Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Đạt Lai Lạt Ma: Vấn đáp về đấng tạo hóa

14 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 20085)
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Vấn đáp về đấng tạo hóa

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: VẤN ĐÁP VỀ ĐẤNG TẠO HÓA
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữTuệ Uyển – 08/05/2011

blankHỎINgài đã từng nói rằng theo triết lý Đạo Phật không có đấng Tạo Hóa, không có Thượng Đế tạo dựng, và điều này có thể bắt đầu làm cho nhiều người chấm dứt niềm tin trong quan kiến thiêng liêng. Ngài có thể giải thích sự khác biệt giữa Đức Phật Nguyên Sơ Kim Cương Thừa và một Thượng Đế Tạo Hóa không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi thấu hiểu Đức Phật Nguyên Sơ, cũng được biết như Đức Phật Phổ Hiền, là thực tại tối hậu, thế giới của Pháp Thânkhông gian của tính không – nơi mà tất cả mọi hiện tượng, thanh tịnhnhiễm ô, là hòa tan. Đây là sự giải thích được dạy bởi Kinh điểnMật điển. Tuy nhiên, trong phạm vi câu hỏi này, chỉ truyền thống mật tông tantra giải thích Pháp Thân trong dạng thức của Linh quang bản nhiên, (hay tịnh quang bản nhiên), bản chất tối hậu của tâm; điều này dường như bao hàm tất cả mọi hiện tượng, luân hồiniết bàn, sinh khởi từ cội nguồn trong suốt và rực rở này. Ngay cả Tân Phái Diễn Dịch cũng đã đi đến kết luận rằng “thể trạng giải thoát” của một hành giả Đại Du Già – Đại Du Già bao hàm ở đây là thể trạng của hành giả đã đạt đến tầng bậc trong thiền quán nơi mà những kinh nghiệm vi tế nhất của linh quang đã được thân chứng – mà điều ấy cho đến khi nào hành giả tiếp tục trong không gian căn bản này người ấy sẽ duy trì sự tự do hoàn toàn khỏi bất cứ ngăn che chướng ngại nào của tâm, và chìm sâu trong thể trạng của đại lạc.

Do thế, chúng tôi có thể nói rằng, cội nguồn căn bản ấy, linh quang, là gần với khái niệm Đấng Tạo Hóa, vì tất cả mọi hiện tượng, cho dù chúng thuộc luân hồi hay niết bàn, đều phát khởi từ trong ấy. Nhưng chúng tôi phải hết sức cẩn thận trong việc nói về cội nguồn này, chúng tôi không được dẫn vào trong sai lầm. Tôi không muốn nói rằng có một sự hiện hữu ở nơi nào đấy, như là ở đấy, có một loại linh quang tập hợp, tương tự khái niệm không phải Phật Giáo về Phạm thiên như một nền tảng. Chúng tôi không được thần tượng, sùng bái không gian rực rỡ này. Chúng tôi phải thấu hiểu rằng khi chúng tôi nói về linh quang tối hậu hay cố hữu, là chúng tôi đang nói trên một mức độ cá nhân[1].

Giống như thế, khi chúng tôi nói về nghiệp báo như nguyên nhân của vũ trụ, chúng tôi loại trừ khái niệm của một tổng thể đặc thù gọi là nghiệp tồn tại một cách hoàn toàn độc lập. Đúng hơn, những dấu vết nghiệp tập thể - cộng nghiệp, và nghiệp cá thể - biệt nghiệp, là nguyên nhân ban sơ của việc hình thành nên một thế giới. Trong phạm vi mật tông, khi chúng tôi nói rằng tất cả các thế giới xuất hiện ra từ linh quang, chúng tôi không quán tưởng cội nguồn này như một thực thể đặc thù, mà như linh quang tối hậu của mỗi chúng sinhChúng tôi cũng có thể, trên căn bản của sự thanh tịnh cốt yếu của nó, thấu hiểu rằng linh quang này là Đức Phật Nguyên Sơ. Mọi tầng bậc tạo nên sự sống của mỗi chúng sinh – chết, trung ấm thân, và tái sinhđại diện không gì hơn sự biểu hiện đa dạng năng lực của linh quang. Nó là cả tâm thứcnăng lượng vi tế nhất. Linh quang càng mất sự vi tế của nó bao nhiêu, chúng ta tiếp nhận những kinh nghiệm biểu lộ sự định hình càng thô thiển hơn bấy nhiêu.

Trong cách này, chết và trung ấm thân là những thời khắc nơi mà những biểu lộ thô thiển bắt nguồn từ linh quang được tái hòa tan. Vào lúc chết, chúng ta trở lại cội nguồn nguyên sơ, và từ đấy có một thể trạng hơi thô thiển hơn nổi lên để hình thành trạng thái trung ấm trước khi tái sinh. Tại trạng thái tái sinh, linh quang hiển hiện trong sự hóa thân vật lý. Vào lúc chết chúng ta trở lại nguồn cội này. Và tiếp diễn như thế. Khả năng để thực chứng linh quang, cũng gọi là Đức Phật Nguyên Sơ, tương đương với sự thân chứng niết bàn, trái lại bản chất vô minh si ám khiến chúng ta lang thang vần xoay trong những thế giới khác nhau của vòng luân hồi sinh tử (gồm sáu cõi là địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, người, a tu la, và cõi thiên).

Đây là việc chúng tôi hiểu khái niệm Đức Phật Nguyên Sơ như thế nào. Sẽ là một sai lầm nghiêm trọng, nếu nhận thức điều này như một sự hiện hữu độc lập và tách biệt với sự không có bắt đầu của thời gian (vô thủy). Nếu chúng ta đã phải chấp nhận khái niệm của một tạo hóa độc lập, những giải thích trong Thích Lượng Luận, “Tóm Lược Những Tri Thức Vững Chắc” của Pháp Xứng, và trong chương thứ chín tác phẩm của Tịch Thiên, đã hoàn toàn bác bỏ sự tự tồn tại của tất cả mọi hiện tượng, sẽ bị phủ nhận. Đến lượt điều này sẽ bác bỏ khái niệm Đức Phật Nguyên Sơ. Quan điểm của Đạo Phật không chấp nhận những giá trị xác định không đứng vững trên sự thẩm tra hợp lý. Nếu một kinh điển diễn tả Đức Phật Nguyên Sơ như một thực thể độc lập, thì chúng ta phài có thể làm sáng tỏ sự thừa nhận này mà không cần phải chấp nhận nó một cách lý thuyết. Chúng ta gọi loại kinh điển này là kinh điển “có thể giải thích được” (kinh bất liễu nghĩa).

HỎIQuan tâm trong những khám phá của vật lý học thiên thể hiện đại và thuyết vụ nổ lớn “Big bang” khơi mở cả một sự hấp dẫn lớn trong vũ trụ và một cuộc thăm dò điều tra bởi những thành viên trong thế hệ của chúng ta về cội nguồn của họ, số phận của họ, và ý nghĩa sự tồn tại của họ. Thuyết “Big bang”đã có một tác động nổi bật trong cung cách nhìn vào vấn đềbản chất tự nhiên; nó đã giới thiệu những sáng kiến nhận thức mới đáng kể. Sự hình thành những cấu trúc của vũ trụ, với sự thể hiện chức năng phụ thuộc tương liên (duyên sinh), và với sự nghiên cứu tiếp tục để khơi mở, dường như là một cội nguồn bất tận của kỳ diệu. Giống như tất cả những truyền thống tâm linh, Đạo Phật chuyển tải một sự huyền bí vũ trụ. Tuy nhiên, Đạo Phật phủ nhận quan điểm về đấng tạo hóa. Tại sao?

Hầu hết các nhà khoa học phương Tây nghĩ rằng sự sống và tâm thức là một kết quả diệu kỳ của sự tiến hóa vật chất của vũ trụ, và tuy thế họ không biết làm thế nào cũng như không biết tại sao vấn đề nảy ra trong một cung cách như vậy lại hoàn thành những điều kiện cần thiết để làm nên sự sống và tâm thức. Những gì người ta biết là những điều kiện này rất là nghiêm ngặt, tuy thế đã hoàn tất trong vũ trụ của chúng ta trong một cung cách không thể tưởng tượng nổi. Ngài có một quan điểm rất khác biệt với đề tài này. Do vậy, ngài có thể vui lòng nói với chúng tôi về tâm thức trong sự liên hệ của nó với vật chấtvũ trụ không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tại sao không thể có sự sáng thế trong Đạo Phật? Như được nói rằng người ta không thể tìm thấy chúng sinh trong sự hình thành vũ trụ vì một lý do căn bản rằng những nguyên nhân không có sự bắt đầu (vô thỉ). Nếu có sự bắt đầu của vũ trụ, cũng sẽ có sự bắt đầu của tâm thức. Nếu chúng ta chấp nhận một sự bắt đầu của tâm thức, chúng ta cũng phải chấp nhận rằng nguyên nhân của nó có một sự khởi đầu, một nguyên nhân đột khởi sản sinh tâm thức; điều này sẽ đưa đến nhiều câu hỏi to lớn khác. Nếu tâm thức đã sinh khởi mà không có nguyên nhân, hay từ một nguyên nhân thường còn, nguyên nhân ấy sẽ phải tồn tại trên một căn bản thường hằng, luôn luôn, hay hoàn toàn không hiện hữu, mãi mãi. Thực tế rằng một hiện tượng tồn tại từng thời điểm chứng tỏ rằng nó tùy thuộc trên nhân duyên (nguyên nhânđiều kiện). Khi tất cả mọi điều kiện được gặp gỡ, hiện tượng được sản sinh. Khi nhưng nguyên nhân đó vắng mặt hay không hoàn toàn, hiện tượng sẽ không xuất hiện. Như những nguyên nhân không có bắt đầu và trải ngược đến vô cùng, điều giống như thế cũng áp dụng cho chúng sinh. Sự sáng thế của tạo hóa vì thế không thể đứng vững.

Bây giờ hãy đề chúng ta lưu tâm đến một hiện tượng đặc thù, thí dụ một sông băng (glacier): nó thật sự có sự bắt đầu. Nó được tạo ra như thế nào? Thế giới bên ngoài xuất hiện như một kết quả của những hành vi của chúng sinh sử dụng thế giới này. Những hành vi này, hay nghiệp báo, lần lượt sinh khởi trong những khuynh hướng và động cơ của những chúng sinh ấy, những kẻ chưa nắm lấy được sự kiểm soát tâm thức của chính họ.

“Đấng tạo hóa của thế giới”, một cách căn bản, là tâm thức. Trong kinh điển, tâm thức được diễn tả như một tác nhân. Trong ấy nói rằng, tâm thức không có sự khởi đầu, nhưng chúng ta phải phân biệt ở đây giữa tâm thức thô và tâm thức vi tế. Nhiều tâm thức thô xuất hiện phụ thuộc trên những tập họp uẩn vật lý, của thân thể. Đây là bằng chứng khi chúng ta lưu tâm đến những thần kinh khác biệt và chức năng của não bộ, nhưng chỉ vì những điều kiện vật lý được thấy không có nghĩa là điều này đủ để sản sinh một nhận thức. Nhằm để cho một nhận thức là điều sẽ có năng lực để phản chiếu và biết một đối tượng sinh khởi, nó phải có một nguyên nhân có cùng thể chấtNguyên nhân có cùng thể chất nền tảng, của cùng vật chất như kết quả của nó, trong trường hợp này sẽ là tâm thức vi tế. Đấy là tâm thức giống nhau này hay tâm vi tế mà chính nó sẽ thâm nhập những tế bào của cha mẹ tại thời khắc thụ thai. Tâm vi tếthể không có sự bắt đầu. Nếu nó có một sự bắt đầu, tâm thức sẽ phải được sinh ra với điều gì đấy không phải là tâm thức. Theo mật điển Thời Luân (Kalachakra Tantra), người ta phải ngược về những hạt không gian (vi trần) để tìm ra những nguyên nhân căn bản cùng thể chất cua thế giới vật lý ngoại tại cũng như của thân thể chúng sinh.

Vũ trụ học Phật Giáo thiết lập chu trình của vũ trụ trong cung cách sau đây: đầu tiên có một thời điểm cấu tạo (thành), rồi có thời gianvũ trụ tồn tại (trụ), rồi một thời gian khác mà nó bị phá hủy (hoại), theo sau bởi một thời điểm của trống rỗng (không) trước khi cấu tạo một vũ trụ mới. Suốt thời gian của sự trỗng rỗng này, hạt không gian tồn tại, và từ những hạt không gian này một vũ trụ mới sẽ được hình thành. Chính trong những hạt không gian này chúng ta thấy nguyên nhân nền tảng cùng thể chất của toàn thể thế giới vật lý. Nếu chúng ta muốn diễn tả cấu tạo của vũ trụthân thể vật lý của con người, tất cả chúng ta cần làm là phân tích và thấu hiểu cung cách mà trong ấy khả năng tự nhiên của của những hóa chất khác nhau và những yếu tố khác cấu thành vũ trụ ấy đã có thể tạo hình từ những hạt không gian này. Trên căn bản khả năng đặc thù của những hạt này mà cấu trúc của vũ trụ này và của thân thể con người hiện diện trong ấy đã xảy ra. Nhưng từ thời khắc mà những yếu tố tạo thành thế giới bắt đầu làm rõ lên những kinh nghiệm khác nhau của khổ đau và hạnh phúc trong những chúng sinh, chúng ta phải giới thiệu khái niệm nghiệp báo – đấy là, những hành vi tích cựctiêu cực đã diễn ra và tích tập trong quá khứ. Thật khó để mà quyết đoán nơi nào mà những biểu hiện tự nhiên khả năng của những yếu tố vật lý chấm dứttác động của nghiệp báo bắt đầu – nói cách khác, kết quả những hành vi quá khứ của chúng ta – Nếu chúng ta tự hỏi mối liên hệ gì có thể có giữa nghiệp báo và môi trường ngoại tại này được hình thành bởi những định luật tự nhiên, thì đấy là lúc để giải thích nghiệp báo là gì.

Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần của là ý chí hay chủ tâm (ý). Cũng hiện hữu những nghiệp báo thân thể (thân) và lời nói (khẩu). Để thấu hiểu mối liên hệ giữa những nghiệp báo thân, miệng và ý này cùng thế giới vật chất, chúng ta phải liên hệ đến mật điển tantra. Mật điển Thời Luân đặc biệt giải thích rằng, trong thân thể chúng ta có thể được tìm thấy tại những mức độ thô, vi tế, và cực kỳ vi tế, năm yếu tố tạo nên vật chất của thế giới ngoại tại. Vì thế, trong phạm vi này, tôi tin rằng, chúng ta phải hình dung ra sự nối kết giữa nghiệp báo thân, miệng và ý cùng những yếu tố ngoại tại

The material on this page has been collected from the recent book, "Beyond Dogma: The Challenge of the Modern World", (c) 1996 North Atlantic Books, translated by Alison Anderson and Marianne Dresser from talks given during His Holiness's visit to France end 1993. 
E-MAIL: All enquiries, comments and suggestions welcome.

Philosophical questions on Creation
http://hhdl.dharmakara.net/hhdlquotes22.html
Ẩn Tâm Lộ ngày 12/05/2011

 


[1] Sự ngộ đạo, tu đạochứng đạo của mỗi cá nhân.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14766)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11834)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12767)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10350)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12070)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15299)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11089)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10543)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12480)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16430)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14316)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11793)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14813)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12034)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16861)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11593)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12739)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11348)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12065)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52150)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15472)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13972)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13186)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12791)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13226)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17921)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12456)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12657)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54215)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14433)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57987)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14509)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20148)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13794)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15409)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17498)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13315)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11936)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13494)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14674)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12495)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12158)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12066)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13292)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12546)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13668)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13325)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25606)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12182)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14560)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11866)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28352)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38814)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14725)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12704)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16243)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant