Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

12. Công hạnh ông A Nan

09 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9624)
12. Công hạnh ông A Nan

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt

XII. CÔNG-HẠNH ÔNG A-NAN

Ông A-Nan nghe đức Phật nói lời ấy, tâm sinh áo-não, thương-xót kêu khóc, lẩn ra sau Phật, cách Phật không xa mấy, ông nói nhỏ rằng: “Nay ta còn là người trong Học-địa [8] chưa biết được ý-vị sâu-xa trong mọi pháp, mà đấng Thiên-Nhân-Sư, một sớm bỏ ta nhập Niết-Bàn, thời nào ta sẽ lên được đường giải-thoát!” Nói rồi, ông giơ tay vịn một cành cây; rồi ông đấm ngực, bứt đầu, áo-não, buồn-bã ngất đi.

Khi ấy, đức thế-tôn hỏi một vị Tỳ-Khưu khác: “Giờ này ông A-Nan ở chỗ nào?”

Vị Tỳ-Khưu kia đáp: “Lạy đức Thế-Tôn! Ông A-Nan hiện nay ở dưới một gốc cây, sau đức Như-Lai, ông đang kêu khóc, áo-não lắm!”

Đức Phật bảo vị Tỳ-Khưu kia: “Ông đến chỗ ông A-Nan, bảo ông ấy rằng: “Nay đấng Thiên-Nhân-Sư muốn gặp ông!”

Vị Tỳ-Khưu kia đến chỗ ông A-Nan và nói rõ ý của Như-Lai cho ông A-Nan nghe. Ông A-Nan nghe rồi, liền trở về nơi Phật. Đến nơi, đầu mặt ông đỉnh lễ xuống chân Phật, rồi đứng dựa về một bên.

Đức Thế-Tôn hỏi ông A-Nan: “Ngày gần đây Tôi đã nói cho ông nghe: “Hết thảy mọi hành-tướng, đều thuộc về vô-thường; sự ân-ái hội-hợp, tất về nơi biệt-ly”, thế mà, sao nay ông còn cứ buồn-rầu, áo-não vậy!”

Lại nữa, ông A-Nan! “Từ trước tới nay, ông theo hầu Tôi, trông nom công việc trước, sau, khi tiến, khi chỉ, khi đi, khi lại, cùng thông-tiếp với tân-khách, đều hợp nghi-tiết; Tôi lại thấy thân, khẩu, ý ông đều thanh-tịnh, không chút vết nhơ nào, ông được phúc-lợi không thể tính kể được!”

Đức Thế-Tôn ngoảnh lại bảo các vị Tỳ-Khưu: “Chính ông A-Nan không nên có sự buồn-rầu, áo-não ấy! Sao vậy? – Vì, không bao lâu nữa, ông sẽ được đến nơi giải-thoát. Các vị Tỳ-Khưu nên biết: chư Phật trong đời quá-khứ, đều có thị-giả, như ông A-Nan ngày nay; chư Phật đời sau cũng thế. Các vị Tỳ-Khưu nên biết: Nay ông A-Nan đây, trí-tuệ thâm-diệu, thông-minh, căn-khí linh-lợi; từ trước tới nay Tôi nói ra pháp-tạng gì, ông A-Nan đều ghi nhớ không quên.

Lại nữa, các vị Tỳ-Khưu! Ông A-Nan biết rõ thời-tiết, khi tiến, khi chỉ: Nếu có người khách nào, muốn vào yết-kiến tôi, ông A-Nan liền suy-tính trước từng giờ: Đức Thế-Tôn hoặc giờ nọ tiếp các vị Tỳ-Khưu, giờ nọ tiếp các vị Tỳ-Khưu-Ni, giờ nọ tiếp các vị Ưu-bà-tắc, giờ nọ tiếp các Ưu-bà-di, giờ nọ tiếp các vị Bà-la-môn, giờ nọ tiếp các vị dòng Sát-lỵ, giờ nọ tiếp các vị Trưởng-giả, Cư-sĩ, giờ nọ tiếp các vị ngoại-đạo. Tất cả những vị như trên, nếu trông thấy Tôi, cùng nghe Tôi thuyết-pháp, đều được nhiều công-đức, phúc-lợi. Sao vậy? Vì, đều do ông A-Nan thông-tiến vào yết-kiến Tôi, nên họ được thiện-căn thành-thục ấy.”

Lại nữa, các vị Tỳ-Khưu! Chuyển-luân-thánh-vương có bốn pháp lạ-lùng hiềm có: Một là, nếu người Bà-la-môn đến chỗ Chuyển-luân-thánh-vương, trông thấy dung-nhan nhà vua đoan-chính, uy-đức nhà vua cao-hiển, tâm họ sinh hoan-hỷ; sau khi nghe tiếng nói của nhà vua, âm-từ trong-suốt, họ cũng sinh tâm hoan-hỷ, cho đến lúc thấy nhà vua, im-lặng không nói họ cũng ôm-ấp sự sung-sướng, hớn-hở và khi họ cùng nhà vua từ-biệt, về nơi ở cũ, họ vẫn còn nhớ lại mến-tiếc, bước bước ngậm-ngùi, buồn-bực, như người đói khát không được no-đủ. Hai là, các người dòng Sát-lỵ nhỏ. Ba là, các người dòng Tỳ-xá [9]. Bốn là, các người dòng Thủ-đà-la [10] cũng đều như thế. Đó là bốn sự lạ-lùng của Chuyển-luân-thánh-vương. Các vị nên biết: Ông A-Nan cũng có bốn sự lạ-lùng: “Một là, nếu các vị Tỳ-Khưu từ phương xa lại, muốn vào thăm hỏi Tôi, sau trông thấy ông A-Nan, đều sinh tâm hoan-hỷ, nghe ông thuyết-pháp cùng khi thấy ông im-lặng, cũng vui-vẻ, đến khi từ-biệt lui ra, tình thâm-thiết mến đức ông, không có khi nào quên được. Hai là, các vị Tỳ-Khưu-Ni. Ba là, các vị Ưu-bà-tắc. Bốn là, các vị Ưu-bà-di, cũng đều như thế. Các vị nên biết: Ông A-Nan có bốn sự lạ-lùng ấy!”

Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo ông A-Nan: “Nay ông không nên tự sinh tâm khổ-não, mà nói rằng: “Đấng Thiên-Nhân-Sư sắp nhập Niết-Bàn, nay thấy không còn có kỳ nào được giải-thoát nữa!” Sao vậy? – “Phàm hết thảy pháp-tạng Tôi nói, sau khi Tôi diệt độ, suy-nghĩ, vâng theo gìn-giữ, siêng làm tinh-tiến, không lâu tự mình sẽ được giải-thoát!”

TOÁT-YẾU

Sau khi nghe đức Phật nói về phương-pháp cúng-dàng khi Ngài nhập-diệt, ông A-Nan buồn-rầu, kêu khóc than thân là còn đang tu-học, nay mất Thầy, biết bao giờ lên được đường giải-thoát.

Đức Phật cho gọi ông vào và bảo: “Tôi đã từng nói cho ông biết: sự-vật đều vô-thường, ân-ái phải biệt-ly, thế mà sao ông cứ tự buồn-rầu mãi vậy?”

“Tôi biết thân, khẩu, ý ông thanh-tịnh, trông coi việc thị-giả, giao-tiếp tân-khách hợp-nghi, ông được phúc-lợi nhiều!”

Ngài lại ngoảnh lại bảo các vị Tỳ-Khưu: “Chính ông A-Nan nên vui lên, không bao lâu nữa ông sẽ được giải-thoát. Ông A-Nan là người trí-tuệ thông-minh, linh-lợi… Tôi nói gì ông ghi nhớ không quên. Đối với tân-khách, ông khéo biết ứng-cơ hợp thời. Ông lại còn có đức là các vị Tỳ-Khưu, Tỳ-Khưu-Ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đi ở xa về thăm hỏi Tôi, họ trông thấy ông, nghe ông thuyết-pháp hay ông im-lặng, họ đều vui-vẻ; khi từ-biệt họ vẫn nhớ-mến ông mãi mãi!”

Vậy, ông A-Nan! Ông đừng khổ-não, lo-buồn, suy-nghĩ là không có Thầy, không được giải-thoát nữa. Ông chỉ nên nghĩ: “Phàm hết thảy pháp-tạng Tôi nói, sau khi Tôi diệt-độ, suy-nghĩ, vâng theo gìn-giữ, siêng làm tinh-tiến, không lâu tự mình sẽ được giải-thoát!”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12511)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14109)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10851)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10522)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11192)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12002)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13143)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13636)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33665)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11337)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12923)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13057)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11627)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17893)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11442)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11850)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11501)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18975)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12542)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11332)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13139)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15764)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11808)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11693)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12765)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12630)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13966)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12994)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12946)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13296)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12770)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12697)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11745)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11735)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12325)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12384)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19816)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11958)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11990)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16881)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12666)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15061)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16118)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12882)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12231)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11915)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11925)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13150)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16506)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13232)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12495)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11817)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19860)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11154)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11256)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10402)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11091)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10968)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10036)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11755)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant