Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 17 - Phân biệt công đức

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 8800)
Phẩm 17 - Phân biệt công đức

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

Phẩm 17: PHÂN-BIỆT-CÔNG-ĐỨC

Khi đó, Thế Tôn bảo Bồ-tát Di Lặc: “Này A-dật-đa! Lúc ta nói về thọ mạng lâu dài của Như Lai, thì có:

· Sáu trăm tám muôn ức na-do-tha Hằng sa chúng sanh được “Vô sanh pháp nhẫn”.

· Một số đại Bồ-tát ngàn lần gấp đôi được môn “văn trì đà-la-ni”.

· Một số đại Bồ-tát đông như một thế giới vi trần được “nhạo thuyết vô ngại biện tài”.

· Một số đại Bồ-tát đông như một thế giới vi trần được trăm ngàn muôn ức vô lượng môn “triền đà-la-ni”.

· Một số đại Bồ-tát đông như vi trần của tam thiên đại thiên thế giới chuyển được “pháp luân bất thối”.

· Một số đại Bồ-tát đông như vi trần của nhị thiên quốc độ chuyển được “ pháp luân thanh tịnh”

· Một số đại Bồ-tát đông như vi trần của tiểu thiên quốc độ, trong 8 đời tái sanh, sẽ được “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”

· Một số đại Bồ-tát nhiều như vi trần của bốn tứ thiên hạ, trong bốn đời tái sanh, sẽ được “Chánh Đẳng Chánh Giác”

· Một số đại Bồ-tát nhiều như vi trần của ba tứ thiên hạ, trong ba đời tái sanh, sẽ được “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”

· Một số đại Bồ-tát nhiều như vi trần của hai tứ thiên hạ, trong hai đời tái sanh, sẽ được “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”

· Một số đại Bồ-tát nhiều như vi trần của một tứ thiên hạ, trong một đời tái sanh, sẽ được “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”

· Một số chúng sanh nhiều như vi trần của tam thế giới, đều phát tâm “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”

Đức Phật nói xong, một trận mưa hoa báu từ hư không rơi xuống trên vô lượng trăm ngàn muôn ức Phật ngồi trên toà sư tử, dưới cội cây báu, trên đức Phật Thích Cađức Phật Đa Bảo đang ngồi trong tháp bảy báu, và trên tất cả Bồ-tát và bốn bộ chúng. Lại có trận mưa hương bột chiên đàn, hương trầm thuỷ, và trống trời tự vang. Lại có trận mưa thiên y và trên không thòng xuống các thứ chuỗi ngọc, các lò hương báu đốt hương vô giá để cúng dường đại chúng.

Trên mỗi đức Phật có các Bồ tát tay cầm phan lọng, trước sau lên đến trời Phạm-thiên, dùng âm thanh vi diệu, ca vô lượng bài kệ tán thán chư Phật.

Khi ấy Bồ-tát Di Lặc đứng dậy lễ Phật rồi nói một bài kệ nhắc lại và xưng tụng những lời Phật vừa dạy.

Bồ-tát Di Lặc nói kệ xong, Phật nói: “Này A-dật-đa! Chúng sanh nào nghe Phật thọ mạng lâu dài như thế mà chỉ sanh được một niềm tin tưởng, thì đặng công đức không thể hạn lượng. Công đức này lớn lao cho đến nỗi đem công đức tu 5 Ba-la-mật đầu (Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định) trong 80 muôn ức na-do-tha kiếp ra so sánh thì trong muôn ức ngàn phần công đức tu Ba-la-mật không kịp một. Lại nữa ai được công đức tin tưởng như trên thì không bao giờ thối bước trên đường dẫn đến Chánh Giác.

Sau khi nói một bài kệ lập lại ý trên, đức Phật nói tiếp: “Này A-dật-đa! Người nào nghe nói về thọ mạng lâu dài của Phật mà hiểu được cái ý thú trong lời nói đó, thì người ấy được công đức vô lượng, lại có thể phát khởi trí tuệ vô thượng của Như Lai. Huống là người hiểu rộng nghe nhiều về kinh Pháp Hoa, hoặc bảo người nghe hoặc tự thọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, hoặc dùng mọi thứ hương hoacúng dường kinh. Ngừơi ấy đặng công đức vô biên có thể sanh “nhất thiết chủng trí”.

“ Này A-dật-đa! Còn thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe ta nói mà sanh lòng tin hiểu chắc về thọ mạng lâu dài của Phật, thì người ấy ắt thấy Phật thường trụ tại Kỳ-xá-quật nói Pháp cho các Đại Bồ-tát và Thanh Văn vây quanh nghe. Chẳng những thế mà còn thấy đất cõi Ta-bà bằng lưu ly, mặt liền bằng thẳng, tám nẻo rào bằng dây vàng ròng, bảy cây báu và lâu đài cũng đều bằng bảy báu họp thành, trong có Bồ-tát ở. Ai mà quán tưởng được như thế, thì nên biết đó là biểu hiện của một lòng tin tường sâu sắc.”

“ Lại nữa, sau khi Phật diệt độ, ai nghe kinh này mà không chê bai, sanh lòng tuỳ hỉ, thì đó cũng là biểu hiện của một lòng tin hiểu sâu chắc. Còn đi đọc, tụng, lãnh, giữ kinh này, thì người đó đầu đội Như Lai.”

“ Này A-dật-đa! Tin hiểu được như thế, thì không cần vì ta mà dựng chùa tháp, cũng không cần cất tăng phường và dùng “tứ sự” cúng dường chúng tăng. Vì sao? Vì thọ trì, đọc, tụng được kinh này là đã dựng tháp, tạo lập tăng phường, là đã dùng hương hoa, chuỗi ngọc, tràn phan, kỹ nhạc… tán thán chư Phật trong muôn ngàn ức kiếp rồi.”

“ Này A-dật-đa ! Thọ, trì, đọc, tụng kinh này được công đức như thế, hà huống còn tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ, thì công đức này không còn gì hơn”

“ Nếu thọ trì, đọc tụng kinh này mà còn tạo tháp, xây dựng tăng phường, cúng dường, khen ngợi chúng Thanh Văn và Bồ-tát, hoặc giải nói Kinh Pháp Hoa rồi còn thanh tịnh trì giới, nhẫn nhục, quí việc ngồi thiền, tinh tấn mạnh mẽ, căn lành trí sáng, thì đó là những người đã đến Đạo tràng, gần ngồi dưới cội cây Đạo để chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”

Tới đây, đức Phật nói một bài kệ nhắc lại ý trên.
 
 

THÂM NGHĨA

Diệu Pháp Liên Hoa kinh được liệt vào hệ tư tưởng tối thượng thừa trong Phật giáo. Các nhà Phật học uyên thâm còn phê phán: Tư tưởng Pháp Hoa vị trí của nó không những ở vào Đại Thừa Viên Giáo mà còn siêu viên giáo nữa. Đấy là hệ tư tưởng vòi vọi: “Độc diệu thuần viên”. Thế mà tiểu đề của phẩm kinh này lại là Phân biệt công đức. Nếu là thức giả, nghe bằng nhỉ căn đượm ướt giáo lý Bát Nhã không tôn, đáng chẳng nghĩ ngợi lắm sao?

Xin đáp: Phân biệt để không còn gì phân biệt. Phân biệt để chỉ con đường thẳng tắt, để dẫn đến mục đích cứu cánh cuối cùng, để hết đi, hết đến, hết làm, để “rồi” tất cả. Phân biệt công đức ở đây là nhằm mục tiêu đó.

Vậy phân biệt công đứccông đức gì?

- Công đức về vấn đề Thọ Mệnh Như Lai ấy. Phật nói về Thọ Mệnh Như Lai, vậy có thể hiểu và tin nổi hay không? Phẩm phân biệt, phân biệt rằng: Hiểu ít thì lợi nhỏ, hiểu vừa thì lợi vừa, hiểu nhiều lợi lớn, hiểu kỹ quả vị cao, hiểu sâu giải thoát trọn vẹn, hiểu đúng giác ngộ hoàn toàn, thường thọ dụng vật chất của mình, ở trong đó kinh hành và nằm ngồi trong lòng Phật:

Phật tử trị thử địa

Thị tắc Phật thọ dụng

Thượng tại ư kỳ trung

Kinh hành cập toạ ngoạ…

Sau khi được nghe về Thọ Mệnh Như Lai , đại chúng tuỳ căn tánh để thể nhậpphát khởi lòng tin. Kết quả, đức Phật cho biết có:

· Sáu trăm muôn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sanh được vô sanh pháp nhẫn

· Bội hơn nghìn lần Đại Bồ-Tát, được môn Văn trì đà-la-ni

· Nhiều như vi trần của một thế giới Đại Bồ-tát, được nhạo thuyết vô ngại biện tài.

· Nhiều như vi trần của một thế giới Đại Bồ-tát được vô lượng môn đà-la-ni.

· Nhiều như vi trần của tam thiên đại thiên thế giới Bồ-tát, chuyển được pháp luân bất thối.

· Nhiều như vi trần của nhị thiên quốc độ Đại Bồ-tát, chuyển được pháp luân thanh tịnh.

· Nhiều như vi trần của tiểu thiên quốc độ Đại Bồ-tát tám đời, sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

· Nhiều như vi trần của bốn tứ thiên hạ Đại Bồ-tát, bốn đời sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

· Nhiều như vi trần của hai tứ thiên hạ Đại Bồ-tát, hai đời sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

· Nhiều như vi trần của một tứ thiên hạ Đại Bồ-tát, một đời sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

· Nhiều như vi trần của tám thế giới chúng sanh, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Phật vừa nêu kết quả lớn lao trên, tức thì một trận mưa hoa, mưa hương báu từ không trung rơi xuống cúng dường vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật ngồi ở toà sư tử dưới cội cây báu. Thích CaĐa Bảo Như Lai ngồi trong tháp báu, cùng có vô lượng Bồ-tát và tứ chúng đông vây. Các Bồ-tát cầm phan lọng, dùng âm thanh vi diệu ca ngâm vô lượng bài kệ tán thán chư Phật…

Như ta thấy, đại chúng nghe Thọ Mệnh Như Lai, tuỳ tin hiểu, kết quả đã lớn lao. Phật nói lại cái kết quả lớn lao kia kết quả còn lớn lao hơn nữa. Sự cúng dường: mưa hoa, mưa hương, mưa thiên y, mưa trầm thuỷ, chiên đàn, chuỗi ngọc, trỗi kỹ nhạc, âm thanh tán thán… Cho ta thấy ai nghe hiểu được Như Lai Thọ Mệnh, người đó sẽ hiểu được Như Lai thường trụ trong thời gian vô tận, không gian vô cùng. Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai , không còn là vấn đề “khác ông”, “khác Phật” nữa. Một Phật có đủ 3 đời Phật. Ba đời Phật ở trong một Phật. Cho nên một thời cúng dường. Chỉ một thời thôi đủ cả tam thế Phật: Quá Khứ (Đa Bảo), Hiện Tại (Thích Ca), Vị Lai (Bồ-tát và tứ chúng).

Phân biệt công đức để chỉ cho chúng sanh, cho Phật tử về cái nhận thức, cái hiểu, cái tin đúng chánh pháp, đúng chân lý sẽ đem lại kết quả vô cùng to lớn như vậy. Ngoài ra còn những công đức cũng cần phân biệt sau:

· Công đức của người nghe rồi sanh một niềm tin hiểu.

· Công đức nghe mà hiểu ý thú lời nói của Phật.

· Công đức của người nghe rồi sanh lòng tin sâu hiểu chắc.

· Công đức của người nghe rồi tuỳ hỉ sau Như Lai diệt độ.

Nghe thọ mệnh Phật mà tin hiểu cũng không thối thất đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh GiácCông đức của người tu năm độ trước của lục độ, trải qua vô lượng đời, nhưng so với công đức của người tin hiểu thọ mệnh Như Lai thì không bằng một phần tỷ, cho đến không tỷ lệ được. Tại sao vậy? Tại vì chưa có tuệ. Không có tuệ thì cách Phật còn xa. Còn người tin hiểu Thọ mệnh Như Lai là mầm trí tuệ đã nẩy nở rồi, cho nên công đức lớn.

Nghe Thọ mệnh Như Laihiểu ý thú, người này có thể sanh trí tuệ Như Lai vô thượng. Nếu thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói cúng dường kinh, có thể sanh Nhất thiết chủng trí.

Hiểu thế nào thì được gọi là hiểu ý thú? Hiểu ý thú là hiểu rằng: Như LaiNhư Lai Viên Giác Diệu Tâm. Tâm đó tuỳ duyên bất biến, bất biến tuỳ duyên, là tâm mầu nhiệm, tròn đầy giác ngộ. Thọ lượng của nó thì vô thỉ vô chung, vì không sanh không diệt. Nói thọ lượng Như Lai kỳ thật chính là nói thọ lượng của tâm. Tâm đó lại là tâm vốn có của tất cả chúng sanh. Cũng có thể gọi nó là Phật tri kiến, là thường trụ chơn tâmPhật tánhBát Nhã thật tướng của mọi ngườiHiểu ý thú như vậy rồi… thì… chợt thấy rằng: Ta là Phật! Phật ở lòng ta! Bấy giờ trí tuệ Như Lai Vô ThượngNhất thiết chủng trí đồng một thời sanh đầy đủ ở nơi ta vậy.

Nghe Thọ mệnh Như Lai sanh lòng tin hiểu chắc thì người đó thấy Phật thường ở núi Kỳ-xà-quật cùng chúng Bồ-tát Thanh Văn nói pháp. Lại thấy cõi Ta-bà không ô uế nữa. Đất bằng lưu ly, câu báu ngang hàng, lâu đài báu nguy nga. Vàng Diêm phù làm lan can trang trí khắp tám nẻo đường đẹp đẽ…

Nghe qua rất huyễn hoặc ! Có thật vậy không? Nếu không thì Phật nói dối? Nếu thật thì thật thế nào?

Đó là sự thật. Nhưng sự thật phải được hiểu như vầy:

Người học Đại thừa tuệ, luôn luôn quán chiếu, từ quán chiếu đi đến chiếu kiến, thấy rõ rằng: Phật là thường trụ. Pháp là thường tru. Tăng là thường trụ. Đó là thập phương thường trụ Tam bảo ở ngoài. Chẳng những vậy, còn phải biết cho thật rõ rằng: Phật thường trụ, Pháp thường trụ, Tăng thường trụ vốn có ở tâm mình và từ đó hiểu rằng:

Phật pháp tại thế gian

Bất ly thế gian giác

Ly thế mích Bồ-đề

Kháp như cầu thế giốc”
 
 

Nghĩa là:
 
 

Phật và Pháp ở tại thế gian

Thành Phật, không xa rời thế gian

Xa rời thế gian, mong cầu quả Phật

Giống như tìm sừng thỏ lông rùa.

 (Kinh Pháp Bảo-Đàn)
 
 

Không tư duy quán chiếu như vậy, không tin và hiểu như vậy, thì suốt đời dù có tu hành ép xác, khổ thân huỷ thân, rốt cuộc không đem lại kết quả gì. Bởi vì sai lạc chánh nhơn thành Phật thì không sao thành Phật được, cũng như đem cát nấu hy vọng thành cơm, không làm sao có cơm được!

Cõi Ta-bà vốn không uế tịnh. Tịnh hay uế do tâm mê ngộ của con người. Mùa Xuân vốn chẳng vui buồn, vui buồn do tâm trạng người nhìn xem cảnh vật:

“ Vui Xuân vui khắp phương trời.

Buồn Xuân riêng để cho người tương tư”

 (Nguyễn Du)

Sau Như Lai diệt độ, ai nghe Thọ Mệnh Như Lai mà sanh lòng tuỳ hỉ, đó là biểu hiện lòng tin sâu chắc. Nếu phát tâm thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói thì ngừơi nầy luôn luôn có Như Lai bên cạnh.

Ta có tâm Như Lai thì ta là Như Lai. Ta là Như Lai thì trên đầu, trên cổ, bên cạnh, trên toàn thânNhư Lai cũng không là việc khó hiểu nữa.

Người nông dân gieo hạt, ương mầm, trồng cây để mong ngày thu hoạch được trái chín. Trái chín đã thu hoạch, có nghĩa là thời kỳ gieo hạt, ương mầm, trồng cây, người nông dân đã làm tốt trước đó rồi.

Tất cả sự cúng dường Tam Bảo dù nhỏ dù lớn, dù ít dù nhiều, nhằm gieo hạt giống giải thoát giác ngộ, trở về Như Lai Phật của mình. Nay hiểu được, hiểu kỹ, hiểu chắc, hiểu đúng về Thọ Mệnh Như Lai có nghĩa là tự biết, tự thể nhập Phật mình, chính mình là Phật thì không cần cúng dường Tam Bảo nữa, vì được xem đã cúng dường viên mãn lắm rồi vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32343)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6395)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11026)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30269)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7860)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11962)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12129)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11450)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12480)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34281)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52060)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10579)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10331)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10535)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12905)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16009)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6983)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12447)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16067)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16325)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13686)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16328)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11885)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13650)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14199)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11635)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11162)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16046)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14213)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16049)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12579)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11903)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11637)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15518)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11360)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13875)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11859)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12413)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14786)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11834)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12969)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14302)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20447)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13048)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10822)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20523)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14182)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20075)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17393)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13792)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31687)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant