Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 24 - Diệu Âm Bồ tát vãng lai

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9811)
Phẩm 24 - Diệu Âm Bồ tát vãng lai

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

Phẩm 24: DIỆU-ÂM BỒ-TÁT VÃNG LAI

Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca, từ nơi nhục kế phóng một đạo hào quang, rồi từ giữa đôi lông mày cũng phóng một đạo hào quang rực rỡ khắp soi một trăm tám muôn ức na-do-tha hằng sa thế giới chư Phật ở phương Đông. Xa hơn số thế giới này, có một thế giới tên là Tịnh Quanh Trang Nghiêm. Tại nước ấy, có Phật hiệuTinh Hoa Tú Vương Trí đang thuyết pháp cho vô lượng vô biên Bồ-tát cung kính vây quanh nghe. Hào quang lông mày của đức Phật Thích Ca soi khắp nước Tịnh Quang.

Bây giờ trong nước Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm có một Bồ-tát tên là Diệu Âm, từ lâu đã trồng cội đức, cúng dường, gần gũi vô lượng chư Phật, cho nên đã thành tựu trí tuệ rất sâu và được nhiều thứ tam muội là: diệu tràng, pháp hoa, tịnh đức, túc vương trí, vô duyên, trí ẩn, giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn, tập nhất thế công đức, thanh tịnh, thần thông du hí, huệ cự, trang nghiêm vương, tịnh quang minh, tịnh tạng, bất cộng và nhật triền. Bồ-tát Diệu Âm được trăm ngàn muôn ức hằng hà sa đại tam muội như thế. Thân tắm trong ánh sáng đức Phật Thích Ca, Bồ-tát Diệu Âm liền bạch với Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí: “Thế Tôn ! Tôi sẽ sang thế giới Ta-bà, lễ bái, gần gũi cúng dường Phật Thích Ca cùng ra mắt các Bồ-tát Văn Thù, Dược Vương, Dũng Thí, Tú Hoa Vương, Thượng Hành Ý, Trang Nghiêm Vương và Dược Thượng”.

Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí nói với Bồ-tát Diệu Âm: “Ngươi chẳng nên xem rẻ nước kia (thế giới Ta-bà) mà tưởng là thấp kém. Này thiện nam tử, thế giới Ta-bà cao thấp không bằng thẳng, dẫy đầy núi đất, núi đá và những nhơ xấu, thân Phật thấp nhỏ, hình các Bồ-tát cũng nhỏ như vậy, còn thân người thì cao đến 42.000 do-tuần, thân ta đến 680.000 vạn do-tuần; thân ngươi mà còn đoan chánh bậc nhất. Như thế, được trăm ngàn muôn phước làm cho hết sức sáng rỡ. Vì vậy sang đến cõi Ta-bà, chớ nên xem khinh đừng sanh lòng nghĩ tưởng rằng Phật, Bồ-tát cùng nhân dân cõi nước này là thấp thỏi yếu đuối.

Bồ-tát Diệu Âm bạch: Thế Tôn ! Con nay qua cõi Ta-bà là do sức thần Như Lai, do thần thông du-hí của Như Lai, do công đức trí tuệ, trang nghiêm của Như Lai.

Lúc ấy, Bồ-tát Diệu Âm không rời khỏi chỗ ngồi, thân chẳng lay động, nhập chánh định, dùng sức mạnh của chánh định, tại núi Kỳ-xà-quật, cách chỗ Bồ-tát ngồi không xa, hoá ra 84.000 hoa sen báu, cộng bằng vàng diêm-phù-đàn, cành bằng bạc, nguỵ bằng kim cương và đài bằng báu.

Bồ-tát Văn Thù thấy vậy mới bạch với đức Thích Ca: “Thế Tôn ! Do đâu mà có điềm tốt này?” Đức Phật đáp: Đó là điềm Bồ-tát Diệu Âm, từ nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí muốn cùng 84.000 Bồ-tát đến cõi Ta-bà, để cúng dường, gần gũi, lễ lạy ta và cũng muốn cúng dường nghe kinh Pháp Hoa.

Bồ-tát Văn Thù bạch: Thế Tôn ! Bồ-tát đó trồng cội lành gì, tu công đức gì mà được sức đại thần thông như thế? Tu tam muội gì? Cúi xin Thế Tôn nói cho chúng con biết tên tam-muội đó vì chúng con muốn tu tam-muội ấy để thấy được sắc tướngoai nghi tiến, dừng tự tại của Bồ-tát Diệu Âm. Khi Bồ-tát tới, cúi xin Thế Tôn dùng sức thần thông làm cho chúng con thấy được Bồ-tát. Đức Thích Ca đáp: Đức Đa Bảo Như Lai đã diệt độ từ lâu, sẽ vì các ngươi mà hiện bày thân tướng của Bồ-tát Diệu Âm.

Tức thời Phật Đa Bảo bảo Bồ-tát Diệu Âm: “ Thiện nam tử ! Hãy đến đây, Văn Thù muốn thấy thân của người đấy”.

Bấy giờ Bồ-tát Diệu Âm, đang ẩn mặt ở nước kia, bèn cùng 84.000 Bồ-tát đồng qua cõi Ta-bà. Trải qua các nước, đâu đâu đất cũng chuyển động 6 cách, hoa sen bảy báu rưới như mưa, trăm ngàn nhạc trời chẳng trổi tự kêu, mắt của Bồ-tát như cánh hoa sen xanh rộng lớn, diện mạo tốt đẹp hơn trăm ngàn muôn mặt trăng họp lại , thân sắc vàng ròng trang nghiêm bằng vô lượng công đức, oai đức rất thạnh, ánh sáng chói rực, đầy đủ các tướng như thân bền chắc của Na-la-diên.

Bồ-tát Diệu Âm vào đài bảy báu, bay lên hư không cách đất bảy cây đa-la và cùng chư Bồ-tát vây quanh, đến núi Kỳ-xà-quật ở cõi Ta-bà. Tới nơi rồi, Bồ-tát xuống đài, lấy chuỗi ngọc giá trị trăm ngàn cúng dường đức Phật Thích Ca mà bạch rằng: Thế Tôn! Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí có lời hỏi thăm Thế Tôn ít bệnh, ít buồn, đi đứng thơ-thới, và hoạt động trong sự an-lạc không? Bốn đại có điều hoà chăng? Việc đời nhẫn được chăng? Chúng sanh dễ độ chăng? Không có nhiều tham dục, giận hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn xẻn, kiêu mạn, phải vậy chăng? Không còn điều bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính Sa-môn, tà kiến, tâm chẳng lành, năng hàng phục các ma oán chăng? Đa Bảo Như Lai diệt độ từ lâu và trong tháp bảy báu, có đến nghe pháp chăng? Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí lại dặn tôi hỏi thăm Đa Bảo Như Laian ổn, ít buồn hay chịu đựng và ở lâu được chăng? Thế Tôn! Tôi muốn thấy thân Phật Đa Bảo, cúi xin Thế Tôn chỉ cho tôi được thấy.

Lúc đó, đức Phật Thích Ca nói với Phật Đa Bảo: Bồ-tát Diệu Âm muốn ra mắt Ngài. Đức Phật Đa Bảo liền nói với Bồ-tát Diệu Âm: Hay lắm! Hay lắm ! Vì cúng dường Phật Thích Ca, cùng nghe kinh Pháp Hoa và thấy Văn Thù… ngươi đến cõi nầy!.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Hoa Đức bạch Phật Thích Ca: Thế Tôn! Bồ-tát Diệu Âm trồng cội lành gì, tu công đức nào mà có sức thần thông như thế?

Đức Phật đáp: Thuở quá khứ có Phật hịêu Vân Lôi Âm Vương, nước tên là Hiện Nhất Thiết Thế Gian, kiếp tên Hỉ Kiến Suốt 12.000 năm, Bồ-tát Diệu Âm dùng 10.000 thứ kỹ nhạc cúng dường Phật Vân Lôi Âm cúng dâng 84.000 bát bảy báu. Do nhân duyên quả báo đó mà nay sanh tại nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí và có sức thần như thế. Này Hoa Đức, ngươi nghĩ sao? Diệu Âm Bồ-tát thuở xưa đó, chính nay là Bồ-tát Diệu Âm đây. Bồ-tát Diệu Âm này đã từng cúng dường, gần gũi, vô lượng Phật, từ lâu vun trồng công đức, lại gặp hằng hà sa Phật. Này Hoa Đức, ngươi chỉ thấy thân hình của Diệu Âm ở tại đây, chẳng dè Bồ-tát ấy hiện các thứ thân hình, nơi nơi đều vì chúng sanh mà nói kinh điển này. Diệu Âmthể hiện thân Phạm Vương, Đế Thích, Tự-tại-thiên, Đại-tự-tại-thiên, Thiên-đại-tướng-quân, Tỳ-sa-môn-thiên-vương, Chuyển-luân-thánh-vương, Tiểu-vương, Trưởng-giả, Cư-sĩ, Tể-quan, Bà-la-môn, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc hiện thân vợ tể quan, hoặc hiện thân trai, gái, trời, rồng, dạ-xoa… người, cùng không phải loài người… mà nói kinh nầy. Bao nhiêu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và ở đâu có tai nạn, Diệu Âm đều có khả năng cứu giúp, thậm chí đến trong hậu cung vua chúa, Bồ-tát cũng biến làm thân người nữ mà nói kinh nầy.

Hoa Đức, Bồ-tát Diệu Âm này hay cứu hộ các chúng sanh trong cõi Ta-bà, vì chúng sanh mà nói kinh Pháp Hoa, tuy vận dụng thần thông biến hoá như thế mà trí tuệ sáng soi cõi Ta-bà, khiến tất cả chúng sanh, mỗi mỗi đều được sự hiểu biết của mình, còn trong hằng hà sa thế giới mười phương cũng đều được như vậy. Nếu phải dùng hình Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát hay Phật để độ thoát chúng sanh thì Diệu Âm liền hiện ra hình ấy mà nói pháp. Thậm chí phải diệt độ để độ thoát chúng sanh thì cũng thị hiện diệt độ.

Bồ-tát Hoa Đức bạch Phật: Thế Tôn ! Bồ-tát Diệu Âm ở trong tam muội nào có thể biến hiện ở các nơi và trong nhiều thân hình như thế? Phật đáp: Tam muội đó gọi là: Hiện nhất thiết sắc thân.

Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát Vãng Lai này, 84.000 Bồ-tát cùng đi với Bồ-tát Diệu Âm đều được tam muội Hiện Nhất Thiết Sắc Thân.

Khi Bồ-tát Diệu Âm cúng dường đức Phật Thích Ca và tháp Đa Bảo xong rồi trở về nước mình, các nước của Bồ-tát trải qua đều chấn động, trên các mưa hoa sen báu, nhạc trời tự trổi như lúc đi. Về đến nước rồi, Bồ-tát cùng 84.000 Bồ-tát vây quanh đến trước Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí bạch rằng: Thế Tôn! Con đến cõi Ta-bà làm lợi ích cho chúng sanh, đã ra mắt lễ lạy, cúng dường đức Phật Thích Ca, ra mắt tháp Phật Đa Bảo lại gặp các Bồ-tát Văn Thù, Dược Vương, Dũng Thí và cũng đã làm cho 84.000 Bồ-tát này được tam muội Hiện nhất thiết sắc thân.

Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát vãng lai này 42.000 người cõi nhân thiên được vô sanh pháp nhẫn, còn Bồ-tát Hoa Đức được Pháp Hoa tam muội.

THÂM NGHĨA

Diệu Âm là tiếng mầu nhiệm. Diệu Âm Bồ-tát được biểu trưng cho tiếng mầu nhiệm của chân tâm thanh tịnh. Kinh nói Diệu Âm Bồ-tát ở nước Nhất thiết tịnh quang trang nghiêm có nghĩa là Diệu Âm Bồ-tát chỉ có mặt ở thế giới “Nhất thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm”. Cũng như tiếng lòng mầu nhiệm chỉ hiện hữutâm hồn trong sángthanh tịnh, không có các phiền não cấu uế nhiễm ô.

Muốn tiếp cận, gặp gỡ liên hệ Diệu Âm, phải nhờ ánh sáng Phật soi rọi mới thấy và liên hệ được. Cũng như muốn “nghe” được tiếng mầu nhiệm của chân tâm thanh tịnh, phải có giác tri. Dùng ánh sáng trí tuệ giác soi rọi vào tâm (hồi quang phản chiếu) mới “nghe” được tiếng mầu nhiệm của lòng trong sạch của mình. Nếu không dùng ánh sáng trí tuệ hồi quang phản chiếu, thì tiếng mầu nhiệm của tâm dù có, cũng như không, vì người ta sẽ không bao giờ “ nghe” được. Diệu Âm dù sẵn ở thế giới Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm nhưng nếu không có “ánh sáng Phật” soi rọi thì Bồ-tát Diệu Âm không có điều kiện liên hệ tiếp cận với chúng sanhthế giới Ta-bà và Diệu Âm Bồ-tát có cũng như không có.

Diệu Âm Bồ-tát được nhiều tam muội, xét cho tột lý thì đó là chuyện tất nhiên. Bởi như ta đã hiểu, Diệu Âm Bồ-tát là biểu trưng cho tiếng mầu nhiệm của chân tâm thanh tịnh thì còn có thứ tam muội nào ngoài chân tâm thanh tịnh ấy? Cho nên kinh nói: “Bồ-tát được trăm nghìn muôn ức hằng hà sa các đại tam muội”.

Khi chưa có ánh sáng Phật soi đến thế giới Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm, thì hai thế giới cách xa tám trăm muôn ức na-do-tha hằng hà sa cõi Phật. Nhưng khi Phật Thích Ca dùng “ánh sáng Phật” soi rọi thì thế giới Ta-bà và thế giới Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm in tuồng như có một, chẳng còn cách trở bởi cự ly, cho nên Diệu Âm Bồ-tát chỉ trong khoảnh khắc đã tạn mặt với chúng sanh, Bồ-tát và Phật ở cõi Ta-bà.

Tiếng mầu nhiệm của chân tâm rất thâm sâu, xa thẳm đến nỗi dường như không có, nếu chúng sanh mê. Nhưng nó có thể đến rất nhanh, trong khoảnh khắc với ta, nếu ta có giác chiếu.

Diệu Âmthân tướng trang nghiêm đẹp đẽ, nhưng không nên sanh tưởng hạ liệt với Phật và Bồ-tát ở thế giới Ta-bà. Lời Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí dặn như thế. Bởi vì Phật, Phật đạo đồng. Bồ-tát phải hiểu như thế, mọi đệ tử Phật phải hiểu như thế. Vả lại, Diệu Âm qua cõi Ta-bà là do sức thần Như Lai, nếu không có sức thần Như Lai thì Diệu Âm cũng không có khả năng đến. Chính Bồ-tát Diệu Âm đã hiểu như thế và sự thật là như thế. Bởi vì, nếu không có “giác tâm” hồi quang phản chiếu thì tiếng lòng mầu nhiệm không có cơ hội hiện ra.

Diệu Âm sắp đến cõi Ta-bà, bấy giờ cõi Ta-bà trở thành đẹp đẽ. 84.000 hoa sen báu mọc lên: cọng, cánh, nhụy, gương hạt toàn bằng vàng bạc, kim cương, chân-thúc-ca, các báu hoà hợp thành, để đón mời Bồ-tát Diệu Âm và 84.000 Bồ-tát tuỳ tùng sắp đến. Trên đường ngang qua, các cõi nước cũng đều có hiện tượng đẹp: Nhạc trời không trổi tự kêu, hoa sen báu tự rơi rải cúng dường Đại-địa (Tâm Địa) rung động sáu cách…

Tiếng lòng mầu nhiệm đến, thì cõi lòng ta sẽ có hiện tượng hân-hoan, đẹp đẽ, khinh an, thanh tịnh. Các tạp tưởng ô trược ẩn đi, những gì quý báu trong sạch, trang nghiêm, an lành sẽ đến ở lòng ta.

Phật Thích Ca biểu trưng “thỉ giác”

Phật Đa Bảo biểu trưng “bổn giác”

Phải vận dụng cả thỉ giác và bản giác mới có thể tận mặt, thấy được Diệu Âm. Chỉ có thỉ giác thôi, chưa đủ điều kiện tương kiến. Cho nên, Phật Thích Ca phải “mời” Phật Đa Bảo hiển bày thân tướng “ Diệu Âm” cho Bồ-tát Văn Thùđại chúng Pháp Hoa hải hội thấy. Sự việc đó nhằm dạy cho Phật tử phải vận dụng bản giác và thỉ giác của mình, khi muốn tận mặt Diệu Âm, muốn “nghe” Tiếng lòng mầu nhiệm.

Cũng như chư Bồ-tát “Tùng Địa Dũng Xuất” ở phẩm thứ 15, qua nghi lễ tương kiến thông thường, Bồ-tát Diệu Âm liền xin Phật Thích Ca được ra mắt Phật Đa Bảo. Vì bản giác, thỉ giác là mục tiêu đạt đến, là công tác hàng đầu đối với một Bồ-tát vậy.

Những lời vấn an Phật, của Bồ-tát Diệu Âm, được xem như tiếng nhắc nhở của Diệu Âm, của tiếng lòng mầu nhiệm.

· Ít bệnh, ít khổ, thơ-thới an vui với việc làm trong cuộc sống hàng ngày.

· Điều hoà tứ đại (điều thân)

· Nhẫn nhục việc đời (điều tâm)

· Chế ngự dễ dàng tư tưởng (chúng sanh dễ độ)

· Không nhiều tham dục, giận hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn xẻn, kiêu mạn.

· Không bất hiếu với cha mẹ.

· Không phỉ báng sa-môn.

· Không tà kiến chẳng lành.

· Hàng phục các oán thù khuấy nhiễu của ma.

· Kích khởi tâm biếng lười hay siêng năng nghe pháp.

· Hãy sống an ổn, sống kham nhẫn, đừng đau khổ, đừng bất mãn, đừng trốn tránh sự thực ở cõi đời.

Đó là những điều phát xuất từ Dịêu Âm và phải được hiểu đó là Tiếng lòng mầu nhiệm của ta, nhắc nhở cho ta những điều “ngăn dứt” và những gì nên phát triển ở lòng mình.

Diệu Âm mà trở thành Diệu Âm Bồ-tát là do nhiều đời cúng dường Phật Vân lôi âm. Cũng như vàng mà được thành vàng ròng là do trước đó đã nấu lọc quặng vàng. Tiếng lòng mầu nhiệm đến với ta là trước đó ta đã phải nghe những tiếng lòng tạp tưởng mà ta đã chế ngự dứt bỏ hết đi rồi.

Diệu Âmthể hiện đủ các loại thân hình. Từ Phạm Vương, Đế Thích, Tự-tại-thiên, Đại-tự-tại-thiên, thân vua lớn, vua nhỏ, thân trưởng giả, cư sĩ, quan quyền, sa-môn, bà-la-môn… Thiên long bát bộ, nhơn, phi nhơn… cho đến hậu cung của vua, Diệu Âm cũng hiện làm thân người nữ mà nói kinh Pháp Hoa.

Với chủng tánh lớn hơn, những người xuất ly tam giới, nếu cần thân Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, Phật để độ được, thì Diệu Âm cũng tuỳ căn cơhiện thân thuyết pháp hoá độ cho mỗi hạng người. Nếu cần sự hoá độ không lời, như đức nhẫn nhục, hạnh làm gương. Diệu Âm vẫn có khả năng tuỳ nghi độ thoát.

Nói trắng ra là ở giai cấp nào, người ở giới nào, căn tánh nào, cũng sẵn có Diệu Âm. Chỉ khác nhau ở chỗ có biết khai thác hay không, để cho Tiếng mầu nhiệm của cõi lòng được hiện thực hay ẩn tàng mãi mãi để rồi mai một trong tâm khảm, dầy đặc vô minh u tối !

Là Bồ-tát thì lấy sự độ sinh làm sự nghiệp. Cho nên cần có tam muội “Hiện Nhất Thiết Sắc Thân”. Phải “Hiện nhất thiết sắc thân” mới lợi ích chúng sanh nhiều được. Cho nên 84.000 Bồ-tát tuỳ tùng và vô lượng Bồ-tát vãng lai đều được “Hiện nhất thiết sắc thân” tam muội.

Không có tam muội “Hiện Nhất Thiết Sắc Thân” không hoàn thành vai trònhiệm vụ của một Bồ-tát được.

Diệu Âm Bồ-tát trở về thế giới Nhất thiết tịnh quang trang nghiêm. Thế là cõi Ta-bà không còn rực rỡ nữa. Những điềm lành, hiện tượng tốt không còn.

Ôi ! Nếu ta chẳng có khả năng cầm giữ Tiếng mầu nhiệm của chân tâm thanh tịnh ở với ta, thì cõi lòng của ta sẽ trở lại với bao nhiêu nhiệt não đau thương, với cuộc sống ê chề dục vọng…

Chúng ta hãy gắng mà “giữ mãi Diệu Âm” ở lại !
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15623)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10940)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53345)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12830)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16354)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15213)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19019)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19782)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15394)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15205)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15019)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20133)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23668)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15318)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12916)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19791)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13128)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28898)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11567)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18144)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16506)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13089)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12644)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13094)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12835)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12735)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12869)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13405)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11559)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14105)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17618)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22226)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13317)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14166)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105466)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14466)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19567)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38242)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15382)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34501)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15899)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11227)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15542)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13865)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12712)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13531)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12366)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19261)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26854)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13022)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13333)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21454)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17830)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21703)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14023)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15931)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15944)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18936)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24544)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant