Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 5: Lợi Ích Học Phật

25 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 8208)
Phần 5: Lợi Ích Học Phật

HỌC PHẬT NÊN BIẾT
學佛須知
Dịch Việt: Thích Nguyên Thành

Phần V.

Lợi Ích Học Phật

Pháp Sư Kim Minh

 

Nhu cầu nhân loại, ngoài lương thực vật chất, còn cần lương thực tinh thần. Trong nhiều loại lương thực tinh thần, Phật Pháp là lương thực tinh thần tốt nhất. Người học Phật có thể đạt được nhiều lợi ích. Hiện tại, tôi muốn đề cặp những lợi ích trong học Phật, có 3 điểm lợi ích tương đối dễ hiểu là: 

  1. 1. Nhận Thức Nhân Sinh:

Con người từ lúc sanh ra đến già chết, bận rộn không biết bao nhiêu điều. Vì sao bận rộn? Nếu nói cuộc sống ăn mặc đi đứng, tất yếu phải có tiền, mới có thể giải quyết vấn đề cuộc sống. Như vậy, vấn đề cuộc sống ăn mặc đi đứng, sau khi đã giải quyết,thì không cần phải bận rộn nữa, nhưng người ta vẫn bận rộn. Bởi vì thời gian này, cuộc sống con người lại có nhu cầu tiến bộ. Vì để thỏa mãn ham muốn quá cao, cho nên lại cần phải liều mạng đi tìm kiếm. Nhưng “cuộc sống giống như con ông hút mật hoa, bay nam bay bắc, bay đông bay tây. Hút được trăm loài hoa, sau khi trở thành mật, hoàn toàn vất vả và vô ích”. Từ xưa đến nay con người luôn bận rộn, suốt ngày bận rộn hướng bên ngoài tìm kiếm, không nghĩ đến nghiên cứu những vấn đề này. Phật Pháp, là con thuyền từ bi trong biển cả mênh mông của con người. Dạy con người nhận thức kết quả cuối cùng của sanh tử là làm sao quay trở lại, bày tỏ chân đế cuộc sống, mang cuộc sống con người từ bờ phiền não bên này vận chuyển đến bờ an lạc bên kia.

Thời Triều Thanh Trung Quốc, Hoàng Đế Thuận Trị có nghiên cứu Phật Giáo. Ngài ao ước cuộc sống của Người Xuất Gia, muốn Xuất Gia tu hành, Ngài đã từng làm một bài kệ Ý vị thật sâu xa: “Vị từng sanh ngã thùy thị ngã? Sanh ngã chi thời ngã thị thùy? Trưởng đại thành nhân phương thị ngã, hiệp nhãn mông lung hựu thị thùy” (chưa từng sanh tôi, ai là tôi? khi tôi sinh ra, tôi là ai? lớn lên thành người mới là tôi? lờ mờ nhắm mắt lại là ai?)(Chưa sanh, ai chính là ta? Sanh rồi chẳng biết ta là ai đây? Lớn lên, Ta chính thân này? Rồi khi nhắm mắt bây giờ là ai?)  Bài kệ này, đã đề cập về vấn đề nhân sinh, sanh từ đâu đến, chết đi về đâu? Người hiểu được Phật Pháp, tuy đã làm Hoàng Đế, cũng đang tìm cầu nghiên cứu vấn đề nhân sinh. Người không hiểu được Phật Pháp, đã sinh sống cả cuộc đời trong sự hổn độn, đến trong mơ hồ, đi trong mơ hồ, từ xưa đến nay không biết nghĩ ra vấn đề này. Bài kệ này, đã đề cập toàn bộ quá trình trong cuộc sống con người, nhưng mà hai vấn đề quan trọng nhất là sanh tử: “chưa từng sanh tôi, ai là tôi”, đây là vấn đề sanh – sanh từ đâu đến? “lờ mờ nhắm mắt lại là ai”, đây là vấn đề tử - chết sẽ đi về đâu? Cần giải đáp hai vấn đề này, trước phải hiểu danh từ “Nghiệp Lực” của Phật Giáo.

“Nghiệp Lực”, Phạn Ngữ Ấn Độ gọi là Karma, Ngôn ngữ Pali gọi là kamma, Ý nghĩahành vi và tạo tác. Sau tất cả hành vi, động tác của chúng ta ban đầu, đều sẽ lưu lại một năng lực, tiềm ẩn ở bên trong tâm. Năng lực này, Phât Giáo gọi là Nghiệp Lực. Nghiệp Lực lưu trữ lại trong tâm, bám chặt không rời chúng ta, giống như bóng dáng đi theo thân thể của chúng ta. Nghiệp Lực này, từ tính chất của nó có thể phân ra Nghiệp Thiện và Nghiệp Ác. Nghiệp Thiện có thể quyết định sinh mạng của con người đi theo chỗ tốt đẹp, được hưởng thụ thích hợp. Nghiệp Ác có thể quyết định sinh mạng của con người đi theo chỗ tội tệ, gặp phải sự gập ghềnh.

Như vậy, cuộc sống con người, cuối cùng sanh từ đâu đến, chết đi về đâu? Nói đơn giản: sự sinh ra của con người là do nghiệp lực mà đến, chết thì theo nghiệp lực mà đi.

Phật Pháp thuyết minh Quả Báo Thiện Ác, có Lục Đạo Luân Hồi. Lục ĐạoThiên Đạo, Nhân Đạo, A Tu La Đạo, Địa Ngục Đạo, Ngạ Quỷ ĐạoSúc Sanh Đạo. Thiên Đạo, Nhân Đạo, A Tu La Đạo gọi là 3 con đường thiện, là chỗ tạo tác thiện nghiệp của con người; Địa Ngục Đạo,Ngạ Quỷ ĐạoSúc Sanh Đạo gọi là 3 con đường ác, là nơi tạo tác ác nghiệp của con người.

Chúng ta đã hiểu biết những qui luật này, cũng chính là có thể nhận thức được cuộc sống con người thật cao quí, vì con người là một trong 3 con đường thiện. Cuộc sống con người cuối cùng từ đâu đến? Không hề nghi ngờ, cuộc sống con người, là do nghiệp thiện mà đến. Như vậy, chết đi về đâu? Điều này, chính cần phải xem hành vi tạo tác hiện tại thế nào mà quyết định. Nếu như con người không làm các điều ác, thực hành các điều thiện, không những đạt được con đường nhân sinh mà còn có thể thăng tiến lên Thiên Đạo. Nếu các bạn từng bước một theo sự chỉ dẫn của giáo lí Đức Phật để tu hành con đường giải thoát, thì có thể vượt qua Lục Đạo Luân Hồi, giải thoát sanh tử, trở thành Bậc Thánh Giải Thoát. Giả như hành vi động tác của các bạn đa số đều làm xằng làm bậy, hại người lợi mình, như thế 3 con đường ác đương nhiên sẽ có một phần. Cho nên, sau khi đã hiểu rõ những qui luật này, bạn phải chọn một con đường nào để đi, tự mình sẽ có cơ sở chắc chắn nắm lấy nó, tiền đồ cuộc sống của bạn như thế nào, có thể là do chính bản thân bạn làm chủ.

  1. 2. Tịnh Hóa Nhân Sinh:

Bởi vì khoa học hiện đại phát triển mạnh, công nghệ thông tin phát đạt, xây dựng công xưởng khắp nơi, đã tạo thành không khí ô nhiễm, ảnh hưởng đến sức khỏe nhân loại, điều này người có tri thức khoa học đều biết. Nhưng không biết phiền não ô nhiễm nội tâm ảnh hưởng nghiêm trọng trong sự yên bình của tâm linh nhân loại. Song con người không chịu nghiên cứu Giáo Lí Đức Phật,hoặc rất ít hiểu biết Phật Pháp. Thời Triều Minh, Trung Quốc, một tiên sinh Nhà Lí Học, Vương Dương Minh, bởi vì Lí Học của ông đã tìm thấy trong giáo lí Đức Phật, cho nên ông liền hiểu biết, phiền não ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tâm linh nhân loại, khống chế tư tưởng nhân loại, do đó ông nói: “Sơn trung chi tặc dị trị, tâm trung chi tặc nan phòng”(tên giặc trong núi dễ trừng trị, tên giặc trong tâm khó đề phòng). Phiền não được hình dung là tên giặc. Điều này thuyết minh sự lợi hại của phiền não. Kỳ thật, tâm hồn chúng ta sở dĩ không thể an ổn, là vì phiền não đang quấy nhiễu, đang làm hại. Hành vi chúng ta sở dĩ làm trái với chân lí, cũng là phiền não đang xúi giục, đang nghiêm khắc đòi hỏi.

Trong Kinh Phật nói: “Phật thuyết chủng chủng pháp, vi trị chủng chủng tâm” (Đức Phật nói các loại pháp, vì điều trị các loại tâm). Tâm ở đây chính là chỉ phiền não trong tâm chúng ta.

Cuộc sống con người tràn đầy phiền não là do bị ô nhiễm, chưa hoàn hảo, đau khổ, không lí tưởng. Cho nên phải sửa đổi. Nhưng, làm thế nào để sửa đổi? Chính là cần phải làm trong sạch phiền não. Chúng ta học Phật, chính là được tắm gội trong lời giáo hóa của Đức Phật, dùng nước pháp của Phật Đà đến rửa ráy uế trược (cáu bẩn) nội tâm chúng ta. Chẳng khác nào uế trược phiền não nội tâm chúng ta được tẩy sạch. Như vậy, cuộc sống của người ô mhiễm, chưa hoàn hảo, đau khổ, không lí tưởng, chúng ta liền sửa đổi trở thành cuộc sống của người thanh tịnh, viên mãn, hạnh phúc, và lí tưởng.

Thời xưaẤn Độ, Nước Kiều Tát La có một Quốc Vương tên là Vua Ba Tư Nặc. Có một hôm, Vua Ba Tư Nặc đi tuần tra, trên đường gặp một Ông Lão, đầu tóc bạc phơ, trông hiển lộ ra tuổi tác rất già.

Quốc Vương hỏi Ông ấy rằng: “Ông năm nay bao nhiêu tuổi?”

Ông Lão không có suy nghĩ gì liền trả lời: “Bốn Tuổi”

Vua Tư Nặc cảm thấy ngạc nhiên. Ngài dường như không tin tưởng vào lỗ tai chính mình, do đó lại thò tay phải ra, và dơ lên bốn ngón tay, hướng đến Ông Lão hỏi rằng: “Ông mới bốn tuổi hả!”

Ông Lão gục đầu, khẳng định chứng thực rằng: “Không sai, tôi năm nay chính xác mới bốn tuổi”. Ông Lão biết Quốc Vương nhất định cảm thấy nghi ngờ, liền hướng đến Vua Ba Tư Nặc giải thích rằng:

“Trước kia, tôi không hiểu giáo Pháp Đức Phật, đã sống mấy chục năm, tư tưởng, hành vi đều bị phiền não nội tâm khống chế, làm rất nhiều việc tự mình cho rằng là đúng mà thực tại là sai. Trước bốn năm, tôi đã có cơ hội nghe được Phật Pháp, mới nhận thức cuộc sống con người. Qui Y Phật, thực hành theo giáo lí Phật Đà chỉ dạy, dựa vào Phật Pháp để sinh sống và làm trong sạch cuộc sống con người. Bốn năm gần đây, tôi mới nhận biết được mình thật sự là con người chân chính. Cho nên tôi năm nay mới bốn tuổi”.

Quốc Vương nghe qua lời nói của Ông Lão, thật cảm động! Gục đầu than rằng: “Ông Lão, Ngài nói rất đúng, làm một con người cần học Phật Pháp, dựa theo Giáo Pháp Đức Phật để làm người, mới coi như là con người chân chánh”.

  1. 3. Trang Nghiêm Nhân Sinh:

Từ “Trang Nghiêm”, Phật Giáo dùng để hình dung cái vẻ đẹp. Trang nghiêm nhân sinh (cuộc sống con người), cũng có thể nói chính là làm đẹp nhân sinh. Đẹp, có thể chia thành Hình Tướng đẹp và Nội Tại đẹp. Hình Tướng đẹp, thuộc về bên ngoài; Nội Tại đẹp, tức là chỉ đức tính bên trong của con người. Một người có hình tướng đẹp bên ngoài, mà không có đức tính đẹp bên trong, cái đẹp này vẫn còn khiếm khuyết, không hoàn hảo. Cho nên ngoài tướng đẹp bên ngoài ra, còn phải đầy đủ đức tính đẹp bên trong. Đức tính trong ngoài hoàn toàn đẹp, mới có thể gọi là trang nghiêm nhân sinh. Trang nghiêm nhân sinh, mới chính là con người có một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc và hoàn mĩ.

Phật Giáo là một Tôn Giáo đạo đức thực triển. Người học Phật cần phải thực hành những hành vi đạo đức của Phật Giáo đã chỉ dạy, như 5 Giới, 10 Giới, 4 Nhiếp Pháp, Lục Độ…vv để nuôi dưỡng đức tính nội tâm đầy đủ và trang nghiêm nhân sinh.

Thời xưa, ở Ấn Độ, có một Nhà Đại Từ Thiện(cấp cô độc), cưới được một cô dâu xinh đẹp tên là Ngọc Na Nữ. Người vợ tự cao tự đại về dung mạo xinh đẹp của mình, coi thường Bố Mẹ chồng và người trong gia đình.

Một hôm, Nhà Từ Thiện, mời Đức Phật đến nhà, muốn dạy bảo cô con dâu. Cô này lại cố ý trốn tránh, sau đó vì sự hiếu kỳ, từ bên trong rèm cửa lén nhìn Đức Phật. Cô ấy nhìn được tướng mạooai đức trang nghiêm của Đức Phật, quả thật đẹp hơn mình nhiều! Do đó, cô ấy tự động xuất hiện, hướng đến Đức Phật đảnh lễ. Đức Phật nói: “Ngọc Na, cô có dung mạo xinh đẹp, nếu phối hợp với hành vi tâm đoan chánh, đó chính là vẻ đẹp tuyệt vời. Nên biết, dung mạo xinh đẹp, chỉ là cái đẹp bên ngoài, hành vi đoan chánh, mới là cái đẹp bên trong. Con người đẹp chân chánh, cần phải hoàn toàn đẹp bên ngoài lẫn bên trong!”

Ngọc Na nghe qua lời khai thị của Đức Phật, tâm kiêu ngạo đã được tiêu trừ. Ngay lúc đó, cô xin Qui Y với Đức Phật. Đức Phật dạy cô thực hành những việc tốt, như Tam quy, Ngũ Giới,…vv. Để tăng thêm đức tính đẹp nội tâm, cô ấy dựa vào lời dạy của Đức Phật, lập chí làm một người đẹp chân chánh, nhờ đó cô trở thành một người vợ đoan chánh, một cô dâu hiếu thảo. .

Phật Pháp chỉ dẫn nhân sinh, khích lệ nhân sinh, cổ vũ nhân sinh. Ngoài học Phật có thể nhận thức nhân sinh, làm sạch nhân sinh, và trang nghiêm nhân sinh, còn có thể mang cuộc sống con người không được đẹp đẽ trọn vẹn, sửa đổi thành cuộc sống đẹp đẽ trọn vẹn. Từ trong cuộc sống con người mơ tưởng hão huyền, diễn biến thành cuộc sống con người giác ngộ. Từ cuộc sống con người sanh tử, tiến hóa thành cuộc sống con người giải thoát. Từ cuộc sống con người tình cảm phàm tục, thăng hoa thành cuộc sống con người trí tuệ của Bậc Thánh. Tóm lại, lợi ích học Phật, không thể nói hết được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10247)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12230)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11526)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28678)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11926)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12896)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11340)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12255)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17274)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52685)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35367)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21196)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10585)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19074)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12301)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25827)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13204)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14266)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15955)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13625)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16708)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17398)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13012)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12426)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11518)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11468)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14408)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20258)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18809)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19414)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18490)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12184)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13740)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14885)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14951)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13859)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15413)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11293)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17016)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14826)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20037)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13744)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11627)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14924)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12883)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22748)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14469)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11541)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13076)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16775)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18235)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11856)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11410)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15711)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12787)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18781)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18257)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant