Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 19 - Pháp sư công đức

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 8775)
Phẩm 19 - Pháp sư công đức

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

Phẩm 19: PHÁP-SƯ CÔNG-ĐỨC

Lúc bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Thường Tinh Tấn: Nếu có trai lành gái tíh nào lãnh giữ kinh Pháp Hoa này bằng cách đọc, tụng, giảng nói hoặc biên chép thì người đó:

· Về mắt sẽ được 800 công đức.
· Về tai sẽ được 1.200 công đức.
· Về mũi sẽ được 800 công đức.
· Về lưỡi sẽ được 1.200 công đức.
· Về thân sẽ được 800 công đức.
· Về ý sẽ được 1.200 công đức.

Dùng những công đức ấy mà trang nghiêm, bồi dưỡng, cải tạo sáu căn, thì sáu căn được thanh tịnh.

1. Nhãn căn công đức: Đôi mắt thịt cha mẹ sinh ra, khi thanh tịnh, thì thấy được tất cả núi rừng, sông biển trong ba ngàn đại thiên thế giới, thấp đến địa ngục A-tỳ, cao đến cõi trời hữu đảnh, cũng thấy được các chúng sanh trong các thế giới ấy, cùng những nghiệp nhân, nghiệp quả và những nơi sanh do quả báo định. Tất cả những sự việc ấy đều thấy, đều biết với đôi mắt thanh tịnh của mình.

2. Nhĩ căn công đức: Đôi tai cha mẹ sanh ra, khi thanh tịnh, nghe được tất cả các thứ tiếng khắp ba ngàn đại thiên thế giới, như:

· Tiến voi, ngựa, trâu, xe (thú vật)

· Tiếng khóc la, buồn than

· Tiếng trống, tiếng loa, chuông lớn, chuông nhỏ.

· Tiếng cười, tiếng nói

· Tiếng trai, tiếng gái, tiếng con nít, nam nữ.

· Tiếng pháp, tiếng chẳng phải pháp.

· Tiếng khổ, tiếng sướng

· Tiếng phàm phu, tiếng thánh nhân.

· Tiếng đáng vui, tiếng chẳng đáng vui.

· Tiếng trời, tiếng rồng, tiếng các hàng A-tu-la.

· Tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió.

· Tiếng địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

· Tiếng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát, Phật.

Tóm lại, tuy chưa được thiên nhĩ, nhưng với đôi tai của cha mẹ sanh ra mà thanh tịnh thì tất cả các thứ tiếng trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới đều nghe đượcphân biệt từng loại nhưng không vì đó mà “ nhĩ căn” bị hư hoại.

3. Tỷ căn công đứcThọ trì Kinh Pháp Hoa thì mũi được thanh tịnh, nhờ đó mà “ nghe” được cá thứ mùi trong ba ngàn đại thiên thế giớiphân biệt được:

· Mùi các thứ hoa tu-mạn-na, xà-đề, mạt-lợi vv…

· Mùi các thứ hoa sen xanh, vàng, trắng, đỏ.

· Mùi cây có hoa, mùi cây có trái.

· Mùi các thứ hương

Lại rõ biết các thứ mùi chúng sanh như:

· Mùi thú vật (voi, ngựa, dê, trâu …)

· Mùi trai, gái, rừng bụi, hoặc xa hoặc gần.

· Các mùi cây, hoa trên trời

· Mùi nhân dân cõi trời ở các cung điện hưởng phước, hoặc ở diệu pháp đường nói pháp, hoặc khi dạo chơi.

Lại cũng nghe được:

· Mùi hương của chư thiên đốt

· Mùi Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát và Phật.

“Nghe” nhiều như thế, nhưng tỷ căn không bị hư và không lầm lộn. Nếu muốn phân biệt nói cho người khác nghe thì ghi nhớ không sai.

4. Thiện căn công đức: Trì kinh Pháp Hoa thì lưỡi được thanh tịnh, nhờ đó mà:

· Cuối cùng không thọ ác vị.

· Tất cả các thức uống, ăn, xấu tốt, ngon dở, đắng chát đều biến thành vị ngon ngọt như cam-lộ.

· Thuyết pháp nói đến chỗ thâm diệu, thấu đến tâm người nghe, khiến họ vui mừng sướng thích và cảm hoá được chư Thiên và A-tu-la, hàng tu hành giàu có, sang trọng.

· Vì khéo nói Pháp nên được hàng quyền quí, nhân dân theo hầu cúng dường và được chư Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, Phật ưa thấy và người nói pháp khéo ấy ở đâu thì được chư Phật xoay về phía đó mà nói pháp, nương đó mà có khả năng thọ trì tất cả các pháp Phật, lại có thể nói ra tiếng pháp thâm diệu.

5. Thân căn công đức: Trì Kinh Pháp Hoa, sau khi Phật diệt độ thì thân được trong sạch như ngọc lưu ly, làm cho chúng sanh ưa nhìn xem. Như mảng gương sáng, thân ấy là thân thanh tịnh của Bồ-tát, trong đó có các sắc tượng đều hiện mà chỉ riêng mình thấy mà thôi. Các sắc tượng ấy hoặc là tất cả chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi, hoặc cung điện trên các cõi trời, hoặc địa ngục, hoặc Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, Phật.

Tuy chưa được “ Vô lậu pháp tánh diệu thân” nhưng nhờ thanh tịnh, cho nên tất cả đều hiện được trong cái nhục thân đó.

6. Ý căn công đức: Sau khi Phật diệt độ mà trì Kinh Pháp Hoa thì được ý căn thanh tịnh. Dùng ý căn thanh tịnh đó mà nghe một bài kệ, một câu kinh cũng đủ thấu suốt vô lượng nghĩa, hiểu rõ diễn nói cả tháng, cả năm, cũng được; mỗi pháp nói ra có thể có những thú riêng nhưng tất cả đều nói đúng với “ Thật Tướng”. Thậm chí khi bàn nói đến sách vở ngoài đời, cách xử thế tiếp vật hay nghề nghiệp sanh nhai, cũng vẫn thuận với chánh pháp. Lại nữa còn biết được những hành động, lời nói đùa trong tâm của sáu đường chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới.

Dầu chưa đặng trí tuệ vô lậu, nhưng ý căn thanh tịnh thì tất cả suy nghĩ, tính lường lời nói đều đúng với lời Phật dạy, không chỗ nào là không chân thật và đúng với lời nói của chư Phật trong quá khứ
 
 

THÂM NGHĨA

Gọi là Pháp sư Pháp Hoa, gồm năm hạng người: Thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng diễntuỳ hỉ.

Nói rằng công đức Pháp sư, kỳ thật nói về công đức sáu căn của Pháp sư vậy. Tu học Pháp Hoa, sáu căn của Pháp sư sẽ thanh tịnh. Do sáu căn thanh tịnh mà có được công đức, nói cách khác là có được những đặc điểm ưu việt của sáu căn, khác hơn người thường.

Mỗi căn công đức ít nhiều, do căn đó bén nhạy chậm lụt.

Nhãn căn có thể thấy một nửa phía trước, những gì thuộc nửa sau, không thấy. Luận về công đức chỉ được 800

Nhĩ căn có những đặc tánh “Viên”, “Thông”, “Thường”, công năng của nó rất ưu việt, luận về công đức được 1.200

Tỷ căn khi thở ra hít vào chặng giữa có khuyết công đức chỉ được 800.

Thiệt căn là mọng mạ của tâm. Lưỡi nói chỉ là sự thể hiện của tâm. Vận dụng thiệt căn giảng diễn chánh pháp có thể dẫn dắt con người từ triền phược đến giải thoát, từ mê mờ đến giác ngộ. Luận về công đức lưỡi được 1.200

Thân căn tuỳ thuộc sự hiệp ly, công năng thụ động. Luận về công đức chỉ được 800.

Ý căncơ quan động lực của tư duy, tác động qua lại giữa tiền trần cảnh giới. Ý rất bén nhạy và lanh lợi

“Động thân phát ngữ độc vi tối.

Dẫn mãn năng chiêu nghiệp lực khiên”.

(Khởi động về thân, phát xuất lời nói chủ động ở ý căn. Thúc đẩy chúng sanh thọ sanh trong sáu nẻo chủ động cũng do ý căn)

Vạn loại hữu tình, vô tình sanh tồn, trưởng dưỡng luôn luôn quyện chặt với 3 thời: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai. Và 4 hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Đem thời gian phối hợp với không gianta thấy 3x3 hay 4x3 = 12. Đó là con số được biểu trưng đơn vị công đức. Đem số 12 phối hợi với mười pháp giới vốn có ở một tâm chúng sanh, ta sẽ thấy 12 x 10 = 120. Mỗi pháp giới hiện hữutồn tại với qui luật tất nhiên của mười “ như thị”. Đem 120 phối hợp với mười như thị sẽ có 120 x 10 = 1.200 công đức. Đó là thứ tá dược ngữ ngôn để diển tả công đức thanh tịnh của sáu căn hơn kém.

* Lục cănthanh tịnh thì lục trần cũng thanh tịnh. Trần thanh tịnh thì lục thức cũng thanh tịnh. Căn, trần, thức thanh tịnh thì:

· Thấy tất cả mà như không thấy gì hết; không thấy gì hết mà thấy tất cả.

· Nghe tất cả mà không nghe gì hết; không nghe gì hết mà nghe tất cả.

· Ngửi tất cả mà không ngửi gì hết; không ngửi gì hết mà ngửi tất cả.

· Nếm tất cả mà không nếm gì hết; không nếm gì hết mà nếm tất cả.

· Xúc tất cả mà không xúc gì hết; không xúc gì hết mà xúc tất cả.

· Biết tất cả mà không biết gì hết; không biết gì hết mà biết tất cả.

Vì sao vậy?

Vì sáu căn là sắc. Sáu trần cũng là sắc. Nội sắc hay ngoại sắc cũng chỉ là sắc. Cho nên Pháp sư Pháp Hoa thấy suốt, nghe suốt, ngửi suốt, nếm suốt, xúc suốt, biết suốt, không phải và việc khó nói khó hiểu. Vì Pháp sư Pháp Hoa còn có thể hiểu biết suốt cả tâm phápTâm sở hữu pháp tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp nữa mà.

* Nghe công đức Pháp sư người ngọai cuộc có thể cho là việc khó tin. Kinh Pháp Hoa nói chuyện hoang đường…

Xin thưa: Đó là sự thật. Nhưng muốn biết sự thật đó cần phải có sự thân chứng. Tôi nói “thân chứng” không phải cái gì cao xa ngê gớm lắm đâu.

Bạn chỉ thử uống một bữa tiệc rược hơi nhiều đi, để bạn “thân chứng” về cái sự hoành hoành tàn phá trí tuệ và cơ thể của bạn. Nếu bạn không uống say mà bạn chỉ nói về tác hại của say rượu, bạn có khéo diễn tả thế nào cũng không bao giờ chính xác được, vì bạn chưa “ thân chứng” vậy.

Cũng vậy, Pháp sư Pháp Hoa tu tập, khi sáu căn thanh tịnh rồi thì sự nhận thức về thế giới xa rộng hơn, trong sáng hơn, toàn diện hơn người thường. Đó là việc có thật, nhưng ai có thân chứng mới biết.

* Tìm hiểu đại lược về công năng của sáu căn, khi trở thành thanh tịnh.

* Đôi mắt cha mẹ sanh ra, khi thanh tịnh thì thấy được tất cả núi rừng sông biển trong ba ngàn đại thiên thế giới, thấp đến địa ngục A-tỳ, cao đến cõi trời hữu đảnh. Cũng thấy được tất cả nghiệp nhơn và nghiệp quả thiện ác của chúng sanh trong ngần ấy thế giới bằng đôi mắt thanh tịnh của mình.

* Đôi tai cha mẹ sanh ra, khi thanh tịnh, nghe được tất cả các thứ tiếng khắp ba ngàn đại thiên thế giới như:

· Tiếng khóc la buồn than.

· Tiếng voi, ngựa, trâu, xe.

· Tiếng trống, chuông, linh ốc.

· Tiếng cười, nói, trai, gái, đồng nam, đồng nữ.

· Tiếng pháp, phi pháp.

· Tiếng khổ, vui.

· Tiếng phàm phu, thánh nhân.

· Tiếng trời, rồng, a-tu-la

· Tiếng lửa, nước, gió.

· Tiếng địa ngục , ngạ quỷ, súc sanh.

· Tiếng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, Phật.

Dù chưa được thiên nhĩ, nhưng nghe và phân biệt từng loại âm thanhnhĩ căn không bị hư hoại.

* Tỷ căn cha mẹ sanh ra khi thanh tịnh, “nghe” được các thứ mùi trong ba ngàn đại thiên thế giớiphân biệt:

· Mùi các thứ hoa Tu-mạn-na, mạt-lợi, chiêm-bặc, ba-la-la

· Mùi các thứ hoa sen xanh, vàng, trắng , đỏ.

· Mùi cây có hoa, mùi cây có trái.

· Mùi các thứ trầm thuỷ, chiên đàn.

Lại biết các mùi chúng sanh mê như:

· Mùi thú vật.

· Mùi trai, gái, đồng nam, đồng nữ

· Mùi cỏ cây, rừng bụi, xa gần.

Lại còn nghe được các mùi cây hoa cõi trời như:

· Mùi nhân dân cõi trời, hoặc ở Diệu Pháp đường nói Pháp hoặc lúc dạo chơi.

· Mùi hương chư Thiên đốt.

· Mùi Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, Phật.

Bằng Tỷ căn của mình, nghe biết phân biệt như thế mà tỷ căn không bị hư hoại. Khi cần nói cho người khác biết nhớ kỹ, nói không lầm.

* Thiệt căn của cha mẹ sanh ra, khi thanh tịnh tất cả các thức ăn uống, ngon dở, tốt xấu đều trở thành ngon ngọt như cam lồ. Ở trước đại chúng nói pháp, nói ra những ý nghĩ sâu xa mầu nhiệm rót vào lòng đại chúng, khiến mọi người vui mừng, sung sướng. Cảm hoá đến Thiên Long bát bộ, đến hàng trí thức, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ đều vui mừng nghe pháp.

* Thân căn cha mẹ sanh, khi thanh tịnh trong sạch như lưu ly làm cho chúng sanh ưa thấy. Vì thân trong sạch, nên chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới cời bao nhiêu nghiệp duyên sanh, tử, thiện, ác đều hiện rõ trong thân. Dưới là địa ngục A-tỳ, trên đến trời Hữu đảnh, tất cả cảnh vật cùng các loại chúng sanh hiện rõ, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, chư Phật thuyết pháp đều hiện rõ trong thân thanh tịnh đó.

* Ý căn khi thanh tịnh, Pháp sư nghe một bài kệ, một câu kinh cũng đủ thấu suốt vô lượng nghĩa và có thể diễn nói cả tháng, cả năm cũng không cạn ý. Mỗi pháp nói ra có ý thú riêng, nhưng tất cả đều đúng với “ thật tướng” (Thật tướng vô tướngVô tướng bất tướng, Cố danh thật tướng). Thậm chí luận bàn sách vở ngoại đạo, nói chuyện tế thế an bang, tiếp nhân đãi vật, cũng đều thuận với chánh pháp. Lại còn biết được lòng nghĩ tưởng, lòng động tác, lòng hí luận của chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới. Dầu chưa được trí tuệ vô lậuý căn thanh tịnh rồi thì người đó suy nghĩ, tính lường, nói năng điều chi đều là Phật pháp, hợp với lời trong kinh của chư Phật nói trong quá khứ, cũng như chư Phật sẽ nói ở vị lai.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12497)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11643)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28809)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12052)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11444)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12379)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17444)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53056)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35490)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21396)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13320)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14381)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16088)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16840)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17586)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13131)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12532)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11609)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11617)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14511)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20485)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18995)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19568)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12186)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12316)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13862)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15515)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17195)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20196)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13840)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15063)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14556)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13170)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18344)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11941)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11501)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15851)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12884)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18909)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18423)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant