Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 28 - Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9977)
Phẩm 28 - Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

Phẩm 28: PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT KHUYẾN PHÁT

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Phổ Hiền dùng sức thần thông tự tại, cùng vô lượng vô số Bồ-tát và chư Thiên Long… đến núi Kỳ-xà-quật cõi Ta-bà, làm lễ và bạch Phật: Thế Tôn! Con ở nơi nước của Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương, xa nghe ở cõi Ta-bà này có thuyết kinh Pháp Hoa, nên cùng vô lượng Bồ-tát đến nghe lãnh, cúi mong Thế Tôn vì chúng con, nói kinh cho nghe ! Sau khi Như Lai diệt độ, các trai lành gái tốt làm thế nào mà được kinh Pháp Hoa?

Phật bảo Bồ-tát Phổ Hiền: “Sau Như Lai diệt độ, thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn được kinh Pháp Hoa thì trước phải thành tựu 4 pháp (hội đủ 4 điều kiện) là:

1. Được chư Phật hộ niệm

2. Trồng các cội công đức

3. Vào trong chánh định

4. Phát tâm cứu tất cả chúng sanh

Bồ-tát Phổ Hiền bạch Phật: Thế Tôn ! Năm trăm năm về sau, trong đời ác trược, nếu có người thọ trì kinh Pháp Hoa, con sẽ bảo hộ họ, trừ các suy tổn, hoạn-hoạn, lảm cho họ được an ổn và khiến các loài ma quỷ đều không có dịp làm hại. Ai trong lúc đi đứng mà thọ trì đọc tụng kinh này, thì con sẽ cỡi tượng trắng cùng chư Đại Bồ-tát, hiện ra trước người đó để cúng dường, bảo hộan ủi tâm người đó, bởi lẽ phải cúng dường kinh Pháp Hoa. Nếu người đó ngồi suy gẫm nghĩa kinh, thì con cũng cỡi voi trắng hiện ra cùng người ấy chung đọc tụng và làm cho họ thông thuộc, nếu có người quên mất một câu hay một bài kệ của kinh. Người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa mà được thấy thân con thì lòng rất vui mừng, lại thêm tinh tấn và được tam muội cùng các “triền đà-la-ni”, “pháp âm đà-la-ni…”

Thế Tôn! Năm trăm năm về sau, trong đời ác trược, trong hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nếu có người cần mẫn thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này mà muốn tu tập, thì trong 21 ngày, phải một lòng tinh tấn. Mãn 21 ngày rồi, con sẽ cỡi voi trắng sáu ngà cùng vô lượng Bồ-tát vây quanh, hiện ra trước người đó để nói pháp chỉ dạy sự lợi ích vui mừng và cho chú đà-la-ni. Được chú này rồi, thì không có loài phi-nhân nào có thể phá hoại được, cũng không bị nữ nhân hoặc loạn.

Bạch xong, Bồ-tát Phổ Hiền đọc bài chú và tiếp thưa; Thế Tôn! Bồ-tát nào nghe được chú nầy, phải biết đó là sức mạnh thần thông của Phổ Hiền. Ai thọ trì được kinh Pháp Hoa, thì đó là nhờ sức oai-thần của Phổ Hiền. Ai thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chính, hiểu nghĩa lý và chỉ thú của kinh, đúng theo lời kinh mà tu hành, thì người đó tu hạnh Phổ Hiền, ở nơi vô lượng Phật sâu trồng cội lành và được Như Lai lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ biên chép không, thì khi mệnh chung, sẽ sanh lên trời Đao lợi, được thiên nữ trổi nhạc đón rước, vui chơi khoái lạc, đầu đội mũ bảy báu. Còn ai thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa, thì khi mạng chung, được ngàn đức Phật đưa tay tiếp dẫn khiến chẳng sợ sêt, chẳng đoạ vào nẻo dữ liền lên cung trời Đâu Suất được cùng chư Đại Bồ-tát và trăm ngàn muôn ức chư thiên cùng ở.

Thế Tôn ! Con xin đem sức thần thông thủ hộ kinh Pháp Hoa để sau khi Như Lai diệt độ, tại cõi Diêm-phù-đề, làm cho kinh này lưu truyền rộng không cho đoạn tuyệt.

Lúc bấy giờ, đức Thích Ca khen: Hay thay! Hay thay! Phổ Hiền! Ông có khả năng hộ trợ Kinh này, làm cho chúng sanh được an vui lợi ích. Vì đã thành tựu nhiều công đức không thể nghĩ bàn, vì tâm từ-bi của ông đã sâu lớn vì từ lâu xa ông đã phát tâm cầu Vô-thượng-giác, cho nên nay mới năng phát nguyện thần thông thủ hộ kinh này. Ta sẽ dùng sức thần thôngbảo vệ người thọ trì danh hiệu của Bồ-tát Phổ Hiền.

Này Phổ Hiền ! Ai thọ trì, đọc tụng, sửa đổi những nhớ tưởng của mình cho chân chính, tu tập, biên chép kinh Pháp Hoa này, nên biết người ấy ắt thấy Phật Thích Ca nói ra, nên biết người ấy được Phật khen ngợi, nên biết người ấy được Phật Thích Ca lấy áo trùm thân. Người như thế thì không còn trở lại ham mê những vui sướng của thế gian, chẳng ưa thích kinh sách của ngoại đạo, cũng chẳng còn vui gần gũi ngoại đạo, kẻ ác, hàng thịt, người nuôi heo, dê, gà, chó, hoặc thợ săn, kẻ buôn nữ sắc. Người có tâm ý chân chất ngay thẳng, những nhớ tưởng đều chân chính, có phước đức lớn. Người đó chẳng bị ba món độc tham, sân, si làm não hại. Người đó ít ham muốn, biết đủ có khả năng tu hạnh Phổ Hiền.

Phổ Hiền ! Năm trăm năm sau khi Phật diệt độ, thấy người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa, thì phải nghĩ rằng người ấy chẳng bao lâu sẽ đến đạo tràng, phá các thứ ma, thành Vô Thượng Giác, chuyển pháp luân đáng trống pháp, thổi loa pháp, rưới mưa pháp, sẽ ngồi trên pháp toà sư tử trong đám trời người.

Phổ Hiền ! Ở đời sau, ai thọ trì đọc tụng kinh này thì người đó chẳng còn ham ưa về quần áo, giường nằm, ăn uống. Nói tóm là không còn thiết tha với những vật cần cho sự sống, còn có mong ước gì thì cũng không mong ước những việc hư huyễn, lại ngay trong hiện đời, được phước báo và thẳng tiến trên đường giải thoát.

Thấy người thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa mà chê là người vô trí, điên cuồng, rốt cuộc không lợi ích gì, ai phạm tội ấy sẽ có báo ứng, đời đời không mắt. Trái lại, ai cúng dường khen ngợi, thì ngay trong hiện đời được quả báo tốt.

Thấy người thọ trì, đọc tụng và vạch bày lỗi lầm của người ấy, dầu có dầu không, thì ngay trong hiện đời phải mắc bệnh cùi. Còn khinh cười thì đời đời răng nướu thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay chân cong queo, mắt lé, thân thể hôi dơ, ghẻ độc máu mủ, bụng thủng, thở ngắn và các bệnh nặng khác. Vì vậy, này Phổ Hiền, nếu thấy người thọ trì kinh nầy thì phải đứng dậy ra xa tiếp rước, như kính đón Phật vậy.

Lúc Phật nói phẩm “Phổ Hiền Bồ-tát khuyến phát này” có hàng hà sa Bồ-tát được muôn ức đà-la-ni. Chư Bồ-tát đông như bụi trong 3.000 đại thiên thế giới được đầy đủ hạnh Phổ Hiền.

THÂM NGHĨA

Phổ Hiền Bồ-tát khuyến phát được xếp vào phẩm thứ 28 cuối cùng của bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nó có ý nghĩa nghệ thuật về hình thức bố cục, có ý nghĩa sâu xa về nội dung giáo lý:

Phổ Hiền Bồ-tát khuyến phát, có nghĩa là khuyên hành giả Pháp Hoa phát khởi hạnh Phổ Hiền. Phổ Hiền được biểu trưng cho đức Tinh Tấn. Hạnh khắp pháp giới là Phổ. Vị gần quả Phật là Hiền.

Nếu Phổ Hiền biểu trưng cho Lý, thì Văn Thù biểu trưng cho Trí. Văn Thù là Tri thì Phổ Hiền là Hành 

Văn Thù xuất hiện giới thiệu kinh Pháp Hoa ở phẩm đầu, Phổ Hiền xuất hiện kết thúc kinh Pháp Hoa ở phẩm cuối. Cái ý nghĩa biểu trưng qua danh hiệu của hai Bồ-tát, đến đây chúng ta được nhận thấy rõ ràng.

Cũng như Bồ-tát Diệu Âm ở phẩm Diệu Âm, Bồ-tát Phổ Hiền từ phương Đông xuất hiện, trên đường đi đến cõi Ta-bà để nghe Phật giảng kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, các nước Bồ-tát đi ngang qua đều rung động: Vô lượng trăm ngàn muôn ức các thứ kỹ nhạc không trổi tự kêu, hoa sen báu trổ đầy khắp đất.

Cũng vậy, với cõi đất tâm của tất cả chúng ta khi phát khởi lòng tinh tấn tu học Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa thì cõi lòng sẽ rung động biến chuyển: hiện tượng khinh an, giải thoát sẽ đến với ta và cõi lòng sẽ vui tươi đẹp đẽ, nhìn đâu cũng đẹp như hoa, nghe đâu cũng êm ái, cũng vui tươi như nhạc.

Sau Phật diệt độ, đệ tử Phật muốn được Pháp Hoa tam muội, cần phải có 4 điều:

1. Được các Phật hộ niệm. Nghĩa là phải thắp sáng hiện hữu, giữ tâm luôn luôn ở trong trạng thái giác chiếu.

2. Trồng cây công đức. Hành giả phải luôn luôn phát triển hạnh lành.

3. Siêng tu chánh định. Phải giữ tâm thanh tịnh ngăn dứt vọng niệm tạp tưởng: Nhơn, ngã, thị, phi.

4. Phát tâm cứu giúp tất cả chúng sanh. Thể hiện lòng từ qua hành động vị tha vô ngã.

Bốn điều Phật dạy cho Bồ-tát Phổ Hiền cũng tức là dạy cho Phật tử hậu lai, những ai tu hành muốn đắc Pháp Hoa tam muội.

Tu hạnh Phổ Hiền (tinh tấn) thì tất cả các loại ác ma không có cơ hội làm hại, vì Phổ Hiền đã phát nguyện: Phổ Hiền sẽ cởi bạch tượng hiện đến thủ hộ an ủi hành giảcúng dường kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Phổ Hiền sẽ cởi bạch tượng hiện đến nhắc cho hành giả những câu, những nghĩa lý Pháp Hoahành giả quên sót.

Phổ Hiền khiến cho người thọ trì đọc tụng Pháp Hoa được thấy Phổ Hiền lòng sanh vui mừng và thêm tinh tấnHành giả sẽ được tam muội và các thứ “triền đà-la-ni” “pháp âm phương tiện đà-la-ni” và trăm ngàn muôn ức đà-la-ni khác.

Tu tậpviệc làm thường xuyên, ngừa lỗi dứt ác là việc làm suốt cả cuộc đời. Tuy vậy, cũng phải ấn định mốc thời gian để hành giả tập trung sức tinh tấn, trong kỳ hạn nào đó hợp khả năng, hoàn cảnh của mỗi người, 21 ngày, 49 ngày, 80 ngày, 100 ngày hay 120 ngày chỉ là bước đi từng bước trên con đường dài đi đến giác ngộ giải thoát. Định mốc thời gian để trắc nghiệm sức tinh tấn của mình. Nếu sức tinh tấn kiên trì, hành giả sẽ thân thấy Phổ Hiền hiện đến nói pháp cho nghe và khiến cho hành giả thành tựu Vô phân biệt trí (Phổ Hiền cho chú Đà-la-ni)

Phổ Hiền cho chú Đà-la-ni… có nghĩa là hành giả với sức tinh tấn của mình rồi sẽ đạt đến Vô phân biệt trí.

Hành giả được Vô phân biệt trí do sức “tinh tấn” thọ trì, đọc tụng Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh, đó là sự kết quả của “Tri hành hợp nhất” vậy.

Hành giả đạt đến chỗ tri hành hợp nhấtnhiệm vụ của Văn ThùPhổ Hiền được hoàn thành. Cho nên Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh được kết thúc ở phẩm “Phổ Hiền Bồ-tát khuyến phát”.

Các bố cục của kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa nhằm hướng dẫn cho hành giả Pháp Hoa từ tri đến hành. Từ hành đến Chứng thể nhập tri kiến Phật. Cái dụng ý đó , đến đây hành giả nhận thấy rõ ràng hơn.

Người thực hành hạnh Phổ Hiền là người đã trồng sâu gốc rễ lành trong vô lượng vô biên các Phật. Người đó được chư Phật lấy tay xoa đầu, lấy y mà trùm cho.

Hạnh Phổ Hiền là hạnh tinh tấn trong tinh tấn. Đối với Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh, thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói, tìm hiểu ý thú, ghi nhớ chân chánh, như thuyết tu hành, đó là hạnh Phổ Hiền, là Phổ Hiền Bồ-tát hiện thân.

Người thọ trì, đọc tụng, tu tập kinh Pháp Hoa là người thấy tánh, cho nên chẳng bao lâu thành Phật và làm tất cả việc Phật.

Chê bai khinh rẻ kinh Pháp Hoa là chê bai khinh rẻ chân lý, phủ nhận Phật tánh, chối bỏ khả năng thành Phật của mình, ngừơi đó sẽ sống đời sống hắc ám, vô minh, như ô-uế, hôi tanh, như người hủi lở… Người đó không bao giờ nhận thức, thấy được chân lý như mù, sống trong dày vò tà kiến, như tay chân cong quẹo, lời nói chẳng ai thích nghe, như môi sứt, răng sếu, người trí xa lánh như xa lánh kẻ lở lói hôi tanh.

Tóm lại, chê bai kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa thì những người này luôn luôn là những người bị dày vò đau khổ, vì sống không có ánh sáng trí tuệ, họ sẽ đau khổ triền miên như tâm trạng những kẻ cùng một lúc bị nhiều bạo bệnh liên tục hoành hành.

Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ-Tát.

Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ-Tát.

Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-Tát.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32345)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6396)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11028)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30271)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7861)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11962)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12131)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11451)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12484)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34284)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52063)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10580)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10331)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10536)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10312)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12905)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16009)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6984)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12448)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16068)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16327)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13687)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16328)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11886)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13651)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14200)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9089)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11636)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11163)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16047)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14214)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16049)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12580)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11904)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11638)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15519)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11361)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13876)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11863)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12415)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14789)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11834)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12971)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14304)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20449)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13050)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10823)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20524)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14183)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20078)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17395)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13794)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31687)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant