Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

13. Nhân xưa của thành Cưu-thi-na

09 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9529)
13. Nhân xưa của thành Cưu-thi-na

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt

XIII. NHÂN XƯA CỦA THÀNH CƯU-THI-NA

Ông A-Nan được phạm-âm của Như-Lai an-ủi, sự lo buồn của ông giảm bớt, ông liền bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Tâm ý con hiện nay như hơi tỉnh-ngộ, con muốn có chút việc thỉnh-cầu, kính xin đức Thế-Tôn thương-xót, hoan-hỷ!”

Đức Phật liền đáp: “Ông muốn thỉnh-cầu việc gì, cứ việc nói!”

Ông A-Nan bạch: “Lạy đức Thế-Tôn! Thành Cưu-thi-na này so với những nước lớn khác, thì nó rất là nhỏ hẹp, biên-địa, nhân dân không được đông-đúc, kính xin đức Thế-Tôn đi đến những nước lớn khác như: Vương-xá-thành, Tỳ-da-ly-thành, Xá-vệ-quốc-thành, Ba-la-nại-thành, A-du-xà-thành, Chiêm-ba-thành, Câu-diễm-di-thành, Đức-soa-thi-la-thành…; các thành ấy vừa ở chính giữa, nhân dân đông-đúc, quốc-độ giầu có, vui-vẻ, có nhiều người tín-tâm, trí-tuệ thông-minh, kính xin đức Thế-Tôn đến những thành kia mà nhập Niết-Bàn, đem lại lợi-ích rộng-lớn cho những chúng-sinh, ở trong các nơi ấy.”

Đức Thế-Tôn liền đáp lời ông A-Nan: “Nay ông không nên nói lời thỉnh-cầu Tôi là thành Cưu-thi-na này nhỏ hẹp, biên-địa. Ông nên nghe kỹ, nay Tôi sẽ vì ông, nói cho ông rõ!”

Ông A-Nan! Thuở quá-khứ lâu-xa, nơi thành Cưu-thi-na này có vị Chuyển-luân-thánh-vương, tên là Đại-Thiện-Kiến. Nhà vua có đầy-đủ bảy thứ châu-báu. Nhà vua có một nghìn người con, có sức-lực dẹp được những oán-địch, nhưng đều đem chính-pháp giáo-hóa nhân-dân.

Thành này khi ấy gọi là thành Cưu-thi-bà-đế. Thành này, cửa Đông, cửa Tây cách nhau mười hai do-tuần [11], cửa Nam, cửa Bắc cách nhau tám do-tuần. Bốn mặt thành này, chung quanh đều bảy trùng. Trùng thứ nhất bên trong, xây thuần bằng vàng ròng. Trùng thứ hai, xây thuần bằng bạc. Trùng thứ ba, xây thuần bằng lưu-ly. Trùng thứ tư, xây thuần bằng pha-lê. Trùng thứ năm, xây thuần bằng xà-cừ. Trùng thứ sáu, xây thuần bằng mã-não. Trùng thứ bảy, xây lẫn tất cả mọi thứ châu-báu.

Lầu, mái nhà thành này, đều làm bảy từng; cửa song, cửa sổ, bao-lơn đều điêu-khắc, trang-sức bằng báu cả; lại treo nhiều cái linh (chuông nhỏ) báu, những mạng lưới ở trên. Và, khoảng mỗi từng cách nhau chừng hai dậm. [12]

Bốn cửa thành ấy, mỗi cửa đều chín trùng và đều trang-sức nghiêm-chỉnh, sáng ngời vui mắt.

Ngoài bảy trùng thành, đều có những hào nước. Nước của những hào ấy lắng trong, đủ tám công-đức [13] và bờ hào đều xây bằng bảy báu. Trên và trong những hào ấy, có các loại chim bay, liệng, nhẩy, múa, kêu, đậu, như chim loan, chim phụng, chim khổng-tước, vịt nước, chim nhạn, chim uyên-ương… Trong những hào nước ấy có các thứ hoa, như hoa Cưu-mâu-đầu, hoa Uất-ba-la, hoa Phân-đà-lỵ cùng những hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng và mầu sặc-sỡ. Trên bờ hào ấy, có bảy hàng cây báu, mỗi hàng đều có những thứ châu-báu khác nhau; gió hiu-hiu, thổi từ-từ vào những cành cây kia, nhánh lá chạm nhau, tiếng vang lên như thiên-nhạc.

Nhân-dân trong thành, hết thảy đều đầy-đủ sự yên-ổn, giầu có, vui-vẻ đến chỗ cực-thịnh; ngũ-dục đầy-đủ như cõi trời Đao-lỵ.

Đường xá trong thành đều treo những hạt minh-châu; nhân-dân đi hay nghỉ, không phân ngày đêm. Trong thành này thường thường có mười thứ tiếng: Một là, tiếng voi, hai là tiếng ngựa, ba là tiếng xe, bốn là, tiếng trống, năm là, tiếng loa, sáu là, tiếng đàn cầm, đàn sắt…, bảy là, tiếng hát, tám là, tiếng chuông, tiếng khánh họp đại-hội, chín là, tiếng khen-ngợi người trì-giới, mười là, tiếng thuyết-pháp bàn-bạc với nhau.

Vua Đại-Thiện-Kiến, có mọi uy-đức, đoan-chính đệ-nhất, mọi người trông thấy, ai cũng kính-mến; sống lâu, vui-vẻ, thân không có chút tật gì. Tính vua nhân-từ, nghĩ thương hết thảy, như cha lành thương yêu con mình, hết thảy nhân-dân, thân-kính nhà vua cũng như cha mình.

Ông A-Nan! Vua Đại-Thiện-Kiến, đặc-biệt có một thời, nhà vua muốn ra nơi viên-lâm du-quan, chơi-bời. Nhà vua cho chỉnh-nghiêm bốn loại binh [14], mỗi loại là tám vạn bốn nghìn. Lại, những phu-nhân, thể-nữ hậu-cung cũng chỉnh-nghiêm tám vạn bốn nghìn cỗ xe, muốn theo du-khán. Lúc đó, nhà vua lại sắc cho những dòng Bà-la-môn, trưởng-giả, cư-sĩ…, theo vua xuất-du.

Chỉnh-nghiêm xe ngựa xong, quan chủ-binh vào tâu vua: “Bốn loại binh đã chỉnh-bị, xin vua liệu thì giờ xuất-du!” Nhà vua liền lên xe bạch-tượng, cùng Bà-la-môn, trưởng-giả, cư-sĩ, đại-thần, quyến-thuộc và dùng bốn loại binh vây quanh trước sau.

Khi ra đi, để đến lâm-viên kia, voi đi nhanh như gió lướt, các quan, Bà-la-môn, trưởng-giả, cư-sĩ cùng can vua: “Đại-vương ở mãi trong thâm-cung, nhân-dân bên ngoài, không có duyên được trông thấy Đại-vương, nay Đại-vương đến viên-lâm du-quan, nhân-dân đông-đảo, chật cả bên đường, hết thảy đều trông ngóng muốn thấy Đại-vương; vì sự việc ấy, xin Đại-vương sắc cho người coi xe, không nên đi nhanh!” Nhà vua nghe lời nói ấy, liền sắc cho người coi xe, nên đi từ từ. Do đi từ từ, nhân-dân bên đường, mặc ý chiêm-ngưỡng, như con thấy cha.

Bấy giờ vua Đại-Thiện-Kiến thấy các đường, ngõ, nơi nào cũng bằng-phẳng, lại có những hàng cây thất-bảo, che rợp, sáng ngời, nhưng, không thấy có một ao nước nào, nhà vua liền sắc cho một viên quan, giáp bên các đường, đào ao thất-bảo và mỗi cái ao cách nhau bằng một trăm cái cung. Lại sai trồng thêm nhiều thứ hoa quí. Trong mỗi một ao, phải cắt người hầu-hạ, có ai lại tắm, đem hương hoa cung cho họ, cùng cho thức ăn, uống, mặc ý dùng đủ; cung-cấp như thế, không ngớt ngày đêm. Lại sắc cho viên quan kia, từ nay về sau, nhân-dân từ bốn phương xa lại, có ai lại cầu xin tùy họ dùng gì, cung-cấp cho họ.

Đến viên-lâm rồi, nhà vua cùng Bà-la-môn, trưởng-giả, cư-sĩ cùng các đại-thần du-quan, chơi-bời cho đến chiều tối, thấy ánh-sáng của châu-báu rực-rỡ, như ban ngày không khác. Khi không trông thấy bóng mặt trời, mới biết là đã về đêm, bấy giờ nhà vua cùng các Bà-la-môn, trưởng-giả, cư-sĩ và các thần-dân, chơi-bời xong rồi, mới trở về cung-thành.

Ngày khác, các Bà-la-môn, trưởng-giả, cư-sĩ cùng các đại-thần, đem mọi thứ châu-báu quí-giá, lại dâng vua, nhà vua bảo rằng: “Ngày mới rồi, tôi du-quan chốn viên-lâm, tôi có sắc cho viên quan nọ: từ nay trở đi, có ai lại xin, tùy ý họ, cung-cấp cho họ; đấy việc bố-thí của tôi như thế, nay các khanh, sao lại còn đem những châu-báu đến dâng tôi?”

Bấy giờ, tâm nhà vua tự nghĩ: “Những người này sở dĩ đem châu-báu đến dâng ta đều là duyên-cớ làm cho trong nước cùng giầu-sang. Sự việc như thế, chắc do dân nghèo mà họ đem lại?”

Nhà vua liền sắc cho viên quan coi kho, đem những trân-bảo cung các đồ tư-sinh, để nơi ngã tư đường, rung chuông, đánh trống, xướng lệnh cho bốn phương xa biết rằng vua Đại-Thiện-Kiến, nay mở kho-báu để bố-thí, nếu ai cần dùng, tùy ý lại lấy và nhà vua thường làm việc bố-thí rộng-rãi như thế, không ngớt ngày đêm.

Các Bà-la-môn, trưởng-giả, cư-sĩ cùng các đại-thần trong nước, khi ấy tâu với vua rằng: “Tâu Đại-vương! Cung-điện của Đại-vương thường ở đây, rất chật-hẹp; khi chúng tôi lại vấn-tấn Đại-vương, không thể dung cả được những người theo hầu chúng tôi, kính xin Đại-vương nên mở mang cho rộng-rãi hơn!”

Nhà vua nghe lời nói ấy, im-lặng nhận lời và tâm tự-niệm rằng: “Nay ta nên mở rộng trụ-xứ này!” Bấy giờ, vua Đế-Thích biết rõ tâm-niệm của nhà vua, liền gọi một vị Thiên-tử tên là Tỳ-thủ-kiến-ma, là người tài-nghệ rất khéo, không việc gì là không làm được, mà bảo rằng: “Nay cõi Diêm-phù-đề (Jambudvipa) có vị Chuyển-luân-thánh-vương tên là Đại-Thiện-Kiến, muốn mở-mang cung-thành, ông có thể hiện xuống làm người thợ trông nom giúp cho vị ấy, làm cho nơi ấy về sự điêu-khắc, trang-sức được trang-nghiêm, mỹ-lệ như nơi ta không khác?” Vị Thiên-tử vâng sắc-chỉ của vua Đế-Thích hiện xuống nhân-gian như người tráng-sĩ co ruỗi cánh tay trong chốc-lát đã đến cõi Diêm-phù-đề và đứng ngay trước nhà vua.

Lúc đó, nhà vua trông thấy hình-dáng vị Thiên-tử kia phong-tư đoan-chính biết hẳn là không phải người phàm, nhà vua liền hỏi rằng: “Ngài là vị Thần-đức nào, bỗng dưng lại đây?” - Vị Thiên-tử kia đáp: Đại-vương nên biết, tôi là đại-thần của vua Đế-Thích, tên là Tỳ-thủ-kiến-ma, là người thợ rất khéo. Tâm Đại-vương muốn mở rộng cung-điện, nên vua Đế-Thích sai tôi xuống đây, làm người thợ trông nom giúp nhà vua. Nhà vua nghe lời nói ấy, trong lòng rất vui mừng.

Vị Thiên-tử kia bắt đầu xây-dựng mở-mang cung-thành. Bốn cửa thành, mỗi cửa mở rộng ra, cách nhau hai mươi bốn do-tuần. Lại xây cung-điện nhà vua. Điện này cao, sâu, dài, rộng mỗi chiều đều tám do-tuần và đều bằng thất-bảo, trang-nghiêm, mỹ-lệ, như cung vua Đế-Thích. Trong điện ấy, gồm có tám vạn bốn nghìn căn, cách nhau. Và đều có giường, mùng, ngọa-cụ bằng thất-bảo.

Sau lại xây điện thuyết-pháp cho nhà vua. Điện này cao, sâu, dài, rộng cũng tám do-tuần và cũng trang-nghiêm bằng thất-bảo như trước. Bốn mặt của điện này, đều có cây thất-bảo cùng lấy những cây hoa quý, trồng thành hàng, bóng che rợp và sáng rực.

Lại đào những ao báu. Nước trong ao báu ấy trong-sạch, đủ tám công-đức.

Còn chỗ chính giữa của điện ấy, đặt tòa Sư-tử rất cao rộng, trang-nghiêm bằng thất-bảo, lấy mùng báu che đi và để rủ xuống những cái diềm bằng thất-bảo. Và, vì những khách xa bốn phương lại nghe pháp, nên lại xây tòa Tứ-bảo: Vàng, bạc, lưu-ly, pha-lê; mà số-lượng ngồi trong tòa ấy có đến tám vạn bốn nghìn người.

Khi vị Tỳ-thủ-kiến-ma vì vua Đại-Thiện-Kiến tạo-tác cung-thành xong rồi, vị ấy từ-biệt nhà vua, bỗng dưng không thấy hiện nữa, trở về thiên-thượng.

Đại-Thiện-Kiến-Vương, thấy cung-thành đều đã xây cất, sửa-sang xong, liền sắc cho viên quan trực-thuộc, đánh trống, xướng lệnh cho khắp nhân-dân trong quốc-giới biết: Sau đây bảy ngày, nhà vua sẽ vì hết thảy mọi người, nói nhiều pháp-lợi; nếu ai muốn nghe pháp, đều tập-họp tại Thuyết-pháp-điện.

Bấy giờ, Bà-la-môn, trưởng-giả, cư-sĩ, đại-thần, nhân-dân, nghe xướng lệnh ấy, đúng ngày, đều tập-họp tại Thuyết-pháp-điện.

Lúc đó, nhà vua lên Thuyết-pháp-điện, ngồi lên tòa sư-tử và hết thảy mọi người đến nghe, cũng đều ngồi vào tòa Tứ-bảo. Đại-Thiện-Kiến-Vương, trước tiênmọi người nói về pháp thập-thiện, sau lại khai-tuyên nhiều pháp-môn khác. Cứ thế, cho đến một vạn hai nghìn năm, chúng sinh trong nước ấy, ai từng nghe pháp của vua Đại-Thiện-Kiến, khi mệnh-chung được sinh lên cõi trời, không phải sa-đọa vào địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh.

Ông A-Nan! Vua Đại-Thiện-Kiến thường làm việc lợi-ích chúng-sinh như thế đấy!

Ông A-Nan! Khi vua Đại-Thiện-Kiến ở trong tĩnh-thất, tâm vua tự-niệm: “Thuở quá-khứ ta có hành-nghiệp gì, tu thiện-căn gì, sinh ra đời được sự tôn-quý,có uy-đức lớn, sắc-lực, thọ-mệnh, người ta không sánh bằng được? Chính do trong thuở quá-khứ, ta tu nhiều về bố-thí, nhẫn-nhục, từ-bi, nên nay được quả-báo ấy! Vậy nay ta nên tu-tiến hơn nữa.” Nhà vua liền suy-nghĩ rằng: “Thời-gian không bao lâu nữa ta sẽ chứng được Sơ-thiền, cho đến được Đệ-Tứ-thiền và lại tu-tập tứ vô-lượng-tâm (từ, bi, hỷ, xả) nữa!

Ông A-Nan! Không những riêng mình, vua Đại-Thiện-Kiến lại dạy phu-nhân cùng các thể-nữ tu về Tứ-thiền [15].

Bấy giờ, nơi Tuyết-sơn có tám vạn bốn nghìn con voi trắng, hằng ngày đến sắp hàng trước điện nhà vua. Nhà vua tâm-niệm: “Các con voi trắng này thường lại chỗ ta, phải đi trên các con đường, hẳn là dẫm đạp lên chúng-sinh!” Nghĩ thế, nhà vua liền sắc cho viên quan chủ về việc binh, từ nay về sau, không cần những con voi này, hằng ngày đến chỗ tôi nữa; chừng một nghìn năm sẽ đến một lần, song, chỉ cho bốn vạn hai nghìn con là đủ, bất-tất phải đủ cả tám vạn bốn nghìn con.

Khi ấy, ngọc-nữ của nhà vua tên là Thiện-Hiền cùng với các phu-nhân, thể-nữ tám vạn bốn nghìn người, ngồi thiền, suy-nghĩ ở trong tĩnh-thất đã bốn vạn năm, cùng bảo nhau rằng: “Chúng ta ngồi thiền, suy-nghĩ tại nơi đây đã bốn vạn năm, không trông thấy Đại-vương, nay chúng ta nên tới nơi lễ-bái vấn-tấn!” Nói lời ấy rồi, mọi người cùng theo nhau đến chốn nhà vua.

Lúc đó, cung-nhân hiện ở nơi vua, vào tâu: “Nay Thiện-Hiền cùng tám vạn bốn nghìn nữ-nhân lại thăm hỏi Đại-vương!”

Nhà vua nghe rồi, liền đi lên Thuyết-pháp-điện, ngồi lên tòa sư-tử.

Giây lát, Thiện-Hiền cùng mọi người đến, nhà vua gọi vào trước điện. Thiện-Hiền cùng mọi người theo nhau tiến lên đến chỗ vua ngồi, đầu mặt lễ xuống chân vua. Lễ xong, lần-lượt ngồi và tâu rằng: “Chị em chúng con cùng ngồi thiền, suy-nghĩ ở trong tĩnh-thất đã bốn vạn năm, lâu không được yết-kiến Đại-vương, nay chúng con lại đây là để thăm-hỏi sức khỏe Đại-vương và có chút việc muốn nói, kính xin Đại-vương thuận cho!”

Nhà vua đáp” “Quý hóa! Các vị muốn nói chi tùy ý”.

Thiện-Hiền liền tâu nhà vua rằng: “Bốn phương thiên-hạ đây: Nam Diêm-phù-đề (Jumbudvipa), Tây Cồ-da-ni (Apara-godàniya), Bắc Uất-đan-việt (Uttara-kura), Đông Phất-bà-đề (Pùrva-videha) nhân-dân rất đông-đảo, giầu-sang, vui-vẻ, yên-ổn, đều thực-hành thập-thiện, là do sức đức-hóa của Đại-vương. Cõi Diêm-phù-đề, như thành Cưu-thi-bà-đế này, con số ấy còn có đến tám vạn bốn nghìn thành. Các thành ấy, Quốc-vương, thần-dân, cùng Bà-la-môn, đều lại nơi đây, muốn được yết-kiến Đại-vương. Nhưng, Đại-vương ngồi thiền, trải qua nhiều năm, mọi người lại triều-yết, đều không được thấy, ví như con hiếu không thấy được cha lành. Vả lại, trong tứ thiên-hạ, rất lâu không thấy Đại-vương du-lịch chi cả, kính xin Đại-vương khéo dùng thời-nghi, vỗ-về, tiếp-dắt nhân-dân. Chúng con nữ-nhân yếu-ớt, đối với nước không ích gì lắm, nên thích-ý ngồi thiền lâu lâu, chứ như Đại-vương ở nơi tôn-quý, thống-nhiếp trong ngoài, hết thảy nhân-dân, ai cũng tôn-ngưỡng, há lại làm như việc làm của nữ-nhân chúng con! Voi trắng, xe, ngựa, mỗi loại có đến tám vạn bốn nghìn, Đại-vương nên đi du-quan! Ngày trước Đại-vương, thường vì hết thảy chúng-sinh, nói mọi pháp-lợi, trao-truyền thập-thiện, nhưng, thời-gian gần đây, Đại-vương ngồi thiền, việc ấy bỏ mất!”

Khi Thiện-Hiền đem những việc ấy can vua, vua Đại-Thiện-Kiến nghe lời nói ấy, đáp rằng: “Trước sau nàng thường đem việc thiện khuyên can ta, nhưng, nay ta nghe nàng nói, thấy trái với ý trước!”

Bấy giờ, Thiện-Hiền nghe nhà vua dạy lời ấy, tâm sinh áo-não, sa-lệ nghĩ rằng: “Vừa đây ta sở-dĩ can nhà vua, chính là sở-kiến của ta, cho là đắc-trung (hợp trung-đạo), không ngờ lại sinh ra tội-lỗi!”

Nàng liền từ tòa ngồi của mình đứng dậy, đỉnh-lễ xuống chân vua và tâu rằng: “Nay con ngu-si không biết chính-lý, đem việc ấy lên khuyên-can lên bậc trên, kính xin Đại-vương, cho được sám-hối!” [16]

Khi ấy, vua Đại-Thiện-Kiến đáp nàng Thiện-Hiền rằng: “Hết thảy mọi hành-tướng, đều là vô-thường, ân-ái hội-hợp cũng phải biệt-ly; bốn thiên-hạ này tuy là đông-đảo, hưng-thịnh, không bao lâu nữa ta cũng sẽ bỏ đi. Xưa kia, tám vạn bốn nghìn năm ta làm đứa anh-nhi, tám vạn bốn nghìn năm ta làm đồng-tử, tám vạn bốn nghìn năm ta làm ngôi Thái-Tử chịu phép quán-đỉnh [17], tám vạn bốn nghìn năm lên ngôi vua chịu phép quán-đỉnh, sau được thành Chuyển-luân-thánh-vương, cai-trị bốn phương thiên-hạ, đầy đủ thất-bảo, tám vạn bốn nghìn năm thống-lý việc dân, tám vạn bốn nghìn năm vì các nhân-dân giảng-thuyết mọi pháp, tám vạn bốn nghìn năm ngồi thiền suy-nghĩ. Từ đấy đến nay là năm mươi tám vạn bốn nghìn năm. Tuy rằng thọ-mệnh như thế là lâu dài, nhưng, hội-hợp rồi cũng đều về chỗ hết. Nay ta đã già, giờ chết sắp đến; các vua thuở xưa, sự tôn-quý và khoái-lạc, cũng như ta không khác, song, cũng bị đổi-dời về nơi vô-thường. Thành Cưu-thi-bà-đế cùng tám vạn bốn nghìn thành lớn khác, có hội-hợp cũng có lúc tan-diệt. Vậy, không nên đối với những thành ấy, riêng sinh yêu-mến, ham-đắm, tăng thêm tâm buông-lung. Nay ta sở-dĩ được sự tôn-thắng này, đều do xưa kia ta tích-góp mọi nghiệp thiện. Nay cần trồng nhiều thiện-căn, tạo nhân mai sau, nên ta ngồi thiền trải nhiều năm như vậy!”

Lúc đó, Thiện-Hiền cùng mọi người nghe, nghe nhà vua nói lời ấy, tâm rất vui mừng, đỉnh-lễ xuống chân vua và lui về chỗ ở.

Như thế, không lâu nhà vua bị bệnh nặng, tự biết mệnh-tận, tức lập Thái-Tử lên làm vua; tập-họp các đại-thần cùng Bà-la-môn, trưởng-giả, cư-sĩ lại, lấy nước bốn bể rưới lên đầu Thái-Tử. Sự việc xong-xuôi, nhà vua liền mất và được sinh lên cõi Phạm-thiên.

Ông A-Nan! Vua Đại-Thiện-Kiến, cai-trị tứ thiên-hạ, mà nơi ở của nhà vua, chỉ ở một thành lớn trong cõi Diêm-phù-đề; tuy có tám vạn bốn nghìn thành, nhưng chỗ ở của nhà vua, chỉ một thành Cưu-thi-bà-đế này thôi. Trong Tuyết-sơn có tám vạn bốn nghìn con voi trắng quý-báu, nhưng nhà vua cưỡi bất quá cũng chỉ một con. Tuy có tám vạn bốn nghìn con ngựa tốt nhưng, nhà vua cưỡi bất quá cũng chỉ một con. Tuy có tám vạn bốn nghìn xe thất-bảo, mà nhà vua thường đi, bất quá cũng chỉ một cỗ. Tuy có tám vạn bốn nghìn phu-nhân, nhà vua thương yêu, chỉ có một người. Tuy trang-sức bảo-điện đến tám vạn bốn nghìn cái, nhưng, nơi ở của nhà vua, bất quá chỉ một nhà. Sự cần dùng của tấm thân, no đủ mà thôi! Thế mà nhà vua phải lo công việc cho bốn phương, buộc lòng vào công việc của chúng-sinh, luống mệt tinh-thần, thân không ích gì như thế!”

Ông A-Nan! Vua Đại-Thiện-Kiến, khi ấy, há là người khác ư, chính là thân Tôi vậy!

Xưa kia Tôi được sự tôn-quý ấy và quốc-thành tôi ở tức tại nơi đây. Tôi ở thành này làm Chuyển-luân-vương, thực-hành những việc thành-tựu lợi-ích vô-lượng chúng-sinh, không thể nào tính kể được. Nay chư Thiên tới chật-ních hư-không, đều là những người xưa kia khi Tôi làm vua đem những pháp lành giáo-hóa mà thành. Và, ngày nay tất cả pháp tại thành này, trông thấy tôi nhập Niết-Bàn, sẽ đem lại cho họ được quả Bát-Niết-Bàn.

Ông A-Nan! Sự việc như thế, ông sao có thể nói được là thành Cưu-thi-na này là biên-địa nhỏ hẹp ư? Nay Tôi quyết-định nhập Niết-Bàn tại thành này!”

Đương khi Như-Lai nói về việc ấy, chư Thiên, Nhân số hàng ức ức người, ở trong mọi pháp, xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh, tức thời cùng nhau đồng thanh bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Trong kiếp vô-số, vô-lượng vô-biên xưa kia, Thế-Tôn đem mọi pháp lành, làm lợi-ích cho chúng con, nay lại ở nơi này, Ngài lấy sự vui của Bát-Niết-Bàn an-lập cho chúng con!” Bạch rồi, họ liền rải những hoa quý, cùng tấu những âm-nhạc cõi thiên, ca-hát tán-thán, cúng-dàng Như-Lai.

Bấy giờ, Ông A-Nan bạch Phật rằng: “Lạ-lùng thay, lạy đức Thế-Tôn! Thành Cưu-thi-na này, thuở quá-khứ đã có những việc lạ-lùng ấy, nay con không còn sinh tâm thắc-mắc hẹp-hòi nữa!”

TOÁT-YẾU

Sau khi được đức Phật an-ủi, tâm ông A-Nan dần nguôi sự buồn-rầu, ông liền bạch Phật, thỉnh Phật nên về những thành to-lớn khác, nhập Niết-Bàn, nơi Cưu-thi-na này nhỏ hẹp và biên-địa quá!

Đức Phật bảo ông A-Nan: “Ông không nên thỉnh Tôi thế! Ông chưa biết sự tốt đẹp của thành này xưa kia, Tôi sẽ nói rõ cho ông hiểu:

Thành này xưa kia gọi là thành Cưu-thi-bà-đế do Chuyển-luân-thánh-vương tên là Đại-Thiện-Kiến ngự-trị.

Thành này cao rộng, cung-điện, nhà, cửa, đường xá, hồ ao, cây cối… đều xây-cất và trang-nghiêm bằng thất-bảo. Nhân-dân thuần-thiện, sống lâu vui-vẻ, sung-sướng…, vì nhà vua hoàn-toàn chỉ đem chính-pháp giáo-hóa cai-trị.

Tuy vậy, theo sự nhu-cầu của thần-dân thường thường lui tới, thời thành này vẫn còn chật. Do đó, một thời nhà vua muốn mỏ rộng cung-thành, tự-nhiên được Tỳ-thủ-kiến-ma thiên-tử xuống kiến-thiết giúp.

Công việc kiến-thiết xong-xuôi, nhà vua xướng-lệnh, mở cửa Thuyết-pháp-điện thuyết nhiều pháp-lợi, nhiều người nghe pháp chứng-ngộ.

Sau đấy, nhà vua tự nghĩ: “Ta được như vầy, do trước đây ta làm nghiệp thiện, nay ta cần tu-tiến hơn nữa!” Nhà vua tu Thiền và dạy các phu-nhân, thể-nữ cùng tu.

Qua thời-gian khá lâu, ngọc-nữ Thiện-Hiền cùng các phu-nhân khuyên nhà vua nên đi kinh-lý khắp nơi để giáo-hóa nhân-dân. Nhà vua từ chối và nói: “Ta từ khi còn anh-nhi, lúc đồng-tử, lúc làm Thái-Tử, lúc làm vua, sau thành Chuyển-luân-thánh-vương, cai-trị tứ thiên-hạ, lúc giảng pháp cho nhân-dân, lúc ngồi Thiền, tất cả tới nay đã 584.000 năm, kể ra cũng lâu lắm rồi. Song, “sự-vật đều vô-thường, ân-ái phải biệt-ly.” Vì vậy, ta không yêu-mến, ham-đắm; cần trồng nhiều thiện-căn, tạo nhân mai sau mà thôi!”

Như thế, không lâu nhà vua bị bệnh, truyền ngôi cho Thái-Tử rồi mất, sinh lên cõi Phạm-thiên.

Ông A-Nan! Vua Đại-Thiện-Kiến xưa kia có cung-thành, voi ngựa, xe-cộ, phu-nhân… mỗi đằng đến 84.000, thế mà nhà vua cũng chỉ dùng đến “một” mà thôi. Sự cần-dùng của tấm thân, chỉ no đủ thế mà nhà vua phải lo công việc cho 4 phương, buộc lòng vào công việc chúng-sinh, mệt tinh-thần.

Ông A-Nan! Vua Đại-Thiện-Kiến xưa kia, nay là thân Tôi vậy. Xưa kia Tôi ở nơi đây, làm công việc thành-tựu cho chúng-sinh không thể kể xiết được như vậy, há lại cho rằng nơi đây là nhỏ hẹp, biên-địa ư? Tôi quyết-định nhập Niết-Bàn tại thành này!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10250)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12234)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11528)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28682)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11927)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12900)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11341)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12257)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17278)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52696)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35368)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21213)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10587)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19088)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12306)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13209)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14271)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15957)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13627)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16712)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17402)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12434)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11522)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11472)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20259)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18815)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19420)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12101)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12189)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13742)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14887)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13861)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15421)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11297)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17018)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20042)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13748)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11630)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14936)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12884)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22750)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14475)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11543)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16776)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18239)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11858)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11412)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15714)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18784)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18260)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant