Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 4: Không Nên Hiểu Sai Về Phật Giáo

25 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 8562)
Phần 4: Không Nên Hiểu Sai Về Phật Giáo

HỌC PHẬT NÊN BIẾT
學佛須知
Dịch Việt: Thích Nguyên Thành

Phần IV.

Không Nên Hiểu Sai Về Phật Giáo

(Pháp Sư Ấn Thuận)

1. Hiểu Sai Giáo Nghĩa Phật Giáo

Đạo lí của Phật Giáo rất thâm sâu. Có người không hiểu rõ Ý nghĩa thâm sâu của Phật Giáo, chỉ hiểu được trên phương diện văn chương, tùy tiện nghe qua mấy danh từ Thuật Ngữ Phật Học liền giảng thế này, giảng thế kia, kết quả không phù hợp với Ý nghĩa của Phật Giáo. Phổ biến nhất là những danh từ như, “Cuộc Đời Là Khổ, Xuất Thế Gian, Nhất Thiết Giai Không…vv”. Những điều này, đương nhiên Đức Phật nói ra, chính là những lí luận quan trọng của Phật Giáo, người bình thường ít có thể hiểu chính xác. Bây giờ, chúng ta có thể phân biệtgiải thích:

  1. 1. Cuộc Đời Là Khổ:

Đức Phật chỉ thị chúng ta, cuộc đời này là khổ. Một vài người, do không hiểu rõ chân lí bên trong của Phật Giáo, liền sinh khởi những quan niệm sai lầm, cảm thấy cuộc đời của chúng ta không hề có Ý nghĩa gì. Vì vậy, dẫn đến bi quan tiêu cực đối với cuộc đời, nên không nổ lực vươn lên, đó là hiểu biết sai lầm phố biến nhất. Trong xã hội ngày nay, tín ngưỡng Phật Giáo, một số người rơi vào những sai lầm bi quan tiêu cực. Kỳ thật, câu nói “Cuộc đời là khổ”, tuyệt đối không phải Ý Nghĩa như thế.

Phàm là một ranh giới, khi chúng ta tiếp xúc đến, sinh khởi một loại cảm thọ không phù hợp với sự ham muốn của chính mình, dẫn đến khổ đau ưu phiền, như lấy Ý nghĩa này diễn tả sự khổ, không thể nói cuộc đời là khổ. Vì sao? Bởi vì, cuộc đời cũng có rất nhiều điều hạnh phúc, nghe nói đến những âm thanh không êm tai thì cảm thấy chán ghét, nhưng đã nghe được những âm điệu tuyệt vời, không phải là yêu thích sao? Thân thể có bệnh, gia cảnh khốn khổ, người thân xa cách, đương nhiên là khổ, nhưng mà thân thể khỏe mạnh, kinh tế giàu có, gia đình đoàn tụ, không phải là rất hạnh phúc sao? Bất luận sự việc gì, khổ đau và hạnh phúc đều là tương đối, giả sử gặp được sự việc không như Ý thì nói cuộc đời là khổ, há không thiên kiến sao!

Như vậy, Đức Phật nói, “Cuộc đời là khổ”, “Khổ”có Ý nghĩa gì? Trong Kinh nói: “Vô thường cố khổ” (vô thường nên là khổ). Tất cả sự vật đều vô thường, đều sẽ biến hóa, Đức Phật đem Ý nghĩa vô thường biến hóa nói cuộc đời là khổ. Ví như, thân thể khỏe mạnh còn không vĩnh cửu, sẽ dần dần ốm yếu già bệnh chết. Người có tiền của cũng không thể vĩnh cửu đảm bảo, có lúc cũng có thể biến thành nghèo khổ; thế lực quyền lợi địa vị cũng không phải vĩnh cữu, cuối cùng còn phải mất đi. Theo hoàn cảnh thay đổi, không cố định, tuy có hạnh phúc nhưng không vĩnh cửu, không có triệt để, khi hoàn cảnh thay đổi thì khổ đau sẽ đến. Cho nên, Đức Phật nói “cuộc đời là khổ”. “Khổ” có Ý nghĩa là chưa hoàn hảo, không viễn cửu, không triệt để. Người học Phật dường như không hiểu rõ Ý nghĩa chân thật, cho rằng cuộc đời tuyệt đối không có viên mãn, liền dẫn đến thái độ bi quan tiêu cực. Người hiểu Phật Pháp chân chánh, có cách nhìn hoàn toàn khác nhau. Cần phải hiểu biết Đức Phật nói “cuộc đời là khổ”, đó là cần chúng ta hiểu biết, cuộc đời này không triệt để, không vĩnh cửu. Sự hiểu biết về sau, mới có thể tạo thành một cuộc sống viên mãn tốt đẹp. Chẳng khác nào người bệnh, trước biết có bệnh, mới chịu mời Thầy Thuốc đến khám bệnh và điều trị. Bệnh mới có thể giảm bớt, thân thể được hồi phục khỏe mạnh như thường. Vì sao cuôc đời không triệt để, không vĩnh cửu mà có sự khổ đau? Nhất định có sự tồn tại nguyên nhân của khổ đau. Đã biết nguyên nhân của khổ đau thì mới biết ra sức diệt trừ khổ đau. Sau đó mới có thể đạt được hạnh phúc viên mãn. Cho nên, Đức Phật không giảng nói cuộc đời là khổ, mà còn nói là khổ có nguyên nhân của khổ, đã đoạn trừ nguyên nhân của khổ thì có thể đat được hạnh phúc cứu cánh. Học Phật, nên y theo phương pháp chỉ dạy của Đức Phật để tu hành, sửa đổi cuộc sống không viên mãn, không triệt để trong quá khứ trở thành một cuộc sống cứu cánh viên mãn. Cảnh giới này, Đức Phật gọi là “Thường Lạc Ngã Tịnh”.

 “Thường” là vĩnh cửu, “Lạc” là hạnh phúc, “Ngã” là tự do tự tại, “Tịnh” là trong sạch thanh tịnh. Bốn từ “Thường Lạc Ngã Tịnh” hợp lại, chính là hạnh phúc vĩnh cửu, tự do vĩnh cửu, và trong sạch vĩnh cửu. Mục tiêu quan trọng của Phật Giáo, không chỉ nói xuyên tạc ra “Cuộc Đời Là Khổ”, mà là cuộc sống chủ yếu quyết định bởi sự khổ đau này mang đến. Có thể sửa đổi cuộc sống quá khứ (Phật Pháp gọi là truyền Y) tạo thành cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu, tự do tự tại, trong sạch thanh tịnh. Chỉ dẫn chúng ta nguyên nhân khổ đau ở đâu. Làm sao hướng đến mục tiêu “cuộc đời là khổ” này, để nổ lực tu trì. Hoàn cảnh của “Thường Lạc Ngã Tịnh” là cảnh giới lí tưởng tuyệt đối, là cảnh giớihy vọng nhất, mỗi người chúng ta đều có thể đạt được. Như thế có thể nói, Phật Giáobi quan tiêu cực sao?

Tuy nhiên, mỗi người học Phật không nhất định có thể đều đạt được cảnh giới cao nhất, nhưng hiểu biết được qui luật này, thật là sự lợi ích vô biên. Như một người bình thường, lúc cuộc sống đang khốn khổ, còn biết nổ lực làm điều thiện, chờ đến lúc giàu có lên thì tất cả đều quên mất việc làm thiện, chỉ lo tự mình hưởng phước, mơ hồ đi theo con đường sai lầm. Người học Phật, không chỉ khi đang có cuộc sống khốn khổ mới nổ lực vươn lên, chính là lúc hưởng thụ hạnh phúc cũng thường xuyên để Ý đến làm việc thiện. Bởi vì hạnh phúc không phải vĩnh viễn đáng tin cậy, nếu không ngừng nổ lực hướng thiện thì sẽ nhanh chóng thất bại và đọa lạc. Cuộc đời là khổ, cho nên cảnh giác chúng ta không nên chuyên môn coi trọng hưởng thụ, mà đi theo con đường sai lầm, đó cũng chính là Ý nghĩa quan trọng mà Đức Phật nói cuộc đời là khổ.

  1. 2. Xuất Thế:

Phật Pháp nói có Thế gian, Xuất Thế Gian. Nhưng rất nhiều người đã hiểu lầm cho rằng Thế Gian chính là thế giới chúng ta đang ở, Xuất Thế Gian chính là đi đến một nơi nào khác. Đây là điều sai lầm. Con người chúng ta đang sống trong thế giới này và cũng trong thế giới này,người xuất gia đã trở thành A La Hán, Bồ Tát, Phật là Xuất Thế Gian. Bậc Thánh Nhân trong Xuất Thế Gian, nhưng cứu độ chúng sanh đều ở trong thế giới này, có thế thấy được Ý nghĩa của Xuất Thế Gian, lại không phải là chạy đi đến một nơi nào khác.

Như vậy, Phật Giáo nói Thế GianXuất Thế Gian là có Ý nghĩa gì? Theo từ trước đến nay, Trung Quốc nói, “Thế” có Ý nghĩa tính thời gian, như 30 năm là một Thế. Chữ “Thế” ở Các Nước Âu Mỹ cũng có Ý nghĩa này, 100 năm là một Thế Kỷ. Cho nên, Ý nghĩa của chữ “Thế” chính là tính thời gian, từ quá khứ đến hiện tại, hiện tại đến vị lai, ở trong thời gian này, gọi là Thế Gian. Phật Pháp cũng như thế: Các sự vật hiện tượng trong vũ trụ có thể thay đổi, gọi là “Thế”, ở trong thời gian từ quá khứ đến hiện tại, hiện tại đến vị lại, có đến không có, tốt đến xấu, đều vẫn đang thay đổi, tất cả trong sự thay đổi, đều gọi là Thế Gian. “Thế”, còn có Ý nghĩa là che giấu, che đậy. Người bình thường, không hiểu rõ nhân quả ba đời trong quá khứ, hiện tạivị lai, không biết từ nơi nào đến, sao phải làm người, chết đi về đâu, không biết Ý nghĩa của cuộc sống, bản tánh của vũ trụ, mơ hồ trong nhân quả 3 đời, đó gọi là Thế Gian.

Thế nào, mới gọi là Xuất Thế? “Xuất”, Ý nghĩa là vượt lên trước hoặc hơn hẳn. Có thể tu hành Phật Pháp, có trí tuệ, thông đạt chơn lí của nhân sinh vũ trụ, tâm được thanh tịnh, không có phiền não, thể nghiệm chân lí vĩnh hằng thì gọi là Xuất Thế. Phật và Bồ Tát đều ở trong thế gian này, nhưng không có ai sánh bằng Các Ngài. Vì Các Ngài đều thông đạt được trí tuệ chân lí, tâm được thanh tịnh, không giống như người bình thường. Cho nên, danh từ “Xuất Thế Gian” là cần chúng ta tu học Phật Pháp. Tiến lên một bước nữa, con người có thể làm được Bậc Thượng Nhân, từ phàm phu làm được Thánh Nhân, chứ không phải gọi chúng ta chạy đến một thế giới khác. Người không hiểu Ý nghĩa Phật Pháp Xuất Thế, hiểu lầm Phật Giáotrốn tránh hiện thực, mà dẫn đến phê bình không chính xác về Phật Giáo.

  1. Nhất Thiết Giai Không: (tất cả đều không)

Đức Phật nói, tất cả đều Không. Có một vài người đã hiểu lầm, cho rằng thế này cũng không, thế kia cũng không, cái gì đều không có, thế nào cũng là không, không Ý nghĩa, việc xấu không làm, việc tốt cũng không làm, nhìn thấy mơ mơ màng màng một chỗ, còn sống là tốt lắm rồi. Thật sự, Ý nghĩa “Không” trong Phật Giáo, có triết lí rất sâu xa. Chư Phật và Bồ Tát chính là người ngộ được chân lí “Không”.“Không” lại không phải cái gì cũng đều không có, trái lại tất cả các loại cũng đều có, thế giớithế giới; cuộc đờicuộc đời; khổ là khổ; vui là vui; tất cả đều có sẳn. Trong Phật Pháp nói rõ ràng, có tà có chánh, có thiện có ác, có nhân có quả. Cần bỏ tà trở về chánh, lìa ác hướng thiện, làm thiện được quả thiện, tu hành thành đạo, nếu nói cái gì cũng đều không có, điều đó chúng ta hà tất phải học Phật?

Đã là nhân quả, thiện ác, Phàm Phu, Thánh Nhân, các loại nào cũng đều có, Đức Phật vì sao nói tất cả đều “Không”? “Không”, có Ý nghĩa gì? Các sự vật hiện tượng do nhân duyên hợp lại mà hình thành, không có thực tại nào mà không có sự biến thể, gọi là “Không”. Tà chánh, thiện ác, nhân duyên, tất cả sự vật, đều không phải đã hình thành mà không thể thay đổi thực tại. Tất cả đều là mối liên hệ dựa vào nhân duyên mà có. Bởi vì từ nhân duyên đã nảy sanh, cho nên theo chuyển hóa của nhân duyên mà thay đổi, không có thực thể, cho nên gọi là “Không”. Đưa ra một sự thật đã nói, ví như, một người đối diện với tấm gương, thì sẽ hiện hình bóng trong tấm gương, làm sao biết có hình bóng đó? Có tấm gương, có người, còn phải tiếp nhận ánh sáng mặt trời mới có thể nhìn ra hình bóng. Nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì sẽ không hình thành được hình bóng. Vì vậy hình bóng là do các yếu tốđiều kiện nhân duyên nảy sanh; không phải một vật thể thực tại. Tuy không phải thực thể nhưng đã nhìn thấy được hình bóng, đó rõ ràng không thể không có. Nhất Thiết Giai Không, (tất cả đều không) chính là dựa theo Ý nghĩa nhân duyên sinh khởi mà nói. Cho nên, Đức Phật nói, tất cả đều không. Đồng thời liền có thể nói tất cả nhân duyên đều có. Không những cần phải thấu hiểu tất cả đều không, mà còn phải biết có nhân có quả, có thiện có ác. Người học Phật, từ trong quá trình tu học lìa ác làm thiện, chuyển mê khai ngộ, chứng được tánh không, tức không tức có, nhị đế dung thông (hai chân lí hòa hợp trọn vẹn với nhau). Mọi người cho rằng, Phật Pháp nói không, giống như cái gì cũng đều không có. Đây là tiêu cực, là bi quan, đều là do không hiểu rõ giáo lí Đức Phật mà dẫn đến sự hiểu lầm, cần phải lập tức triệt để sửa chữa ngay!

  1. 4. Hiểu Sai Qui Chế Phật Giáo

Phật Giáo truyền vào Trung Quốc từ Ấn Độ, phương diện qui chế có một vài chỗ khác nhau. Ví như Xuất GiaĂn Chay, người không hiểu rõ, không có thói quen, dẫn đến hiểu lầm về Phật Giáo.

(1). Xuất Gia:

Xuất Gia là qui chế của Phật Giáo Ấn Độ. Xã hội đất nước Trung Quốc, đặc biệtNho Giáo, gây ra nhiều hiểu lầm với Phật Giáo. Ở trong nước, thường nghe thấy người khác nói: Mọi người học Phật thì tất cả mọi người trên thế giới đều không có. Vì sao? Mọi người đều đã Xuất Gia, không có vợ chồng con cái, xã hội trở thành cái gì? Đây là điều hiểu lầm rất nghiêm trọng. Tôi thường thí dụ nói: như các Giáo Sư dạy học sinh, nơi ấy là dạy con người làm Giáo Viên, vậy mọi người trở thành thế giới Giáo Viên phải không? Điều này ở hòn đảo Phi Lập Tân, phần lớn hiều lầm, bởi vì khắp nơi nhìn thấy được Cha Cố, Nữ Tu, các Vị Ấy cũng là Người Xuất Gia. Nhưng đây chỉ là bộ phận nhỏ trong Tín Đồ Thiên Chúa Giáo, mà không phải mỗi người Tín Đồ Thiên Chúa Giáo phải làm Cha Cố, Nữ Tu. Người học Phật có Đệ Tử Xuất Gia, có Đệ Tử Tại Gia. Người Xuất Gia có thể học Phật, Người Tại Gia cũng có thể học Phật. Người xuất Gia đã có thể tu hành thoát ly sanh tử, Người Tại Gia cũng có thể tu hành thoát ly sanh tử giống như nhau. Hơn nữa, không phải người học Phật nhất định đều phải Xuất Gia, nhất định không phải mọi người đều học Phật, thì làm sao hủy hoại nhân loại. Xuất GiaTại Gia đều có thể tu hành thoát ly sanh tử, nhưng vì sao cần phải Xuất Gia? Bởi vì cần hoằng dương Phật Giáo, phát triển Phật Giáo, cần phải có một số vị Trụ Trì Phật Giáo. Điều tốt nhất của Vị Trù Trì là Người Xuất Gia. Nhờ không có gánh vác gia đình, lại không làm các công việc khác, nên trọn tâm tu hành, hết lòng hoằng dương Phật Pháp. Phật Giáo cần tồn tại trên thế giới này, nhất định phải có các Vị Trụ Trì để phát triển Phật Giáo. Cho nên từ xưa đã có qui chế Xuất Gia.

 Công đức Xuất Gia lớn không? Đương nhiên rất lớn. Nhưng người không thể Xuất Gia thì cũng không phải miễn cưỡng. Miễn cưỡng Xuất Gia có lúc không thể giống như Pháp, còn không bằng Người Tại Gia. Người trèo được lên cao, ngã xuống thì càng nặng. Công đức Người Xuất Gia rất lớn, nhưng hể không để Ý sẽ bị đọa lạc càng lợi hại hơn. Cần có thể chơn thật phát tâm, cần cù chịu khó tu hành, vì Phật Giáo hy sinh chính mình, nỗ lực hoằng dương Phật Pháp, mới không hổ thẹn danh nghĩa của Người Xuất Gia. Người Xuất Giaphần tử chủ yếu của Phật Giáo, là chủ thể phát triển Phật Giáo. Người Xuất Gia không dựng vợ giả chồng. Tôn Giáo Phương Tây cũng có qui chế này. Có rất nhiều Nhà Khoa Học, Nhà Triết Học, vì học tập, tuân thủ chủ nghĩa độc thân, không vì mệt nhọc công việc gia đình mà nổ lực đi làm triết học khoa học. Qui chế Xuất Gia của Phật Giáo, chính là giải thoát mệt nhọc dục vọng thế gian, mà chú tâm phục vụ Phật Pháp. Cho nên, Xuất Gia là công việc của Bậc Đại Trượng Phu, đặc biệt cần phải chăm chỉ cần cù. Như tùy tiện Xuất Gia, Xuất Gia mà không làm công việc của Người Xuất Gia, đó không những không có lợi ích, trái lại làm ảnh hưởng xấu đến Phật Giáo. Có người, vừa mới học Phật liền muốn Xuất Gia, giống như học Phật không Xuất Gia không được, không những tự mình đã hiểu sai mà khiến người khác đều phải sợ, không dám đến Chùa học Phật. Tư tưởng này, học Phật chính là phải Xuất Gia, không thể chấp nhận được! Nên biết Xuất Gia không dễ dàng, trước làm một vị CưTại Gia lương thiện, vì Phật Pháp tu học, tự lợi lợi tha. Như có thể chân thật phát tâm tu hành đạo hạnh của Người Xuất Gia, hiến thân cho Phật Giáo, trở lại việc Xuất Gia, như vậy tự mình đã thận trọng thỏa thuận, đối với xã hội cũng sẽ sản sinh nhiều sự ảnh hưởng tốt đẹp.

Liên quan với người Xuất Gia, tiện thể nói 2 điều:

  • Có người nhìn thấy Chùa Phật rộng lớn trang nghiêm, vắng vẻ thanh tịnh, do đó ước ao làm Người Xuất Gia. Cho rằng Người Xuất Gia Sống trong Chùa, có thí chủ đến cúng dường, không phải làm việc, ngồi yên hưởng phước. Như có câu nói “Nhật cao tam trượng do vị khởi”, “bất cặp Tăng Gia bán nhật nhàn” (mặt trời lên cao 3 trượng vẫn còn chưa thức dậy, không thua gì các Vị Tăng cả ngày nhàn rổi), đây chính là luận thuyết này. Không biết người Xuất Gia có sự việc của Người Xuất Gia, cần dũng mãnh tinh tấn. Khi tự mình tu hành, (Sơ dạ hậu dạ, tinh cần Phật đạo) “thức khuya dạy sớm, tinh tấn cần cù theo con đường của Đức Phật”. Giảng pháp với Tín đồ, phải đi du hóa khắp nơi, tuyên truyền rộng rãi chân lí. Trãi qua cuộc sống thanh vắng khổ cực, vì chúng sanh, vì Phật Giáo, mà nổ lực tự lợi lợi tha, rất ít thấy được. Cho nên gọi là Tăng Bảo; Đâu phải sự việc gì cũng đều không làm, ngồi sẳn hưởng phước, ngồi đợi các thí chủ đến cúng dường? Đây đại kháitrách nhiệm của Người Xuất Gia. Có một số ít các vị Xuất Gia khác không thể làm hết trách nhiệm của mình, cho nên xã hội có sự hiểu lầm!
  • Có một vài người phản đối Phật Giáo, nói người Xuất gia cái gì cũng đều không làm, là người tiêu dùng ăn bám xã hội, dường như một chút công ích cũng không có. Chẳng biết con người không nhất định phải làm công việc của Nông Công Thương, làm Giáo Viên, kí giả tin tức, và các nghề nghiệp tự do khác cũng đều có thể nói là người tiêu dùng phải không? Người Xuất Gia không phải không có việc làm. Trãi qua cuộc sống yên lặng khổ cực mà dũng mãnh tinh tấn, đã làm việc, ngoài tự lợi ra, còn chỉ dẫn mọi người hướng thiện, coi trọng đức hạnh, tu trì, khiến cho nhân cách của Tín đồ càng ngày càng được nâng cao, có thể tu hành sống chết, khiến thế giới nhân sinh đạt được nhiều lợi ích, làm sao có thể nói là Người ăn bám không có làm việc gì? Người Xuất Gia là Thầy nhơn thiên, có thể nói nghĩa rộng là người cao thượng làm công việc giáo dục. Cho nên, người không hiểu Phật Giáo nói người Xuất Gia thanh nhàn, hoặc nói Người xuất Gia ăn bám tiêu dùng của xã hội, đều không đúng. Người Xuất Gia chân chính không phải như thế, lại không phải thanh nhàn mà bận rộn, không phải tiêu hao mà có thể Báo Ân của Thí chủ.

(2). Ăn Chay:

Tín đồ Phật Giáo Trung Quốc, đặc biệt coi trọng ăn chay. Cho nên Người Học Phật, thường cho rằng học Phật cần phải ăn chay. Còn có người không thể bỏ ăn thịt thì hiểu lầm tự mình không thể học Phật được. Nhìn xem các Tín đồ Phật Giáo Nhật Bản, Silanka, Miến Điện,Thái Lan, Tây Tạng, Mông Cổ, không những là Tín Đồ Tại Gia ngay cả Người Xuất Gia cũng đều ăn thịt. Như thế các Vị Ấy không có học Phật, không phải Tín Đồ Phật Giáo sao? Đừng hiểu sai lầm học Phật thì phải ăn chay, không thể ăn chay thì không thể học Phật. Học Phật và ăn chay đều không phải hoàn toàn nhất trí với nhau. Người bình thường nhìn thấy vài người học Phật, không có học được cái gì, chỉ học biết ăn chay. Cha Mẹ Anh Chị trong gia đình cảm thấy không thích, cho rằng ăn chay nhiều phiền não. Kỳ thật, người học Phật phải nên làm như thế này: Khi học Phật, trước phải hiểu giáo lí của đức Phật, rồi ứng dụng Giáo lý vào trong đời sống gia đìnhxã hội. Làm cho đức hạnh của chính mình càng thêm tốt đẹp, tâm được thanh tịnh. Khiến người trong gia đình, cảm thấy bạn trước kia chưa học Phật, lòng tham lamsân hận rất nhiều, thiếu tâm trách nhiệmlòng từ bi, sau khi học phật tất cả đều được thay đổi, lòng tham lamsân hận giảm bớt, có tình thương yêu người khác, làm việc càng có trách nhiệm hơn. Khiến cho người khác cảm thấy học Phật có sự lợi ích cho xã hộigia đình. Lúc đó cần phải ăn chay, người trong nhà không những không phản đối, trái lại nảy sinh tấm lòng thông cảmdần dần cùng học Phật với bạn. Nếu mới vừa học Phật thì chỉ học ăn chay, không phải học cái gì khác, nhất định sẽ phát sinh chướng ngại.

Tuy nhiên, người học Phật không nhất định phải ăn chay, nhưng ăn chay xác thực là truyền thống lương thiện của Phật Giáo Trung Quốc, đáng được đề xướng. Phật Giáo nói ăn chay có thể nuôi dưỡng lòng từ bi, không nhẫn tâm sát hại sinh mạng của chúng sanh, không nhẫn tâm ăn máu thịt của động vật. Không những giảm bớt nghiệp sát sanh, mà còn tăng trưởng lòng thông cảm đối với sự đau khổ của nhân loại. Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt đề xướng ăn chay, nói ăn chaycông đức rất lớn đối với việc tăng trưởngnuôi dưỡng lòng từ bi. Cho nên, ăn chay mà không có thể tăng trưởngnuôi dưỡng lòng từ bi, chỉ là tiêu cực giữ giới sát, điều đó gần với Tiểu Thừa!

Theo Pháp Thế Gian có thể nói, lợi ích ăn chay rất rộng lớn, so với giá trị kinh tế và dinh dưỡng cũng rất cao, cho nên giảm đi bệnh khổ. Hiện nay trên thế giới, có tổ chức Hội Ăn Chay Quốc Tế, bất luận người nào, phàm là người thích ăn chay đều có thể tham gia. Có thể nhìn thấy, ăn chay là sự việc tốt. Người học Phật càng nên đề xướng. Nhưng cần phải chú Ý, chính là không phải đưa ra những tiêu chuẩn rất cao cho người học Phật, cho rằng học Phật không ăn chay không thể được. Gặp người học Phật thì sẽ hỏi: có ăn chay không? Vì sao học Phật lâu như thế lại không ăn chay? Như vậy, học Phật cần phải phù hợp thống nhất với việc ăn chay, đối với sự việc hoằng Pháp có trở ngại!

  1. 5. Hiểu Sai Nghi Thức Phật Giáo

Người không hiểu giáo lí Đức Phật, khi đến Chùa nhìn thấy nghi thức Lễ Phật, Tụng Kinh, Bái Sám, và Khóa Tụng sáng chiều…vv, không hiểu rõ Ý nghĩa chân thật trong Kinh liền nói đó là mê tín. Ở đây có nhiều vấn đề có thể thảo luận, hiện tại nói đơn giản có mấy vấn đề sau:

(1). Lễ Phật:

Vào Chùa Lễ Phật, cầm hương hoa đèn cầy đến cúng Phật. Tín Đồ Thần Giáo Phương Tây nói chúng ta Lễ Bái Ngẫu Tượng, là mê tín. Kỳ thật, Đức PhậtGiáo Chủ chúng ta, là Thánh Giả tiến lên đạt được cứu cánh viên mãn. Các Vị Đại Bồ Tát cũng là người sắp Thành Phật. Đây là chỗ nương tựa của chúng ta, là người lãnh đạo chúng ta. Tôn trọng Phật Bồ Tát, đương nhiên phải có sự biểu hiện giống như cung kính Cha Mẹ, cần phảilễ phép như nhau. Khi Đức Phật còn tại thế gian, có vấn đề gì có thể trực tiếp bày tỏ sự cung kính với Ngài, nhưng bây giờ Đức Phật Thích Ca đã vào Niết Bàn và các vị Phật Bồ Tát ở trong thế giới khác, đều không ở tại thế gian chúng ta. Không những không dùng giấy vẽ, đất, gỗ, đá cho đến điêu khắc hình tượng của Các Ngài, coi là đối tượng Cung Kính Lễ Bái. Bởi vì, đây là thể hiện hình tượng của Các Vị Phật Bồ Tát, chúng ta cần phải cung kính lễ bái Các Ngài. Không nên nghĩ rằng các Ngài là giấy, đất, gỗ, đá. Như chúng ta cung kính đất nước của chúng ta, làm sao phải bày tỏ sự cung kính? Dùng vải màu làm thành Quốc Kỳ, khi kéo lá cờ lên, cung kính hướng đến lá cờ làm lễ. Chúng ta có thể nói, đây phải chănghành vi mê tín? Thiên Chúa Giáo cũng có Hình Tượng. Cơ Đốc Giáo tuy không có Thần Tượng, nhưng cũng có Cây Thập Tự (Thánh Giá), coi là đối tượng cung kính Niệm Kinh, có người còn quì xuống cầu khấn, đây có gì khác biệt với Lễ Lạy Đức Phật? Nói Phật Giáo lễ Đức PhậtLễ Bái Ngẫu Tượng, đây là chỉ Tín Đồ Thần Giáo Tây Phương có sự phá hoạiác Ý với Phật Giáo.

Thậm chí, Hoa Hương Đèn Cầy, khi Phật còn tại thế, người Ấn Độ dùng hoa hương đèn cầy đến cúng dường Đức Phật. Đèn cầy là tượng trưng sáng suốt, hương hoatượng trưng mùi thơm tinh khiết. Phật Giáo lễ lạy Đức Phật, một mặt là dùng hương hoa đèn cầy đến cúng dường và bày tỏ sự cung kính Đức Phật, mặt khác là bảy tỏ Đức Phật đã đạt được ánh sáng thanh tịnh. Không phải dâng hoa thắp hương, khiến cho Đức Phật ngữi được mùi thơm. Thắp đèn, châm đèn cầy lên thì Đức Phật có thể thấy được tất cả. Tôn Giáo Tây Phương, đặc biệtThiên Chúa Giáo, còn chưa từng dùng những đồ vật này phải không? Đây vốn là nghi thức cộng đồng của các Tôn Giáo nói chung. Lễ Phật cần phải cung kính chân thành. Khi lễ Phật cần chân thành quán tưởng Đức Phật. Nếu vừa lạy vừa nghĩ đông nghĩ tây, hoặc nói chuyện, điều này không được tôn kính mà còn đánh mất đi Ý nghĩa Lễ Phật.

(2). Lễ Sám:

Tín Đồ Phật Giáo, mỗi lần Lễ Sám Tụng Kinh, người không có Tôn GiáoTín Đồ Tôn Giáo khác, cũng thường hiểu lầm cho là mê tín. Không biết, “Sám”, Ngôn ngữ Ấn Độ gọi là Sám Ma, nó có Ý nghĩa, tự mình sau khi đã làm sai, thừa nhận sai lầm của chính mình. Bởi vì người sống trong thế giới quá khứthế giới hiện tại, ai cũng đều làm qua những lỗi lầm, phạm những tội ác, lưu giữ lại nghiệp lực khổ đau và làm cản trở tu đạo giải thoát. Vì để làm giảm bớt nghiệp chướngtiêu trừ chướng ngại khổ đau, nên ở trước Tượng Phật Bồ Tát, trước Chúng Tăng, thừa nhận lỗi lầm của mình làm để tiêu trừ nghiệp chướng của mình. Trong Phật Giáo, có pháp môn Lễ Sám. Đây chẳng khác nào sự hối cải của Kỳ Na Giáo. Lễ Sám là rất quan trọng trong con đường tiến tu của Tôn Giáo. Sám hối, cần tự mình sám hối, sám hối nội tâm, cần thiết tha chân thật mới phù hợp với Ý nghĩa của Phật Giáo.

Người bình thường, không biết Sám Hối như thế nào? Các Vị Tổ Sư, thời xưa biên chép nghi thức sám hối, dạy chúng ta từng câu tụng Kinh, miệng tụng tâm nghĩ, cũng chính là hiểu biết Ý nghĩa bên trong Kinh, sám hối nghiệp ác của chính mình. Trong Nghi Thức Sám Hối, dạy chúng ta làm sao Lễ Phật, cầu Phật Bồ Tát từ bi gia hộ, thừa nhận tội lỗi chính mình, không phải Sát Sanh, Trộm Cắp, Tà Dâm…vv, nhất tâm phát nguyện sám hối tu tập. Những nghi thức này, đều là Các Vị Tổ Sư quá khứ dạy bảo chúng ta sám hối, nhưng chủ yếu cần phải tự tâm mình phát ra những lời hối cải thiết tha chân thật.

Có vài người, ngay cả nghi thức Lễ Sám có sẵn cũng không biết đọc tụng, liền mời các Vị Xuất Gia hướng dẫn đọc tụng. Dần dần chính mình cũng không biết Sám Hối, chuyên môn mời các Vị Xuất Gia đến nhà vì mình Tụng Kinh Sám Hối. Có Cha Mẹ Quyến Thuộc đã qua đời, vì cần oai đức của Tam Bảo đến để tiêu trừ tội nghiệp của Cha Mẹ Quyến Thuộc, cũng mời các Vị Xuất Gia đến Tụng Kinh Sám Hối, cầu mong người chết sớm siêu thăng. Nhưng người không hiểu Ý nghĩa chủ yếu của Phật Pháp, vì bộ mặt bên ngoài, vì phong tục nhân gian, chỉ tốn vài đồng tiền, mời Các Vị Xuất Gia đến Tụng Kinh Sám Hối làm công đức, mà tự mình không tin Phật Pháp, tự mình không một chút thành tâm thiết tha Sám Hối, đó là đánh mất đi Ý nghĩa của việc Tụng Kinh Sám Hối.

Đến với Phật giáo như thế, Ý nghĩa Sám Hối rất mơ hồ. Học Phật không tự mình sám hối, bất cứ sự việc lớn nhỏ cũng đều mời các Vị Xuất Gia. Do vậy người Xuất Gia bận rộn Phật Sự. Hôm nay Tụng Kinh Sám Hối nhà này, ngày mai làm công đức nhà kia. Những Tự Viện lớn, mỗi ngày lấy việc làm Phật Sựsự nghiệp duy nhất. Sự nghiệp chủ yếu của Người Xuất Gia thì buông bỏ không đảm nhiệm, nên khó tránh Phật Giáo sắp suy bại.Vì thế, Sám Hối chủ yếu là tự mình. Nếu tự mình sám hối thiết tha thành thật, thậm chí sám hối trong một thời gian ngắn cũng hơn hẳn mời nhiều người, hơn hẳn làm nhiều ngày công đức Phật Sự. Hiểu được qui luật này, như con cái cần hết lòng hiếu thảo với Cha Mẹ, vì duyên cớ huyết thống tương thông, quan hệ mật thiết, thì nên tự mình vì Cha Mẹ làm nhiều công đức Tụng Kinh Sám Hối. Không phải làm công đức Tụng Kinh Sám Hối, xem như nghề nghiệp của Người Xuất Gia, đó không những không hề có lợi ích mà chỉ có tăng thêm sự phỉ bánghiểu lầm của thế tục.

(3). Khóa Tụng:

Người học Phật, sớm tối Tụng Kinh Niệm Phật, ở trong Phật Giáo gọi là Khóa Tụng. Cơ Đốc Giáo sớm tối và lúc ăn uống cũng có cầu nguyện. Tín Đồ Thiên Chúa Giáo sớm tối phải Tụng Kinh. Đó là nghi thức thực hành của Các Tôn Giáo, vốn không có vấn đề gì xảy ra. Nhưng vì sự việc này, có vài Phật Tử hỏi tôi: không học Phật còn tốt hơn, vì học Phật rất mênh mông. Thân Mẫu tôi, sáng tối làm việc một hai tiếng đồng hồ, giống như học Phật đều như thế, sự việc trong nhà không có biện pháp thúc đẩy. Trong các Vị Cư Sĩ, thật sự có tình huống này, khiến mọi người hiểu lầm Phật Giáo, là việc thư giản của các người lớn tuổi, không phải người thông thường thích nghi học Phật. Kỳ thật, Khóa Tụng sáng tối lại không nhất định Tụng Kinh gì, cũng không nhất định Tụng Trì rất lâu, có thể tùy theo sự nhàn rỗi và bận rộn của mình, dựa theo tình hình thực tế mà qui định thời gian. Khóa Tụng chủ yếu nên Tụng Niệm Tam Qui YThập Nguyện. Phật Giáo Nhật Bản từ Trung Quốc truyền sang, như Tịnh Độ Tông, Thiên Thai Tông, Mật Tông…vv, đều có Khóa Tụng riêng biệt của các Tông Phái. Tụng Niệm rất đơn giản mà không lãng phí nhiều thời gian, đây còn là tình hình Phật Giáo trong Thời Đại Tống, Đường. Khóa Tụng thời cận đại Trung Quốc:

1. Sử Dụng trong Tùng Lâm: Tùng Lâm được lưu trú vài trăm người, mỗi lần tập hợp thì mất nhiều thời gian, vì để thích nghi hoàn cảnh đặc biệt, cho nên Khóa Tụng tương đối dài.

  1. Phật Giáo đời Nguyên Minh, có xu hướng hỗn hợp, do đó biên tập nghi thức Tụng Kinh, đầy đủ các nội dung, thích nghi sự tu học của các Tông Phái khác. Kỳ thật, cư Sĩ Tại Gia không nhất định phải như thế. Thời xưa, người thực hành theo Phật Giáo Ấn Độ Đại Thừa, mỗi ngày 5 lần Tụng Niệm,và 5 pháp môn sám hối. Thời gian ngắn không sao cả, số lần Khóa Tụng dần dần tăng lên.

Tóm lại, học Phật không chỉ là nghi thức Tụng Niệm. Tại Gia học Phật, nhất định không thể vì Khóa Tụng quá lâu và thời gian dài mà làm ánh hưởng đến công việc gia đình.

(4). Đốt Giấy:

Khi Thờ Cúng Tổ Tiên, Thời Cổ Đại Trung Quốc, có phong tục đốt lụa, đốt một ít tờ lụa cho Tổ Tiên thọ dụng. Sau đó, vì tiết kiệm liền chuyển dùng giấy để thay thế, đến sau đó làm thành tiền, nguyên bảo[1], giấy bạc, và thậm chí làm thành nhà cửa, xe cộ để thiêu đốt. Những vấn đề đốt giấy, đều là do phong tục tập quán Cổ Đại lưu truyền lại, diễn biến hình thành, chớ không phải là sở hữu bên trong của Giáo Lí Phật Giáo.

Những sự việc này cũng có một vài lợi ích, chính là làm cho con cái bày tỏ lòng hiếu thảo với cha Mẹ. Tự mình ăn uống, nhớ đến Cha Mẹ Tổ Tiên: tự mình may quần áo và xây nhà ở, nghĩ đến Tổ Tiên, không quên ân đức Cha Mẹ Tổ Tiên, có Ý nghĩa thận trọng truy tìm xa. Phật giáo truyền vào Trung Quốc, thích nghi phong tục tập quán Trung Quốc, phù hợp với phương tiện Tụng Kinh Niệm Phật. Nhưng mà, dưới tập tục Của Nhà Nho “Tống tử vi đại sự cập hậu táng”(Đưa người chết là sự việc lớn và coi trọng chôn cất), không tránh phô trương lãng phí, thiêu đốt càng nhiều càng tốt giấy vàng bạc. Đây mới dẫn đến phê bình của các Vị Nhân Sĩ Thời Đại Tư Bản Chủ Nghĩa, mà Phật Giáo cũng cho là mê tín lãng phí. Tín Đồ Phật Giáo hiểu rõ Ý nghĩa này, tốt nhất đừng đốt nhiều giấy vàng bạc. Trong Phật Giáo không có sự việc này. Nếu vì cần tưởng nhớ người quá cố, giống như đốt tượng trưng một ít giấy vàng bạc, không cần đem đến Chùa Chiền đốt, để tránh cho Phật Giáo, vì chúng ta chịu tội.

(5). Bốc Thăm, Xem Bói, Lên Đồng:

Một vài ngôi Chùa, có hành động Bốc Thăm, Coi Bói, thậm chí Lên Đồng…vv, dẫn đến sự châm biến, chê bai của xã hội, ám chỉmê tín. Kỳ thật, Phật Giáo thuần túy không cho phép người học Phật chân chính thực hiện những việc làm này, mà chỉ tin tưởng vào nhân quả. Nếu quá khứhiện tại tạo tác nhiều nghiệp ác, nhất định không thể dùng phương pháp làm lành tránh dữ có thể ngăn ngừa. Tu thiện đạt được kết quả hạnh phúc, làm ác tương lai tránh không được quả báo khổ. Muốn đạt được quả báo tốt thì phải làm nhiều sự việc có công đức. Đệ Tử Đức Phật, chỉ biết làm nhiều việc thiện. Tất cả sự việc phải làm hợp lí với Phật Pháp, quyết không sử dụng tập tục thấp kém, đầu cơ trục lợi bằng thủ đoạn. Việc Bốc Thăm, Xem Bói, Lên Đồng đều không liên quan đến Phật Giáo, Người Đệ Tử Phật chân chính tín ngưỡng Phật Giáo, nên tuyệt đối ngăn ngừa những hành vi Tôn Giáo thấp kém này.

  1. 6. Hiểu Sai Tình hình Hiện Tại Phật Giáo

Người Trung Quốc nói chung, không hiểu Phật Giáo, không hiểu tình hình Phật Giáo Quốc Tế, chuyên xem tình hình hiện tại Phật Giáo Trung Quốc, tùy tiện phê bình Phật Giáo. Dưới đây là 2 quan điểm thường nghe nói đến:

(1). Tín Ngưỡng Quốc Gia Phật Giáo Sẽ Suy Vong:

Mọi người nghĩ rằng, Ấn Độ vì tin Đức Phật mới làm mất nước. Các vị ấy muốn Đất Nước Giàu Mạnh , thế là quyết đoán bừa bãi cho rằng không thể tín ngưỡng Phật Giáo. Kỳ thật, đây là điều hoàn toàn sai lầm. Nghiên cứu qua Lịch Sử Phật Giáo, đều biết quá khứ Ấn Độ, thời đại thịnh vượng giàu có nhất, cũng chính là thời đại thịnh vượng nhất Phật Giáo. Lúc đó, Vua A Dục của Vương Triều Khổng Tước thống nhất Ấn Độ, và đem Phật Giáo truyền bá đến toàn thế giới. Sau đó, Bà La Môn Giáo phục hưng, tàn phá Phật Giáo.Ấn Độ cũng chính lúc đó mỗi ngày một hỗn loạn. Khi Ấn Độ bị Hồi Giáo và Đế Quốc Anh diệt vong, Phật Giáo đã suy bại, thậm chí không còn hiện hữu nữa. Trong Lịch Sử Trung Quốc, cũng có vài thí dụ có thật này. Hiện tại gọi là Hoa Kiều biến thành Đường Nhân(con người Triều Đường), Trung Quốc đổi thành Đường Sơn, đây có thể thấy được sự cường thịnh của thế lực Nước Đường Triều Trung Quốc. Lúc đó, đúng là thời đại hưng thịnh nhất Phật Giáo, Đường Võ Tông phá hoại Phật Giáo, cũng chính là khiến cho Triều Đại Đường suy yếu. Sau Triều Đường, Tống Thái Tổ, Thái Tông, Chơn Tông, Nhân Tông, đều tôn sùng kính ngưỡng Phật Giáo, cũng chính là thời đại hưng thịnh của Triều Tống. Minh Thái Tổ, bản thân là Người Xuất Gia, Thái Tông cũng rất tin Phật, không những chính trị có kỷ cương, mà còn là thời đại thực lực của một quốc gia hưng thịnh. Nhật Bản hiện tai tuy rất thất bại, nhưng sau Thời Minh cai trị đổi mới, xếp vào hàng đầu của cường quốc Thế Giới. Nhân dân Nhật Bản đa sốtin tưởngphụng thờ Phật Giáo. Tin Phật, ai có thể nói khiến cho đất nước suy yếu? Cho nên, nhìn xem Lịch Sử mà nói, thời đại cường thịnh của thế lực đất nước chính là thời đại hưng thịnh của Phật Giáo. Tại sao, hy vọng sự giàu mạnh của đất nước Trung Quốc hiện đại, mà phản đối khởi xướng Phật Giáo?

(2). Phật Giáo Không Có Lợi Ích Đối Với Xã Hội:

Nhân Sĩ Trung Quốc cận đại, nhìn thấy Thiên Chúa Giáo, Cơ Đốc Giáo…vv, có những Học Viện, Trường Học mà Phật Giáo ít có tổ chức, liền cho rằng Phật Giáotiêu cực, không làm ích lợi cho xã hội, không có ích với xã hội. Đây là Ý kiến nghị luận sai lầm! Đa số chỉ có thể nói: Tín Đồ Phật Giáo Trung Quốc cận đại không nổ lực, không làm hết trách nhiệm. Nhất định không phải Phật Giáo cần chúng ta không làm. Phật Giáo Trung Quốc trong quá khứ, đại khái cũng có làm công việc Từ Thiện. Tín Đồ Phật Giáo Nhật Bản hiện đại, xây dựng nhiều trường Đại Học, Trung Học, có nhiều Vị Người Xuất Gia cũng làm Giáo Sư, Hiệu Trưởng của Trường Trung Học và Đại Học. Công việc Từ Thiện, cũng thường do Tăng Chúng Tự Viện chịu trách nhiệm chính. Đặc biệt, Tín Đồ Phật Giáo Thái Lan, Miến Điện, và Sri Lanka đều có thể duy trì quan hệ mật thiết với nền giáo dục, và làm công việc Từ Thiện. Cho nên không thể nói Phật Giáo không thể làm nhiều lợi ích thực sự cho xã hội, mà chỉ có thể nói, Tín Đồ Phật Giáo Trung Quốc nên cảm thấy tự mình không có trách nhiệm hết lòng với bổn phận Phật Tử của Đức Phật. Từ phương diện này nên hết sức nổ lực, mới phù hợp với Ý nghĩa nguồn gốc của Phật Giáo là cứu đời độ người, khiến cho Phật Giáo càng ngày càng phát đạt hơn.

Nhân Sĩ Trung Quốc nói chung, đối với Phật Giáo còn có nhiều quan điểm hiểu sai lầm. Hiện tại đã nói những điều đó tương đối phổ biến. Hy vọng mọi người đã hiểu biết Ý Nghĩa này, sau đó làm một người Tín Đồ Phật Giáoniềm tin đúng đắn, và cũng có thể loại trừ triệt để một vài hiểu lầm đối với Phật Giáo, khiến Ý nghĩa nguồn gốc của Phật Giáo thuần túy phát triển mạnh hơn. Nếu không, với cách nhìn thành tâm tín ngưỡng sai lầm về Phật Giáo, tin một cách mù quán, đây cũng khó tránh sự châm biếm của xã hội!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10249)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12231)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11526)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28680)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11926)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12897)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11340)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12256)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17276)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52689)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35367)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21207)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10585)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19086)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12304)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25828)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13205)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14269)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15956)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13625)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16708)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17402)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13014)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12429)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11521)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11470)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20258)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18812)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19417)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18491)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12185)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13740)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14885)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14953)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13860)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15413)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11296)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17017)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14827)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20041)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13746)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11629)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14933)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12884)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22749)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14471)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11541)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13077)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16775)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18237)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11857)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11410)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15713)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12788)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18782)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18258)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant