Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Phật tới Sa-la song-thụ

09 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9945)
10. Phật tới Sa-la song-thụ

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt

X. PHẬT TỚI SA-LA SONG-THỤ

Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo ông A-Nan: “Nay Tôi muốn tiến đến khoảng hàng cây Sa-la[51] song-thụ bên bờ sông Ni-liên, nơi Lực-sĩ sinh-địa, thuộc thành Cưu-thi-na!”

Ông A-Nan bạch Phật: “Dạ, lạy Thế-Tôn! Con xin vâng.”

Khi ấy đức Như-Lai cùng các vị Tỳ-Khưu, vây quanh trước sau, tiến lên đường. Qua sông Ni-liên, đức Thế-Tôn cùng đại-chúng dừng lại ngoài rừng Sa-la, nơi Lực-sĩ sinh-địa thuộc thành Cưu-thi-na. Ngài bảo ông A-Nan: “Ông đi vào trong rừng Sa-la, thấy nơi nào có hàng cây song-thụ, riêng một chỗ ấy, ông quét rửa ở dưới cho sạch-sẽ và ông đặt cái giường kết bằng dây tại đấy, nhưng để đầu quay về hướng Bắc. Nay thân-thể Tôi mỏi-mệt quá rồi!”

Ông A-Nan cùng các vị Tỳ-Khưu nghe đức Phật nói lời ấy, càng thêm thương- xót, buồn-bã! Ông A-Nan sa lệ, vâng lời Phật dạy mà đi. Đến chỗ hàng cây kia, ông quét rửa, xếp đặt, các việc đều như pháp, rồi ông trở về bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Con quét rửa, xếp đặt, xong cả rồi!”

Bấy giờ, đức Thế-Tôn cùng các vị Tỳ-Khưu vào trong rừng Sa-la, đến dưới chỗ hàng cây song-thụ. Đến nơi, Ngài đặt hông bên hữu xuống giường, nằm xếp chân như kiểu con Sư-tử nằm ngủ. Ngài đoan-tâm, chính-niệm.

Khi ấy, hàng cây Sa-la song-thụ bỗng dưng nở hoa, rơi xuống mình đức Như-Lai. Đức Thế-Tôn liền hỏi ông A-Nan: “Ông có thấy cây Sa-la kia nở hoa trái mùa để cúng-dàng Tôi không?” Ông A-Nan đáp: “Dạ, lạy đức Thế-Tôn! Con có trông thấy.” Lúc đó, chư Thiên, long-thần tám bộ, trong hư-không, rải những hoa quý như các hoa: Man-đà-la, Ma-ha man-đà-la, Man-thù-sa, Ma-ha man-thù-sa[52] lên trên đức Phật; lại rắc những hương Ngưu-đầu Chiên-đàn; tấu những kỹ-nhạc cõi Thiên và ca-hát, tán-thán.

Đức Phật bảo ông A-Nan: “Ông có thấy chư Thiên tám bộ trong hư-không cúng-dàng Tôi không?” – Ông A-Nan bạch Phật: “Dạ, lạy đức Thế-Tôn! Con có trông thấy”.

Đức Thế-Tôn lại bảo ông A-Nan: “Muốn cúng-dàng Tôi, để báo ân, bất-tất phải dùng đến hương-hoa, kỹ-nhạc cõi trời. Giữ giới cấm thanh-tịnh, đọc tụng kinh sách, suy-nghĩ nghĩa thâm-diệu của các pháp, thế là cúng-dàng Tôi vậy!”

Khi ấy, có một vị Tỳ-Khưu tên là Ưu-ba-ma-na (Upamàna) ngày xưa khi đức Như-Lai chưa đem ông A-Nan vào làm thị-giả, vị Tỳ-Khưu ấy thường giữ việc trông nom đức Như-Lai, nay ông Ưu-ba-ma-na, thấy đức Như-Lai nằm dưới hàng cây Sa-la song-thụ, tâm ông rất khổ-não, ông liền đứng trước đức Phật, để được chiêm-ngưỡng đức Phật lần cuối cùng. Đức Thế-Tôn liền bảo ông rằng: “Ông Ưu-ba-ma-na! Hôm nay ông không nên đứng lấp trước mặt Tôi!” Ông Ưu-ba-ma-na liền đứng lui về một bên.

Ông A-Nan thấy thế, tâm ông sinh niệm ngờ-vực: “Lạ thực, ta hầu Phật từ xưa tới nay trải đã bao năm, ta chưa từng thấy đức Phật nói ra lời như thế, sao ngày nay đức Như-Lai lại không cho đứng trước mặt; hay là, nay đức Phật Như-Lai sắp nhập Niết-Bàn, không cho ai đứng trước mặt buồn-rầu, khóc-lóc? Nghĩ rồi, ông A-Nan đỉnh lễ xuống chân Phật, quỳ thẳng, chắp tay bạch: “Lạy đức Thế-Tôn! Từ trước tới nay con hầu Phật, thường thường con đứng trước mặt đức Thế-Tôn con chưa từng nghe thấy đức Thế-Tôn bảo con đứng lùi ra, nay sao đức Thế-Tôn lại bảo ông Ưu-ba-ma-na đứng tránh trước mặt?”

Đức Phật dạy: “Ông A-Nan! Đồ-chúng của chư Thiên, long-thần tám bộ[53], nghe Tôi nằm nghiêng về hông bên hữu dưới hàng cây Sa-la song-thụ này, họ tranh nhau lại trông ngắm Tôi, từ trong hư-không, dồn đến mặt đất, bốn mặt đầy ních đến ba mươi hai do-tuần; Tỳ-Khưu Ưu-ba-ma-na này, đứng lấp trước mặt Tôi, Thiên, long tám bộ sinh tâm không vui, nghĩ rằng nay đức Như-Lai ở dưới hàng cây Sa-la song-thụ này, không bao lâu nữa sẽ nhập Niết-Bàn, chúng ta muốn được trông ngắm đức Như-Lai lần cuối cùng này, mà vị Tỳ-Khưu kia lại đứng che lấp trước mặt Phật!” Vì nhân-duyên ấy nên tôi bảo ông ấy đứng lùi về một bên.”

Ông A-nan có biết không, nay trong tám bộ đây, hoặc có người thương khóc, không tự hãm được, hoặc có người áo-não, mê-muộn sắp ngất đi, hoặc có người buồn quá, lấy tay nhổ tóc trên đầu mình, hoặc có người xé đứt những đồ trang-nghiêm nơi thân mình và đều đồng thanh xướng rằng: “Nay đức Như-Lai nhập Niết-Bàn, sao nhanh quá vậy thay! Đức Như-Lai ra đời, khó gặp gỡ được, như hoa Ưu-đàm bao thời, bao thời mới hiện, mà nay không bao lâu nữa, Ngài sẽ nhập Niết-Bàn. Than ôi, khổ lắm! Con mắt của thế-gian mất rồi từ nay trở đi, chúng ta lấy ai là nơi quy-y, dẫn-đạo!” Chư Thiên nơi Ly-dục[54] cũng đều than rằng: “Than ôi, thế-gian rất là vô-thường, không có cái gì có thụ-sinh, mà không hướng về nơi tiêu-diệt!” Cũng chư Thiên kia, họ cùng bảo nhau: “Ngày trước đức Thế-Tôn hoặc nơi thành Tỳ-da-ly (Vaisàli) hoặc ở nơi thành Vương-xá (Ràjagrha) hoặc ở trong nước Xá-vệ (Sràvasti) cùng ở những nơi khác, khi an-cư xong, các vị Tỳ-Khưu, từ bốn phương về vấn-tấn đức Thế-Tôn, nhân thế, chúng ta ở bên đường được trông thấy các vị Tỳ-Khưu, lễ-bái, cúng-dàng, nghe thụ kinh-pháp, được nhiều phúc-lợi; nay đức Thế-Tôn nhập Niết-Bàn rồi, các vị Tỳ-Khưu, khi an-cư xong, không về vấn-tấn như trước nữa, các vị du-hành khắp nơi, chúng ta không được ở bên đường trông thấy các vị Tỳ-Khưu, lễ bái, cúng-dàng, nghe thụ kinh-pháp, từ nay chúng ta vĩnh-viễn mất những phúc-lợi ấy.”

Bấy giờ, đức Như-Lai bảo ông A-Nan: “Nếu Tỳ-Khưu, Tỳ-Khưu-Ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di, sau khi Tôi diệt-độ, phát tâm, đến bốn nơi của Tôi khi trước, sẽ được nhiều công-đức không thể tính kể được và nơi sẽ sinh của họ sau này, thường ở trong cõi Nhân, Thiên, hưởng thụ quả-báo an-vui, không khi nào cùng-tận. Bốn nơi ấy là những nơi nào? - Một là, nơi khi Như-Lai làm bồ-Tát, giáng-sinh tại vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini) nuớc Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Hai là, nơi Tôi bắt đầu ngồi dưới gốc cây Bồ-Đề (Boddhidruma) thành Vô-thượng chính-đẳng chính-giác, tại nước Ma-kiệt-đề (Magadha). Ba là, nơi chuyển-pháp-luân (thuyết-pháp) đầu tiên, trong vườn Lộc-giã (Mrgadàva) (nơi các Tiên-nhân ở trước), nước Ba-la-nại (Vàranasi Benares). Bốn là, nơi Tôi nhập Niết-Bàn, khoảng hai hàng cây, trong rừng Sa-la (Sàlavana) bên bờ sông Ni-liên (Nairanjana) nơi Lực-sĩ sinh-địa, nước Cưu-thi-na (Kusinagara). Đó là bốn nơi! Nếu Tỳ-Khưu, Tỳ-Khưu-Ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di, cùng những đồ-chúng ngoại-đạo khác, phát-tâm muốn đến những nơi kia lễ-bái, đều thu được công-đức, như đã nói ở trên.”

Ông A-Nan nghe đức Phật nói lời ấy, ông liền bạch Phật: “Lạy đức Thế-Tôn! Từ nay, con xin tuyên-cáo khắp cả cho bốn bộ-chúng biết bốn nơi ấy và nếu ai đi đến lễ-bái, được công-đức như thế.”

Khi ấy, ông A-Nan lại bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Nếu các người Ưu-bà-di có thiện-tâm, giữ trọn giới-hạnh, ham nghe kinh-pháp, muốn yết-kiến vị Tỳ-Khưu, từ nay chúng con nên xử thế nào? Đức Phật dạy: “Từ nay các ông đừng nên tương kiến!” Ông A-Nan bạch: “Nếu bỗng nhiên hội-ngộ, nên xử ra sao?” Đức Phật dạy: “Đừng cùng nói chuyện”. Ông A-nan bạch: “Nếu không nói chuyện, nhưng, họ có lời thỉnh cầu, muốn nghe kinh-pháp nên làm thế nào?” Đức Phật dạy: “Nên vì họ, thuyết-pháp cho họ nghe, nhưng, các ông nên giữ-gìn khéo-léo thân, khẩu, ý của các ông!” Ông A-Nan bạch: “Lạy đức Thế-Tôn! Từ nay chúng con xin vâng làm như thế.”

TOÁT-YẾU

Bấy giờ, đức Thế-Tôn cùng các vị Tỳ-Khưu tiến lên đường.

Đến rừng Sa-la, Ngài cùng đại-chúng dừng lại, sai ông A-Nan vào sửa-sang khoảng hàng cây Sa-la song-thụ.

Sửa-sang xong, Ngài cùng tất cả vào trong rừng. Đến nơi kia Ngài đặt hông bên hữu xuống cái giường kết bằng dây, đầu hướng Bắc, chân xếp lên như kiểu con sư-tử nằm ngủ. Ngài đoan-tâm, chính-niệm.

Khi ấy, Thiên long tám bộ trên hư-không rải hoa, rắc hương, tấu Thiên-nhạc, ca hát tán-thán.

Đức Phật bảo ông A-Nan: “Muốn cúng-dàng Tôi để báo-ân, bất tất phải dùng đến hương-hoa, kỹ-nhạc cõi trời. Giữ giới cấm thanh-tịnh, đọc tụng kinh sách, suy-nghĩ nghĩa thâm-diệu của các pháp, thế là cúng-dàng Tôi vậy!”

Đồ-chúng của Thiên, long tám bộ đến quá đông. Ai ai cũng than-tiếc, khóc-lóc và cũng muốn được trông thấy chân-dung đức Phật lần cuối cùng. Cảm thấy thế, ngài bảo ông Ưu-ba-ma-na Tỳ-Khưu đang đứng trước mặt Ngài, đứng lui về một bên.

Muốn chúng-sinh đời sau hưởng-thụ quả-báo an-vui, đức Phật còn dạy nên đi chiêm-lễ, cúng-dàng 4 nơi di-tích của Ngài là nơi giáng-sinh, nơi thành-đạo, nơi chuyển-pháp-luân và nơi nhập Niết-Bàn.

Tới đây ông A-Nan hỏi Phật về xử-sự đối với hàng Ưu-bà-di thiện-tâm, giữ giới, ham muốn nghe kinh, nên như thế nào? Đức Phật dạy: “Nên thuyết-pháp cho họ nghe, nhưng, mình cũng nên giữ gìn 3 nghiệp cho khéo-léo!”

Ông A-Nan xin vâng làm như thế.

[1] Kinh Đại Bát-Niết-Bàn là cuốn kinh số 7 trong Đại-Tạng kinh.

Đại Bát-Niết-Bàn (Mahàparinirvàna): Tàu dịch là “Đại nhập-diệt tức”; “Đại-diệt-độ”; “Đại-viên-tịch nhập”… “Đại” là lời khen đức “tịch-diệt”, có tính cách sâu, rộng lớn; “Diệt” là diệt phiền-não nơi thân tâm; “Tức” là yên nghỉ, “Độ” là vượt qua bể sinh-tử, “Viên-tịch” là công-đức viên-mãn, tịch-diệt phiền-não và “Nhập” có nghĩa là hướng về nơi tịch-diệt. Tóm lại, là đức-trí đầy đủ, phiền-não dứt sạch, chứng nhập nơi yên-tịnh sáng-suốt cao-sâu, rộng lớn.

Kinh này gồm 3 quyển: Thượng, trung, hạ. Nhận thấy ý văn trong kinh liên-tục, nên khi dịch chúng tôi không theo sự phân chia thành từng quyển như cũ. Song, đến cuối mỗi quyển cũ chúng tôi có ghi nơi chú-thích để lưu lại dấu xưa. Và, muốn cho dễ nhận-định và ký-ức, chúng tôi ghi thêm đề-mục và toát-yếu từng đoạn trong kinh. (lời dịch-giả)

[2] Gia-phu: Ngồi xếp bằng, hai bàn chân để chéo lên hai vế .

[3] Bốn phép thần-túc: Còn gọi là 4 như-ý-túc: Dục, niệm, tinh-tiến và tuệ.

[4] Ma-Vương: Vị chúa trong loài Thiên-ma, tức vị Thiên-chúa ở cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên, là cõi trời thứ 6 thuộc Dục-giới. Ma-vương kia thường đốc-xuất quyến-thuộc hướng về nhân-gian, làm chướng-ngại đạo Phật, nên còn gọi là Ba-tuần. Nhưng, Đại-thừa là cho đó là vị Bồ-tát, dùng đại phương-tiện, hiện Ma-vương để giáo-hóa chúng-sinh.

[5] Thiện-Thệ: (Tu-già-đà: Sugata): Một hiệu trong 10 hiệu của Phật và có nghĩa là đi tốt. Ý nói: Dùng nhất thiết trí làm xe, đi trên đường bát-chính, rảo tới nơi Niết-Bàn, nên gọi là “Thiện-Thệ”.

[6] Hữu: Tức là hữu-lậu-nghiệp. Ý nói: Chúng-sinh bị sinh-tử luân hồi, đều do những hành-vi tạo-tác bất thiện huân-tập và hấp-dẫn. Đức Thế-Tôn cũng có thân ở trong sinh-tử nhưng, vì độ sinh mà có và Ngài đã đạt tới chỗ vô-lậu rồi. Nay tấm thân giả-tạm do tứ-đại hợp-thành này Ngài muốn trả về bản-hữu của nó.

[7] Đây là phần chọn lựa những ý yếu-ước trong chính-văn, hầu giúp quí Phật-tử dễ hiểu, dễ nhớ, khi xem xong từng đoạn. Vì là, những toát-yếu, nếu Phật-tử nào muốn tụng, xin tụng chính-văn, mà dành phần này lại. (Lời dịch-giả).

[8] Nhất-thiết chủng-trí: Tức là Phật-trí, có nghĩa là trí-tuệ biết suốt hết thảy pháp.

[9] Chuyển-pháp-luân (quay bánh xe pháp): Giáo pháp của Phật gọi là “pháp-luân” (bánh xe pháp); truyền nói giáo-pháp ấy gọi là “chuyển” (quay). Nghĩa là giáo-pháp của Phật, quay vòng khắp chúng-sinh-giới, phá tan những phiền-não. Và, “chuyển” đây còn có nghĩa là chuyển pháp tự tâm mình, chuyển-di sang tâm người khác.

[10] Sát-lỵ (Ksatriya): Giai-cấp vua chúa. Gia-cấp thứ 2 trong 4 giai-cấp của Ấn-Độ.

[11] Bà-la-môn (Bràhmana): Giai-cấp tu-sĩ của Ấn-Độ-giáo, Tàu dịch là “Tịnh-hạnh”; “Tịnh-chí”, “Tĩnh-chí”. Giái-cấp thứ nhất, trong 4 giai-cấp của Ấn-Độ.

[12] Trưởng-giả: Tiếng Phạm gọi là “Nghị-lực-hạ-bát-để” (Drha-pati). Tiếng gọi thông thường chỉ cho người nhiều của, đủ đức. Bộ Pháp-Hoa Huyền-Tán quyển 10 nói: “Trưởng-giả là người tâm bình, tính thẳng, nói thực, làm chăm, tuổi nhiều, của lắm”.

[13] Cư-sĩ: Tiếng Phạm gọi là Ca-la-việt (Kulapati): Là người có của ở nhà không ra làm việc đời; là người ẩn-dật ở nơi nhà mình không ra làm quan; hay là người tại-gia có chí-hướng về đạo Phật. Bộ Pháp-Hoa Huyền-Tán quyển 10 nói: “Giữ đạo tự điềm-đạm, chứa đức ít muốn, gọi là Cư-sĩ”.

[14] Sa-môn (Srmana): Xưa dịch là “Tức-tâm, Tĩnh-chí, Bần-đạo v.v…” Nay dịch là “Công-lao, Cần-tức”, đều có nghĩa là vị tu-hành siêng-năng tu-tập, ngăn dứt phiền-não nơi tâm, làm yên-lặng, trong sạch thần-chí, có công cần-cù khó-nhọc tiến tu về đạo giải-thoát (đạo Phật).

[15] Đây là nói về y-cứ của 8 thiền-định phát-khởi ra thắng-tri (hiểu biết cao), thắng-kiến (thấy biết cao) để xả tâm tham-ái. Đại-ý: 1/ Đạo nơi mình chưa tăng-trưởng, thời cần chú trọng quán-tưởng ngay nơi thân tâm mình đã, chưa cần quán-tưởng đến hình-sắc ngoài thân tâm mình, hoặc chỉ ít thôi. Tỷ-dụ: mình đang quán-tưởng thân mình là bất-tịnh chưa được thấu đáo, bền chắc, thời chưa nên (hay chỉ ít thôi) đi xem thây người chết khác, có khi sinh sợ-hãi, thoái-chuyển. 2/ Đạo tiệm tiến, quán nơi mình và quán nơi người nhiều vẫn không hại. 3/ Đạo đạt dần tới chỗ thắng-diệu, dù quán hình sắc ngoài, nhưng trong tâm không vương chút hình-sắc nào. 4/ Tiến thêm hơn nữa, dú quán hình-sắc ngoài nhiều, trong tâm vẫn không vương chút hình-sắc nào. Bốn quán trên đây là lẫn lộn cả tịnh và bất-tịnh. Còn tứ quán thứ 5, 6, 7, 8 là đạo đã đạt tới chỗ thắng-diệu thực sự, không còn có sự chấp-trước vào pháp-tướng nữa, mà chuyển-biến tự-tại.

[16] Đây là 8 pháp quán giúp người tu Thiền-định được giải-thoát. Đại-ý: 1/ Trong tâm mình có lòng tham-tưởng về sắc, muốn trừ nó cho được giải-thoát, nên đi xem cái thây thối-tha, chương phềnh của người chết v.v… 2/ Muốn thêm kiên-cố trong sự giải-thoát, dù trong tâm không khởi tưởng tham sắc, vẫn cứ đi xem thây chết kia v.v… 3/ Quán sắc-tướng thanh-tịnh, trừ-tướng bất tịnh. Ba quán trên, quán thứ nhất y vào Sơ-thiền-định phát-khởi và duyên vào sắc của Dục-giới; quán thứ 2 y vào Nhị-thiền-định phát-khởi và duyên vào sắc của Sơ-thiền; quán thứ 3 y vào Tứ-thiền phát-khởi và duyên vào sắc của Dục-giới, nhưng cho là sắc bất-tịnh. Còn quán giải-thoát thứ 4, 5, 6, 7 y vào 4 định của cõi Vô-sắc phát-khởi và ở ngay chỗ đắc định quán về khổ, không, vô-thường, vô-ngã, sinh tâm chán ghét mà bỏ, nên gọi là giải-thoát. Quán giải-thoát thứ 8, diệt thụ, tưởng, y vào Tứ-thiền bỏ hết thảy sở-duyên trong Phi-phi-tưởng nên gọi là giải-thoát.

[17] Ba mươi bảy đạo phẩm: a/ 4 niệm xứ: Quán thân bất-tịnh, quán thụ là khổ, quán tâm vô-thường và quán pháp vô-ngã. b/ 4 chính cần: Ác đã sinh làm cho chóng dứt. Ác chưa sinh làm cho không sinh được. Thiện chưa sinh làm cho chóng sinh. Thiện đã sinh làm cho tăng-trưởng. c/ 4 thần-túc: Dục, niệm, tiến và tuệ. d/ Năm căn: Tín, tinh-tiến, niệm, định và tuệ. e/ Năm lực: Cũng là 5 căn, nhưng, đây đứng về mặt đối-trị mà nói. f/ 7 giác-chi: trạch-pháp, tinh-tiến, hỷ, khinh-an, niệm, định và hành-xả. g/ 8 thánh đạo: chính-kiến, chính-tư-duy, chính-ngữ, chính-nghiệp, chính-mệnh, chính-tinh-tiến, chính-niệm và chính-định.

[18] Ly-xa (Licchavi): Tên dòng vua, quan của thành Tỳ-da-ly.

[19] Pháp hữu-vi: Sự-vật do nhân-duyên tạo-tác.

[20] Giác-ý: Ý-niệm giác-ngộ. Tức 7 giác-chi.

[21] Ngũ-dục: Năm thứ ham-muốn: của-cải, sắc-đẹp, danh-vọng, ăn-uống, ngủ-nghỉ. Hoặc là sắc, thanh, hương, vị, xúc: 5 trần-cảnh.

[22] Cửu bộ pháp (tức Cửu bộ kinh): Chín bộ kinh: Trong kinh có chia làm 12 phận-giáo: 1/ Tu-đa-la (Sutra: khế-kinh: văn suôi). 2/ Kỳ-dạ (Geya: trùng-tụng: bài kệ nói lại nghĩa của văn suôi). Già-đà (Gàthà: phúng-tụng: bài kệ 4 câu đứng riêng, không liền với văn suôi). 3/ Ni-đà-na (Nidàna: nhân-duyên). Y-đế-mục-đa (Itivrtaka: Bản-sự: nói những việc đời trước). 6/ Xà-đa-già (Jàtaka: Bản-sinh: Phật tự nói nhân-duyên mình đời trước). 7/ A-phù-đạt-ma (Adbhuta-dharma: Vị-tằng-hữu: làm những sự hiếm có). 8/ A-ba-đà-na (Avadàna: thí-dụ). 9/ Ưu-bà-đề-xá (Upadesa: luận-nghĩa). 10/ Ưu-đà-na (Udana: tự thuyết: tự Phật nói, không đợi ai hỏi). 11/ Tỳ-phật-lược (Vaipulya: phương-quảng: Văn nói về chân-lý phương-chính, quảng-đại; tức là đại-thừa-giáo). 12/ Hòa-già-la (Vyàkarana: thụ-ký). Tuy vậy, có chỗ Tiểu-thừa bỏ: Phương-quảng, thụ-ký và tự-thuyết đi còn 9 phần, gọi là cửu-bộ pháp (hay cửu-bộ kinh). Và Đại-thừa có chỗ bỏ: Nhân-duyên, thí-dụ và luận-nghĩa, thành cũng còn 9 bộ-phận.

[23] Chín lỗ thường chảy: Trong thân người có chín lỗ hổng thường chảy những thứ nhơ-nhớp là: 2 mắt, 2 lỗ mũi, mồm và nơi đại, tiểu-tiện.

[24] Anh-lạc: Tiếng Phạm gọi là Chỉ-do-la (Keyùra): Chuỗi dây-chuyền làm bằng ngọc để đeo vào cổ, vào mình.

[25] Trần-cấu: Chỉ cho phiền-não, nhưng nay thường chỉ vào 88 kết-sử của kiến-hoặc.

[26] Pháp-nhãn-tịnh: Nghĩa là thấy chân-lý bằng cách rõ ràng.

[27] Lậu-nghiệp hết, ý khai-giải: Bậc tam-thừa dùng Thánh-trí dứt hết phiền-não do ý căn tạo ra, ý được mở tỏ và giải-thoát.

[28] A-la-hán: (Arahat): Quả vị thứ tư trong 4 quả của bậc Thanh-văn, A-la-hán, Tàu dịch là “Bất-sinh” (cũng có chỗ gọi là Vô-Sinh). Nghĩa là quả-báo trong một đời diệt hết, được vào Niết-bàn mãi mãi, không phải tái-sinh trong 3 cõi nữa.

[29] Xem phần chính-văn.

[30] Năm ấm: Sắc, thụ, tưởng, hành, thức.

[31] Pháp hữu-lậu: “Lậu” (dò-rỉ) tên riêng chỉ cho phiền-não. Sự-vật có hàm-tàng sự phiền-não gọi là hữu-lậu. Hết thảy sự thể trong thế-gian đều là pháp hữu-lậu.

[32] Tăng-già-lam (Samghàràma): Tàu dịch là “chúng-viên” cái vườn hay rừng chúng-tăng ở. Nay ta thường cho là chùa.

[33] A-lan-nhã (Àrinya): Tên gọi chung cho các tự-viện, là nơi ở của các vị Tỳ-Khưu. Nhưng, đúng ra A-lan-nhã là nơi xa-vắng, yên-tĩnh, nên Tàu dịch là “Nhàn-tịch”.

[34] Đến đây là hết quyển thượng.

[35] Tam quy-y: Quy-y Tam-Bảo: Phật, Pháp, Tăng.

[36] Ngũ giới: Năm điều răn: Không sát-sinh, không trộm-cắp, không tà-dâm, không nói dối và không uống rượu.

[37] Châm-chước: Hầu-hạ, bưng-rót, gắp bỏ, san-sẻ thức ăn uống.

[38] Ba phép minh: 1/ Túc-mệnh. 2/ Thiên-nhãn. 3/ Lậu-tận.

[39] 6 phép thần-thông: Thần-thông có nghĩa là phép có tác-dụng tự-tại vô-ngại. 6 phép ấy là: 1/ Thần-túc-thông (Rddhividhi-jnàna). 2/ Thiên-nhãn-thông (Divya-caksus). 3/ Thiên-nhĩ-thông (Divya-sirotra). 4/ Tha-tâm-thông (Paracit-jnàna). 5/ Túc-mệnh-thông (Pur-vanivàsànusmrti-jnàna). 6/ Lậu-tận-thông (As-ravaksaya-jnàna).

[40] A-na-hàm (Angàmi): Quả vị thứ 3 trong 4 quả của Thanh-Văn. A-na-hàm Tàu dịch là Bất-lai hay Bất-hoàn. Nghĩa là vị tu-hành đã diệt hết hoặc-nghiệp cõi Dục không phải trở lại lần nữa. Và, sau chỉ phải sinh lên cõi Sắc, cõi Vô-Sắc mà thôi.

[41] Tư-đà-hàm (Sakrdàgàmi): Quả vị thứ 2 trong 4 quả của Thanh-Văn. Tư-đà-hàm Tàu dịch là “Nhất-lai”. Nghĩa là vị tu-hành, đoạn cửu-địa tư-hoặc, được 6 phẩm trước, còn 3 phẩm sau, còn phải thụ-sinh trong Dục-giới một lần nữa, nên gọi là “Nhất-lai”.

[42] Tu-đà-hoàn (Srotapanna-phala): Quả thứ 1 trong 4 quả của bậc Thanh-Văn. Tàu dịch là “Nhập-lưu, Nghịch-lưu, Dự-lưu”. Đều có nghĩa là vị tu-hành đã đi ngược dòng sinh-tử, phàm-phu mà đã được dự vào dòng Thánh-Đạo.

[43] Tứ-quả: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Tứ-hướng: Tu-đà-hoàn-hướng, Tu-đà-hàm-hướng, A-na-hàm-hướng, A-la-hán-hướng. Hướng có nghĩa là hướng tới, đi đến.

[44] Tăng-già-lê (Samghàti): Tên một áo trong 3 áo của Tỳ-Khưu. Áo này Tàu dịch là “trùng” hay là “hợp”. Vì áo này xé vải ra thành những miếng vụn xong rồi may đụp lên. Áo này có nhiều thứ hoặc 9 điều, 11 điều, 13 điều, mỗi điều hai mảnh dài, 1 mảnh ngắn; 15, 17, 19 điều, mỗi điều 3 mảnh dài, 1 mảnh ngắn; 21, 23, 25 điều, mỗi điều 4 mảnh dài, 1 mảnh ngắn.

[45] Diệt-tận-định (Nirodhasamàpatti): Cũng gọi là Diệt-thụ-tưởng-định là 1 trong 2 Vô-tâm-định. Là môn thiền-định diệt hết tâm, tâm-sở, 6 thức, làm cho không phát-khởi được nữa.

[46] Thiện-lai Tỳ-Khưu: Đây nói, khi thời Phật tại thế, người thiện-tâm xuất-gia, do nguyện-lực của đương-nhân cùng sức uy-thần của Phật, Phật hướng vào người xuất-gia, gọi: “Thiện-lai Tỳ-Khưu” (vị Tỳ-Khưu do thiện-nguyện tới), tức thì thành vị Sa-môn; hình tướng như tóc trụi, áo nhuộm, tự đầy đủ…, thân thành cụ-túc-giới.

[47] Ca-sa (Kasàya): Có nghĩa là áo nhuộm hoại-sắc, không để chính-sắc. Là áo của các vị Tỳ-Khưu. Áo này có 3 bậc: 5 điều, 7 điều và 9 điều…

[48] Lực-sĩ sinh-địa: Nơi sinh-trưởng của phái Lực-sĩ, thành Cưu-thi-na.

[49] Hoa Ưu-đàm: Ưu-đàm gọi đủ là Ưu-đàm-ba-la (Udumbara), Tàu dịch là “Linh-thụy” (điềm linh- thiêng); “Thụy-ứng” (Ứng vào điềm tốt). Theo Pháp-Hoa văn-cú nói thời hoa này 3.000 năm một lần hiện, khi hoa ấy hiện ra thời có kim-luân-vương ra đời.

[50] Ly-dục: Xa-lìa dục-vọng.

[51] Sa-la (Sàla): Tàu dịch là “Kiên-cố” (vững-bền). Theo Tuệ-uyển-sư nói thì đức Phật nhập-diệt ở khoảng giữa 4 cây Sa-la, nhưng mỗi cây này một gốc mọc thành 2 cây, nên gọi là Sa-la song-thụ.

[52] Trên đây là các hoa cõi Trời: Hoa Man-đà-la (Mandarava) Tàu dịch là hoa “Tiểu-bạch-đoàn”; hoa Ma-ha man-đà-la (Maha Mandarava) Tàu dịch là hoa “Đại-bạch-đoàn”; hoa Mạn-thù-sa (Manjùsaka) Tàu dịch là hoa “Tiểu-xích-đoàn”; hoa Ma-ha mạn-thù-sa (Maha Manjùsaka) Tàu dịch là hoa “Đại-xích-đoàn”.

[53] Tám bộ: 1/Thiên (Deva): Các vị trên các cõi Trời. 2/ Long (Nàga): Loài Rồng. 3/ Dạ-soa (Yaksa): Hoặc gọi là Dược-soa là loài quỉ-thần bay trên hư-không. 4/ Càn-thát-bà (Gadharva): Tàu dịch là “Hương-ấm”, nhạc-thần nơi Đế-thích-thiên. 5/ A-tu-la (Asura): Có chỗ gọi là A-tu-luân, Tàu dịch là “Phi-thiên”, cũng thuộc loài quỉ-thần. 6/ Ca-lâu-la (Garuda): Chim Kim-sí. 7/ khẩn-na-la (Kimnara): Ca-thần: Nhạc-thần nơi Đế-thích-thiên. 8/ Ma-hầu-la-già (Mahoga): Đại-mãng-thần.

[54] Chư Thiên nơi Ly-dục: Chỉ cho các vị trời nơi Sắc-giới trở lên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22298)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16026)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15034)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18962)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14452)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18633)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13589)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13556)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11822)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13262)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13666)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13940)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13252)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16166)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11085)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16457)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11908)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17601)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12880)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13717)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12865)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16393)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13133)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12093)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12775)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12919)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12792)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14125)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16481)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12381)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14390)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11334)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11037)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13195)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13896)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13166)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13007)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13512)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12739)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10235)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13970)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10238)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13706)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16271)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11969)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12980)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11661)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12682)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10800)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10946)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11901)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12770)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11068)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12622)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11329)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant