khoan khoái. Kẻ ngu si tham chất cam lồ, chẳng
biết dưới đó có hầm sâu, bèn chạy đến lấy, chẳng ngờ
trật chơn té xuống hầm mà chết. Người trí biết sự nguy
hiểm, nên không đến lấy chất cam-lồ.
Đại-Bồ-Tát
cũng như vậy còn chẳng muốn nhận lấy vật thực thượng
diệu cõi trời huống là tong loài người. Kẻ phàm phu bèn
ở nơi địa ngục nuốt hoàn sắt, huống là thức ăn thượng
diệu cõi trời cõi người mà có thể chẳng ăn.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Do những điều thí dụ như vậy, ngoài ra còn
vô lượng thí dụ khác, nên biết thọ sanh thiệt là rất
khổ.
Đây
gọi là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát sanh là khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát lão là khổ như thế nào ?
Sự
già yếu hay làm ho hen, ngăn nghẹn hơi, đưa lên, có thể làm
mất sức mạnh, trí nhớ kém, sự tráng kiện không còn, mất
sự an vui thơ thới, khoan khoái. Tuổi già hay làm lưng còm,
mỏi nhọc, lười biếng, bị người khi dể.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như hoa sen nở tốt đầy trong ao nước
rất đáng ưa thích, gặp trận mưa đá, tất cả đều hư
nát. Cũng vậy, tuổi già có thể phá hoại tráng kiện, sắc
đẹp.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như quốc vương có một trí thần dùng
binh giỏi. Có vua nước địch chống cự chẳng thuận hảo.
Quốc vương sai trí thần đem binh qua đánh, bắt vua nước
nghịch mang về dưng cho quốc vương. Cũng vậy, tuổi già bắt
được tráng kiện, sắc đẹp đem giao cho tử vương.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như trục xe đã gãy, xe đó không còn dùng
được. Cũng vậy, già suy thời không còn dùng được vào
việc gì.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như nhà giàu to có nhiều của báu : Vàng ,
bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Có bọn cướp
nếu vào đặng nhà đó thời có thể cướp giựt hết cả.
Cũng vậy, tuổi tráng kiện và sắc đẹp thường bị giặc
già suy cướp giựt.
Nầy
thiện-nam-tử ! Ví như người nghèo tham thức ăn ngon, y phục
mịn màng, dầu có hy vọng nhưng không thể được. Cũng vậy,
tuổi già suy dầu có tâm than, muốn hưởng thọ ngũ dục
sung sướng mà chẳng thể đặng.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như con rùa ở trên đất cao lòng nó thường
nghĩ đến nước. Cũng vậy, người đời đã già suy khô héo
mà lòng họ thường nhớ tưởng những khoái lạc ngũ dục
thuở tráng kiện.
Nầy
thiện-nam-tử ! Như mùa thu ai cũng ưa ngắm hoa sen nở, đến
khi hoa tàn héo, mọi người đều không thích. Cũng vậy, sự
tráng kiện, sắc đẹp mọi người đều ưa thích, đến khi
già suy ai cũng nhàm ghét.
Nầy
thiện-nam-tử ! Ví như cây mía, sau khi bị ép, bã xác không
còn vị ngọt. Cũng vậy, tráng kiện sắc đẹp đã bị già
ép, thời không có ba thứ vị : Một là vị xuất gia, hai là
vị đọc tụng, ba là vị tọa thiền.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như mặt trăng tròn ban đêm thời tỏ sáng,
ban ngày thời không như vậy. Cũng vậy, tráng kiện thời hình
mạo nở nang xinh đẹp, già thời suy yếu, thân thể và tinh
thần kém suy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! ví như có nhà vua thường dùng chánh pháp cai
trị nhơn dân, chơn thật, không lừa dối, từ bi ưa bố thí.
Thuở đó nhà vua bị nước địch xâm lăng đánh bại, bèn
lưu vong đến nước khác. Nhơn dân trong nước kia thấy nhà
vua đều cảm thương nói rằng : Đại-vương ngày trước dùng
chánh pháp trị nước chẳng uổng lạm bá tánh, thế sao nay
lại lưu vong đến đây. Cũng vậy, loài người đã bị già
suy làm bại hoại, thời thường tán thán sự nghiệp đã làm
thuở tráng kiện.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như tim đèn dầu nhờ mỡ dầu nhưng mỡ
dầu sẽ hết, thế chẳng lâu dài. Cũng vậy, thân người
dầu nhờ cậy sự tráng kiện, nhưng tráng kiện phải trải
qua già suy, đâu còn được dùng lâu.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như con sông cạn khô không có thể lợi
ích cho ngưới, cho phi nhơn, chim thú. Cũng vậy, thân người
bị già suy khô héo, không còn làm được việc gì, chẳng
thể có lợi ích.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như cây cheo leo bờ sông, nếu gặp gió
to, ắt sẽ đổ ngã. Như vậy đến tuổi già ắt phải chết,
thế chẳng thể còn được.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như trục xe đã gãy, không thể chở chuyên.
Cũng vậy, già suy không thể học hỏi tất cả pháp lành.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như trẻ thơ bị người khinh khi. Cũng vậy,
già suy thường bị người khinh hủy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Do những điều dụ như vậy cùng vô lượng
thí dụ khác nên biết sự già thiệt là rất khổ.
Đây
gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát già là khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát bịnh khổ như thế nào ?
Ví
như mưa đá làm hại mạ lúa. Cũng vậy, tật bệnh có thể
phá hoại tất cả những sự an ổn vui vẻ.
Như
người có oán thù , tâm thường lo rầu sợ sệt. Cũng vậy,
tất cả chúng sanh thường bị bịnh khổ, lo rầu không yên.
Ví
như có người hình dung xinh đẹp, Vương-phi tâm dục yêu thương,
sai sứ đòi đến để cùng giao thông. Vua bắt đặng, liền
truyền lịnh khoét một mắt,cắt một vành tai, chặt một
tay, một chân, bấy giờ người đó hình dung đổi khác bị
người nhờm gớm khinh rẻ. Cũng vậy, thân người trước
thời dung mạo tươi tốt, tai mắt đầy đủ, đã bị bịnh
khổ hành hạ, thời xấu xa bị người nhờm gớm.
Như
cây chuối, cây tre, cây lau, cây la, hễ có con, có trái thì
chết. Cũng vậy, người có bịnh thời chết.
Như
vua Chuyển-Luân, đại thần, chủ binh thường làm tiền đạo
đi trước, nhà vua theo sau cũng như chúa cá, chúa kiến, chúa
ốc, chúa trâu, thương chủ, lúc ở trước chúng mà đi, thời
toàn chúng thảy đều đi theo không rời. Cũng vậy, sự
chết thường theo sát bịnh khổ không rời.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Nhơn duyên của bịnh làm cho khổ não, rầu
lo, buồn than, thân tâm không an ổn. Hoặc bị kẻ giặc cướp
bức hại, trái nổi bể hư, phá hoại cầu cống, đều cũng
có thể cướp giựt mạng sống. Bịnh lại có thể phá hoại
sự tráng kiện, sắc đẹp, thế lực, an vui, mất lòng tàm
quý, có thể làm cho thân tâm xót xa bức rức.
Do
những điều dụ đó và vô lượng thí dụ khác, nên biết
bịnh rất là khổ não.
Đây
gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát bịnh khổ.
Nầy
thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa
Đại- Niết-Bàn quán sát tử khổ ? Sự chết có thể đốt
cháy tiêu diệt. Như hỏa tai khởi lên có thể đốt cháy tất
cả, chỉ trừ cõi trời nhị thiền trở lên, vì thế lực
của hỏa tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thể
tiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa
Đại-Niết-bàn vì thế lực của sự chết không đến được.
Như
lúc thủy tai khởi lên, tất cả đều trôi, đều ngập,
chỉ trừ cõi tam-thiền trở lên, vì thế lực của thủy tai
chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết làm chìm mất tất
cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Như
lúc phong tai khởi lên, có thể thổi tan tất cả, chỉ trừ
cõi tứ thiền, vì thế lực của phong tai chẳng đến được.
Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừ
Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Ca-Diếp-Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Cõi Tứ-thiền kia do cớ gì mà
gió không thổi đến, nước chẳng ngập đến, lửa chẳng
cháy đến ?”
_ Nầy
Thiện-nam-tử ! Cõi Tứ-Thiền kia không có tất cả quá hoạn
trong thân và ngoại cảnh.
Cõi
Sơ- Thiền có quá hoạn : Trong có giác quán, ngoài có hỏa
tai.
Cõi
Nhị-Thiền có quá hoạn : Trong có vui mừng, ngoài có thủy
tai.
Cõi
Tam-Thiên có quá hoạn : Trong có hơi thở, ngoài có phong tai.
Cõi
Tứ-Thiền trong ngoài đều không quá hoạn, nên ba thứ tai
họa lớn chẳng thể đến được.
Đại-Bồ-Tát
cũng như vậy, an trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, trong
ngoài đều không tất cả quá hoạn, nên sự chết chẳng đến
được.
Lại
nầy Thiện-nam-tử : Như Kim-Súy-Điểu có thể nuốt, có thể
tiêu tất cả loài rồng, cá và châu báu, vàng, bạc vân vân,
chỉ trừ chất kim cương không tiêu được. Cũng vậy, sự
chết có thể nuốt, có thể tiêu tất cả chúng sanh, chỉ
không tiêu được Đại-Bồ-tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Ví như những cỏ cây ở bờ sông, nước
lụt dưng lên đều trôi theo dòng vào biển lớn, chỉ trừ
cây dương liễu, vì thứ cây nầy mềm dẽo. Cũng vậy, tất
cả chúng sanh đều trôi lăn vào biển chết, chỉ trừ Bồ-Tát
trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Như thần Na-La-Diên có thể hàng phục
tất cả lực sĩ, chỉ trừ gió to, vì gió to vô ngại. Cũng
vậy, sự chết có thể hàng phục tất cả chúng sanh, chỉ
trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, vì bậc
nầy vô ngại.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Ví như có người đối với kẻ thù giả
làm thân thiện, theo sát bên như bóng theo hình, chờ khi thuận
tiện mà giết đó, nếu phòng bị chặt chẽ, thời người
kia không hại được. Cũng vậy, sự chết luôn theo rình chúng
sanh chờ dịp làm hại, chỉ không thể hại được bậc Đại-Bồ-Tát
trụ nơi Đại-thừa Đại- niết-bàn, vì bậc Bồ-Tát nầy
chẳng phóng dật.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Ví như trời bỗng mưa kim cương xối
xuống tất cả cỏ cây, núi rừng, đất cát, ngói, đá, vàng,
bạc, lưu ly, cùng tất cả vật đều bị hư nát, chỉ kim
cương chơn bảo không bị hư. Cũng vậy, sự chết đều có
thể phá hoại tất cả chúng sanh, chỉ trừ kim cương Bồ-Tát
trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Như Kim-súy-điểu có thể nuốt các loài
rồng, chỉ không nuốt được rồng thọ Tam-quy-y. Cũng vậy,
sự chết có thể nuốt tất cả chúng sanh, chỉ trừ Bồ-Tát
trụ ba môn chánh định : Không, vô tướng vô nguyện.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Như độc rắn ma-la, khi rắn nầy cắn
nhằm người, những chú hay, thuốc tốt đều không cứu được,
chỉ có chú A-Kiệt Đa-Tinh là có thể chữa lành. Cũng vậy,
sự chết tất cả phương thuốc đều không cứu được, chỉ
trừ Bồ- Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Như có người bị nhà vua giận, có thể
dùng lời dịu dàng khéo léo, dâng của cải châu báu mà đặng
khỏi tội. Sự chết không như vậy, dầu dùng lời nói dịu
dàng, tiền của châu báu để cống dưng cũng chẳng thoát
khỏi.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Luận về sự chết là chỗ hiểm nạn, không
gì giúp đỡ, đi đường xa xôi mà không bạn bè, ngày đêm
đi luôn chẳng biết bờ mé, sâu thẳm tối tăm, không có đèn
đuốc, nó vào không có cửa nẻo mà có chỗ nơi, dầu không
chỗ đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành, nó qua không ai
ngăn được, nó đến không thể thoát được, không phá phách
gì mà người thấy sầu khổ, nó không phải màu sắc xấu
xa mà làm cho người kinh sợ. Nó ở bên thân người mà chẳng
hay biết được.
Nầy
Ca-Diếp Bồ-Tát, do những điều dụ đó cùng vô lượng thí
dụ khác, nên biết sự chết thật là rất khổ.
Đây
gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát tử khổ.
NầyThiện-nam-tử
! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-
Bàn quán sát ái-biệt-ly khổ ? Ái biệt-ly nầy có thể làm
cội gốc cho tất cả sự khổ. Như nói bài kệ rằng :
Nhơn
ái sanh lo, Nhơn ái sanh sợ, Nếu lìa sự ái, Nào lo nào sợ.
Vì
ái nên sanh sự lo khổ, vì lo khổ nên làm cho chúng sanh có
già suy. Ái- biệt-ly khổ là nói sự chết. Vì biệt-ly hay
sanh những sự khổ vi-tế, nay sẽ vì ông mà phân biệt rõ
ràng.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thuở quá khứ người sống vô lượng tuổi,
có quốc vương tên là Thiện-Trụ nhà vua trị nước tám muôn
bốn ngàn năm. Trên đỉnh đầu của vua mọc lên một bứu
thịt mềm nhuyễn như bông. Bứu ấy lần lần to lớn, không
làm đau nhức. Mãn mười tháng, bứu ấy nứt ra, sanh một
đồng tử hình dung đẹp lạ. Nhà vua vui mừng đặt tên là
Đãnh-Sanh.
Thời
gian sau vua Thiện-Trụ đem việc nước giao cho Thái-tử Đảnh-Sanh,
tồi rời bỏ cung điện quyến thuộc vào núi tu hành. Ngày
rằm Thái-Tử Đảnh-Sanh lên ngôi, đương ở trên lầu cao
tắm gội trai giới, phương Đông liền có báu kim- luân, bánh
xe vàng đủ một ngàn cây căm tự nhiên bay đến. Vua Đảnh-Sanh
nghĩ rằng : Từng nghe Ngũ-Thông tiên nhơn nói : Nếu dòng vua
Sát-Đế-Lợi ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội trai giới,
có báu kim luân đủ ngàn cây căm tự nhiên bay đến, thời nhà vua đó sẽ đặng làm Chuyển-Luân Thánh-Vương. Nay ta nên
thí nghiệm. Nghĩ xong, vua Đảnh-Sanh tay tả bưng báu kim-luân,
tay hửu cầm lư hương, qùy gối bên mặt mà phát thệ rằng
: Nếu đây thiệt là báu kim-luân, thời nên bay đi như vua
Chuyển-Luân Thánh-Vương thuở quá khứ. Nhà vua phát thệ vừa
xong, thời báu kim-luân bay lên hư không, bay khắp mười phương,
rồi trở về dừng lại trên tay tả vua Đảnh-Sanh. Nhà
vua vui mừng biết chắc mình sẽ là Chuyển-Luân Thánh-Vương.
Sau
đó không bao lâu, có tượng bảo xuất hiện, mình trắng như
bạch liên-hoa, xinh đẹp, mạnh mẽ đôi ngà chấm đất. Vì
muốn thí nghiệm vua Đảnh-Sanh liền bưng lư hương quì gối
bên hữu mà phát thệ rằng : Nếu thật là báu bạch tượng
nên bay đi như thuở vua Chuyển-Luân Thánh-Vương quá khứ.
Phát thệ xong, bạch tượng liền từ sáng đến chiều bay
đi khắp tám phương, tột đến mé biển, rồi trở về cung
vua. Kế đó lại có Mã-bửu xuất hiện, lông màu xanh biếc
mướt đẹp, lông đuôi cùng gáy màu vàng ròng. Vì muốn thí
nghiệm vua Đảnh-Sanh tay bưng lư hương quì gối bên hữu phát
thệ rằng : Nếu thiệt là Mã-bảo thời phải như của
vua Chuyển-Luân Tánh-Vương thuở quá khứ. Phát thệ xong, từ
sáng đến chiều, Mã-bảo ấy đi khắp tám phương, đến mé
biển rồi trở về cung vua.
Kế
đó lại có Nữ-bảo xuất hiện xinh đẹp đệ nhứt, chơn
lông thoảng mùi chiên đàn, hơi miệng thơm sạch như hoa sen
xanh, mắt sáng nhìn xa một do tuần, tai nghe, mũi ngữi
cũng xa như mắt, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt,
da mịn láng như lá đồng đỏ, rất thông minh có trí huệ,
lời nói dịu dàng đối với tất cả mọi người. Tay người
ấy lúc chạm đến áo của vua, liền biết thân vua khỏe mạnh
hay bịnh hoạn, cũng biết những ý nghĩ của vua.
Kế
đó trong cung vua tự nhiên có Ma-ni bảo châu lớn bằng bắp
vế của người, màu thuần xanh, trong suốt, trong chỗ tối
có thể chiếu sáng một do tuần. Nếu trời mưa giọt lớn
như trục xe, thế lực của bảo châu nầy có thể che một
do tuần, giọt mưa không rơi xuống được.
Sau
đó, lại có Chủ- tạng thần hiện ra, cặp mắt có thể thấy
thấu những kho châu báu ở trong lòng đất, tùy ý vua muốn
đều có thể dưng đủ. Vua Đảnh-Sanh muốn thí nghiệm bèn
cùng Chủ-tạng thần ngồi thuyền ra biển, vua bảo chủ-tạng
thần : Nay ta muốn đặng châu báu. Chủ-tạng thần liền lấy
hai tay quậy nước biển, đầu mười ngón tay liền hiện ra
mười kho châu báu lấy dưng cho vua tâu rằng : “Tùy ý nhà
vua chọn dùng, còn thừa lại nên ném trả xuống biển.”
Kế
đó lại có chủ-binh thần xuất hiện, thao lược đệ nhứt,
điều khiển bốn binh chủng rất giỏi. Lúc vua cần binh thời
hiện quân lính ra để dùng. Lúc chẳng dùng binh, thời quân
lính ẩn mất. Xứ nào chưa hàng phục chủ binh thần nầy
có thể làm cho hàng phục. Xứ nào đã hàng phục, thời đủ
sức giữ gìn.
Lúc
đó vua Đảnh-Sanh tự biết là Chuyển-Luân -Vương, bèn bảo
các quan :
“
Cõi Diêm-Phù-Đề nầy an ổn giàu vui, nay bảy báu đã đủ,
cả ngàn vương tử cũng đủ, giờ đây nên làm việc gì ?”
Các
quan tâu : “ Châu Phất-Bà-Đề phương Dông còn chưa qui thuận,
đại vương nên đem binh qua chinh phục.”
Vua
Đảnh-Sanh bèn cùng thất-bảo bay qua châu Phất-Bà-Đề, nhơn
dân trong châu đó đều vui mừng qui thuận.
Các
quan lại tâu nên chinh phục châu Cù-Đà-Ni ở phương Tây. Kế đó lại đến chinh phục châu Uất-Đơn-Việt. Sau khi chinh
phục ba châu xong. Vua Đảnh-Sanh bảo các quan : “ Châu Nam-Diêm-Phù-Đề
này cùng ba châu đều an onå giàu vui, tất cả đều qui thuận
ta, nay đây lại nên làm việc gì ?”
Các
quan tâu : “ Cõi trời Đao-Lợi tuổi thọ dài lâu , an ổn,
khoái lạc, thân chư Thiên xinh đẹp hơn nhơn gian, cung điện
nhẫn đến giường ghế toàn bằng bảy báu, cậy phước trời
chưa chịu đến qui phục, nay nên đem binh đánh dẹp.”
Vua
Đảnh-Sanh lại cùng thất bảo bay lên cõi trời Đao-Lợi,
trông thấy một cây màu xanh đậm bèn hỏi đại thần : Đó
là cây gì ?
Đại-thần
tâu : Cây ấy tên là Ba-Lợi-Chất-Đa-La, chư Thiên cõi Đao-Lợi
nầy đến ngày mùa hạ thường tựu hợp vui chơi dưới cây
đó.
Lại
trông thấy màu trắng như bạch vân, vua Đảnh-Sanh hỏi
đại thần chỗ đó là gì ? Đại-thần tâu đó là thiện-pháp-đường,
chư thiên cõi Đao-Lợi thường nhóm nơi đó để bàn luận
những việc cõi trời cõi người.
Thiên-Chúa
Thích-Đề-Hoàn-Nhơn biết vua Đảnh-Sanh đã đến, liền ra
tiếp rước, cầm tay vào thiện-pháp-đường lên tòa mà ngồi.
Hai vua hình dung tướng mạo giống nhau, chỉ có đôi mắt nhìn
nháy là khác nhau.
Lúc
đó vua Đảnh-Sanh nghĩ rằng : nay ta có thể đuổi thiên-chúa
nầy để ta ở đây làm thiên-vương.
Thiên-Đế-Thích
vốn thọ trì đọc tụng kinh điển Đại-thừa, thường vì
chư Thiên giảng thuyết, chỉ chưa thông đạt hết thâm nghĩa
của kinh. Do thọ trì giảng thuyết Đại-thừa nên Thiên-Đế
có oai đức hơn.
Khi
vua Đảnh-Sanh khởi ác tâm đối với Thiên-Đế, tổn phước
liền tự rớt xuống Diêm-Phù-Đề, nhớ tiếc cõi trời lòng
rất khổ não. Không bao lâu vua Đảnh-Sanh phải bịnh
chết.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thiên-Đế thuở đó chính là Phật Ca-Diếp,
vua Đảnh-Sanh thời là tiền thân của ta.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Phải biết ái-biệt-ly như vậy rất là khổ
não.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát còn nhớ những trường hợp
ái-biệt-ly khổ thuở quá khứ, huống là Bồ-Tát trụ nơi
kinh Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn mà nên chẳng quán sát sự
ái-biệt-ly khổ trong đời hiện tại !
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại Bồ-Tát tu hành kinh
Đại-thừa Đại- Niết-Bàn quán sát oán-tằng-hội khổ ?
Đại-Bồ-Tát
nầy quán sát địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, loài người,
trên trời đều có sự oán-tằng-hội-khổ như vậy.
Ví
như có người quán sát lao ngục giam nhốt, gông xiềng là
rất khổ. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát quán sát năm loài chúng
sanh đều là oán-tằng-hội-hiệp rất khổ sở.
Ví
như có người thường sợ kẻ oán thù, gông cùm, xiềng xích,
nên bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, cùng của báu sản nghiệp
mà trốn lánh đi xa. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát sợ sanh tử,
nên tu hành sáu môn Ba-La-Mật, chứng nhập Niết- Bàn. Đây
gọi là Bồ-Tát tu hành Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát
oán-tằng-hội khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành Đại-thừa
Đại-Niết- Bàn quán sát cầu-bất-đắc khổ ?
Cầu
là mong cầu tất cả , có hai thứ : Một là cầu pháp lành,
hai là cầu pháp chẳng lành. Cầu pháp lành mà chưa đặng
thời khổ, pháp ác muốn rời mà chưa rời được thời khổ.
Đây
là lược nói ngũ- ấm-thạnh khổ. Đây gọi là khổ đế.
Ca-diếp
Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật nói, ngũ
ấm thạnh khổ nghĩa đó chẳng phải. Vì như ngày trước
Phật bảo Thích-Ma-Nam : Nếu sắc là khổ, tất cả chúng sanh
lẻ ra chẳng nên cầu sắc, nếu có người cầu thời chẳng
gọi là khổ. Lại như Phật bảo các Tỳ-kheo thọ có ba thứ
: Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Lại như lúc
trước đức Phật nói với các Tỳ-kheo : Nếu người nào
có thể tu hành pháp lành thời đặng thọ lạc. Lại như đức
Phật nói : Ở trong đường lành sáu căn lãnh thọ sáu cảnh
vui : Mắt thấy sắc đẹp là vui, tai, mũi, lưỡi, thân nhẫn
đến ý suy nghĩ pháp lành cũng như vậy.
Như
Phật từng nói kệ :
Trì
giới thời là vui, Thân chẳng thọ sự khổ. Ngủ
nghỉ đặng an ổn, Thức dậy lòng vui vẻ. Lúc nhận
lấy y thực, Đọc tụng và kinh hành, Ở riêng nơi
núi rừng, Như vậy là rất vui. Nếu đối với chúng
sanh, Ngày đêm tu lòng từ, Nhơn đây được thường
vui, Vì chẳng hại người khác. Ít muốn biết đủ vui, Học rộng biết nhiều vui, A-La-Hán không chấp, Cũng
gọi là thọ vui, Các vị Đại Bồ-Tát, rốt ráo
đến bờ kia. Những việc làm đã xong, Đây gọi
là rất vui.
Thế-Tôn
! Trong các bộ kinh nói về tướng vui ý nghĩa như vậy. Thế
nào tương ứng với nghĩa của Phật nói hôm nay ?
Phật
bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Ông khéo
có thề thưa hỏi đức Như-Lai những nghĩa như vậy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Tất cả chúng sanh đối với sự khổ hạng
hạ tưởng lầm là vui. Vì thế nên nay ta nói tướng khổ
không khác với ngày trước đã nói.
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật : “ Như lời Phật hỏi : Đối với
sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, thời sanh, lão, bệnh,
tử hạng hạ cùng ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, oán- tằng-hội,
ngũ-ấm-thạnh hạng hạ, những sự khổ như vậy lẽ ra cũng
nên có vui.
Thế-Tôn
! Sanh hạng hạ là ba ác thú, sanh hạng trung là loài người,
sanh hạng thượng là trên trời.
Nếu
lại có người hỏi rằng : Nếu ở nơi sự vui hạng hạ tưởng
cho là khổ, trong sự vui hạng trung tưởng cho là không khổ
không vui. Trong sự vui hạng thượng tưởng cho là vui, thời
phải trả lời thế nào ?
Thế-Tôn
! Nếu trong sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, chưa thấy
có người nào sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, lúc mới đánh
một trượng đầu mà đã tưởng là vui. Nếu lúc đánh
trượng đầu chẳng tưởng là vui, thế sao nói rằng : Nơi
trong sự khổ hạng hạ mà tưởng cho là vui ?”
Phật
bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Phải lắm ! Phải lắm ! Đúng như
lời ông nói. Do nghĩa nầy nên không có tưởng là vui, vì
như người tội kia sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, khi bị
đánh một trượng rồi liền đặng tha. Người nầy bèn sanh
lòng vui. Vì thế nên biết rằng trong sự không vui lầm tưởng
là vui.”
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Người đó chẳng vì bị đánh
một trượng mà sanh vui. Chính vì đặng tha mà sanh lòng
vui.
_ Nầy
Thiện-nam-tử ! Vì thế nên ta ngày trước nói với Thích-Ma-Nam
trong ngũ ấm có vui, lời đó là đúng, thiệt chẳng phải
mâu thuẩn vậy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Có ba thọ và ba khổ. Ba thọ là : Lạc thọ,
khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Ba khổ là : Khổ-khổ,
hành khổ, hoại khổ.
Nầy
T.hiện-nam-tử ! Khổ thọ chính là cả ba món khổ : Khổ-khổ,
hành khổ và hoại khổ. Hai món thọ kia chính là hành khổ
và hoại khổ. Do đây nên trong sanh tử thiệt có lạc thọ.
Đại-Bồ-Tát thấy tánh khổ cùng tánh lạc chẳng rời lìa
nhau nên nói rằng tất cả đều khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Trong sanh tử thiệt không có vui, vì chư Phật Bồ-Tát tùy thuận thế gian nên nói là có vui.
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Chư Phật và Bồ-Tát nếu
tùy theo thế tục mà nói, thời là có hư vọng chăng ? Như
Phật thường nói, người tu hành pháp lành thời thọ quả
báo vui. Trì giới an vui thân chẳng thọ khổ, nhẫn đến việc
làm đã xong đây là rất vui. Lời nói thọ vui trong các kinh
như vậy, chừng có hư vọng chăng . Nếu là hư vọng, thời
chư Phật Thế-tôn trong vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ-kiếp
tu hành đạo bồ-đề đã lìa vọng ngữ. Nay Phật nói như
vậy ý nghĩa thế nào ?
_ Nầy
Thiện-nam-tử ! Như bài kệ nói về những sự thọ lạc trước
kia chính là cội gốc của đạo Bồ-Đề, cũng có thể trưởng-dưỡng
vô thượng bồ-đề. Do nghĩa đó nên trong những kinh trước
nói tướng vui như vậy.
Ví
như trong thế gian những đồ cần dùng cho đời sống, có
thể làm nhơn cho sự vui, nên gọi là vui. Như nữ sắc, rượu
uống, đồ ăn ngon, lúc khát được nước, lúc lạnh được
lửa, y phục, chuỗi ngọc, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, vàng,
bạc, lưu ly, san hô, chơn châu, kho đựng lúa gạo, những vật
như vậy người đời cần dùng có thể làm nhơn cho sự vui
nên gọi là vui.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Những vật như vậy cũng có thể sanh sự khổ.
Nhơn nơi nữ sắc sanh sự khổ, lo, rầu, buồn, khóc nhẫn
đến phải chết cho người nam. Nhơn nơi rượu, đồ ăn ngon,
nhẫn đến lúa gạo cũng có thể làm cho người phải lo khổ
nhiều. Do nghĩa đó nên tất cả đều khổ không có tướng
rốt ráo vui.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát nơi tám điều khổ nầy, hiểu
rỏ là khổ nên không bị khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Tất cả hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác chẳng biết
nhơn của sự vui, nên Phật vì họ ở trong sự khổ hạng
hạ nói có tướng vui. Chỉ có Bồ- Tát trụ nơi Đại-Thừa
Đại-Niết-Bàn bèn có thể biết nhơn của sự khổ sự vui
nầy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-Thừa
Đại-Niết- Bàn quán sát tập đế ? Đại-Bồ-Tát quán sát
tập đế là nhơn duyên ngũ ấm. Tập nghĩa là trở lại ái-luyến
nơi hữu. Ái có hai thứ : Một là ái thân mình, hai là ái
đồ cần dùng. Lại có hai thứ : Năm thứ dục lạc, lúc chưa
đặng tâm luôn tìm cầu, đã tìm cầu đặng rồi luôn đắm
trước. Lại có ba thứ : dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Lại
có ba thứ : Nghiệp nhơn duyên ái, phiền não nhơn duyên ái,
khổ nhơn duyên ái. Người xuất gia có bốn thứ ái : Y phục,
đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc thang. Lại có năm thứ : Tham
lam nơi ngũ ấm, tùy chỗ cần dùng tất cả đều tham ái toan
tính phân biệt vô-lượng vô-biên.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ái có hai thứ : Một là thiện ái, hai là bất
thiện ái. Chỉ người ngu tìm cầu bất thiện ái. Các
vị Bồ-Tát cầu nơi thiện-ái. Thiện ái lại có hai thứ
: Bất thiện và thiện. Cầu pháp Nhị-thừa gọi là bất thiện.
Cầu pháp Đại- thừa gọi là thiện.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Kẻ phàm phu tham ái gọi là “ tập” chẳng
gọi là “đế”. Sự ái của Bồ-Tát thời gọi là thật
đế chẳng gọi là tập, vì Bồ-Tát muốn độ chúng sanh nên
thị hiện thọ sanh, chẳng phải vì tham ái mà thọ sanh.
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Như trong các kinh khác đức
Phật vì chúng sanh mà nói nghiệp làm nhơn duyên, hoặc nói
kiêu mạn, hoặc nói lục xúc, hoặc nói vô minh làm nhơn duyên
mà có ngũ ấm xí-thạnh. Hôm nay do nghĩa gì đức Phật
nói bốn Thánh-Đế riêng lấy ái làm nhơn cho ngũ ấm.
Phật
khen Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Đúng như lời
ông vừa nói, các nhơn duyên chẳng phải làm cũng chẳng phải
nhơn, chỉ vì năm ấm cần phải nhơn nơi ái.
Ví
như quốc vương lúc đi tuần du các quan quyến thuộc thảy
đều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thời các kiết
sử cũng đi theo.
Ví
như y phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũng
vậy, chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó.
Ví
như đất ướt thời có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thể
sanh tất cả mầm nghiệp phiền não.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát kỹ ái nầy có chín thứ : Một là như thiếu nợ,
hai là như vợ La-Sát, ba là như trong cọng hoa đẹp có rắn
độc vấn , bốn là như vật thực độc mà cố ăn đó, năm
là như dâm nữ, sáu là như hột ma-lâu-ca, bảy là như thịt
thúi trong mụn nhọt, tám là như gió bão, chín là như sao chổi.
Như
thiếu nợ là thế nào ! Ví như người nghèo cùng thiếu tiền
của người khác, dầu đã trả nợ mà vẫn còn thiếu, nên
bị giam nhốt chưa ra khỏi ngục. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác
vì còn tập khí thừa của ái nên chẳng chứng đặng vô thượng
bồ-đề.
Như
vợ La-Sát là thế nào ? Ví như có người lấy gái La-Sát
làm vợ, gái La- Sát nầy hễ sanh con liền ăn thịt, ăn thịt
con đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy người
sanh thiện căn nó liền ăn, ăn hết thiện căn nó lại ăn
luôn cả người làm cho phải đọa địa ngục, súc sanh ngã
quỉ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như
cọng hoa đẹp có rắn độc vấn là thế nào ? Như có người
thích hoa đẹp mà chẳng thấy cọng hoa có rắn độc, liền
đến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả phàm phu tham đắm
ngũ dục mà chẳng thấy độc hại của ái, nên bị ái làm
hại, sau khi chết đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị
Bồ-Tát.
Vật
thực độc mà cố ăn là thế nào ? Như có người cố ăn
vật thực độc, ăn xong đau bụng thổ tả mà chết. Chúng
sanh trong ngũ đạo vì tham ái mà phải bị đọa trong ba đường
ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như
dâm nữ là thế nào ? Ngư người ngu tư thông với dâm nữ,
dâm nữ nầy thường dối phĩnh gạt đoạt hết tiền của
rồi xua đuổi người ấy. Người ngu không có trí tuệ bị
tham ái đoạt tất cả pháp lành rồi xua đuổi vào trong ba
đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như
hột ma-lâu-ca là thế nào ? Nếu chim ăn hột ma-lâu-ca, phẩn
chim do gió thổi rớt dưới cây liền mọc lên đeo vấn cây
to làm cho khô chết, tham ái ràng buộc phàm phu làm cho pháp
lành không tăng trưởng nhẫn đến khô diệt, sau khi chết
đọa vào ba đường ác. Chỉ trừ các vị đại Bồ-Tát.
Thịt
thúi trong mụn nhọt như thế nào ? Như người bị ung nhọt,
trong nhọt sanh thịt thúi, người bịnh nầy phải chuyên tâm
chạy chữa, nếu chểnh mãng thời thịt thúi sanh trùng có
thể phải chết, ngũ ấm của phàm phu cũng như vậy, ái sanh
trong đó, phải nên siêng năng điều trị tham ái, nếu không
điều trị sẽ phải đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các
vị Bồ-Tát.
Như
gió bão là thế nào ? Gió bão có thể làm lở núi ngã
cây. Cũng vậy, tham ái sanh tâm ác đối với cha mẹ,
có thể làm ngã trốc cội cây vô thượng Bồ- Đề của các
ông Đại-Trí Xa-Lợi-Phất vân vân. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như
sao chổi là thế nào ? Như sao chổi mọc thời trong thiên
hạ phải bịnh tật, đói kém, họa tai khổ sở. Cũng vậy,
ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho phàm phu cơ cùng
thiếu thốn sanh bịnh phiền não lưu chuyển trong sanh tử mang
nhiều sự khổ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát Đại-Thừa trụ nơi Đại-Niết-Bàn
quán sát tham ái có chín thứ như vậy.
Do
nghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế. Hàng Thanh-Văn
Duyên- Giác có khổ đế mà không chơn thật. Các vị Bồ-Tát
hiểu khổ không có khổ mà có chơn đế. Hàng phàm phu có
tập không có đế. Hàng Thanh-Văn Duyên- Giác có tập có tập
đế. Các vị Bồ-Tát hiểu tập không có tập mà có chơn
đế. Hàng Thanh- Văn Duyên-Giác có diệt mà chẳng phải chơn.
Đại-Bồ-Tát có diệt có chơn đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác
có đạo mà chẳng phải chơn. Đại Bồ-Tát có đạo có chơn
đế.