Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật

23 Tháng Mười 201000:00(Xem: 19991)
Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật


KINH DI LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT


Hòa Thượng Thích Trung Quán dịch Việt

 

TÁN PHẬT

Nguyện đem lòng thành kính

Gởi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thệ trọn đời giữ đạo

Theo tự tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sinh

Cầu Phật từ gia hộ

Tâm bồ đề kiên cố

Xa bể khổ nguồn mê

Chóng quay về bờ giác

 

Ðấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời người

Cha lành chung bốn loài

Quy y trọn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận.

 

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta-Bà Giáo Chủ Ðiều-ngự Bổn-sư Thích Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thương Phật Bồ-tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực-Lạc thế-giới đại-từ đại bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán-Thế-Âm Bồ tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát, Ðại Nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-Tịnh Ðại Hải-Chúng Bồ-Tát. (1 lạy)

 

TÁN LƯ HƯƠNG

Hương thơm vừa đốt lên

Pháp giới đều thấm nhuần

Hải hội chư Phật đều xa hay

Theo chỗ kết mây lành

Lòng thành mới ân cần

Chư Phật đều hiện thân

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

 

KỆ KHAI KINH

Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng

Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được

Nay con thấy nghe được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

 

Phật nói Kinh Di Lặc Hạ Sinh Thành Phật

Chính tôi được nghe một thời Ðức Bạt Già Phạm ở thành Vương Xá, với chúng đại Tỳ Kheo.

Bấy giờ Ngài đại trí Xá Lợi Phất là bậc tối thắng trong hàng pháp tướng, thương xót thế gian, từ toà đứng lên, hở y vai bên phải, gối bên phải quỳ xuống đất, chắp tay cung kínhbạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Nay con có một ít chuyện muốn hỏi, xin Ðức Phật vui lòng nghe cho !

Phật bảo ông Xá Lợi Phất rằng : Tuỳ ngươi muốn hỏi, ta sẽ vì ông mà nói.

Bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất dùng bài kệ hỏi Ðức Thế Tôn rằng :

Ðại Sư đã thụ ký

Ðương lai Phật hạ sinh

Danh hiệuTừ Thị

Như trước sau Kinh nói.

Xin đấng Nhân Trung Tôn

Phân biệt lại lời tụng

Thần thông oai đức kia

Nay con muốn được nghe

Phật bảo Xá Lợi Phất !

Nên chí tâm nghe kỹ:

Ðương lai đấng Từ Thị

Vì người rộng tuyên nói

Bấy giờ nước biển lớn

Giảm dần đến ba ngàn

Hai trăm Du thiên na

Vì tỏ đường luân vương

Thiệm bộ châu ngang dọc

Cả vạn Du thiên na

Hữu tình ở trong đó

Xứ ấy đều xung mãn

Quốc độ đều giàu thịnh

Không hình phạt tai ách

Các con trai con gái

Ðều do nghiệp thiện sinh

Ðất không có gai gốc

Chỉ sinh cỏ xanh mềm

Chân đi đạp lên trên

Ví như vải tơ lụa

Tự nhiên mọc lúa thơm

Mùi ngon đều sung túc

Các cây sinh áo mặc

Tơ lựa đều trang nghiêm

Cây cao ba Câu xá

Hoa quả thường sung thực

Thời đó người trong nước

Ðều thọ tám vạn tuổi

Không có các bệnh khổ

Lìa não thường an lạc

Tướng đủ đều trang nghiêm

Sắc lực đều viên mãn

Người có ba thứ bệnh

Ăn suy già tiện lợi

Con gái năm trăm tuổi

Mới kết làm hôn nhân

Khi muốn đi tiện lợi

Ðất sé mà dung thụ

Mạng người sắp muốn hết

Tự đến rừng Thi lâm

Thành tên Diệu Tràng Tướng

Là đô của Luân Vương

Ngang mười hai do tuần

Rộng lượng bảy do tuần

Những người ở trong đó

Ðều từng trồng nhân lành

Thành này có thắng đức

Ở đây đều hoan hỉ

Lâu đài và khước địch

Dùng bảy báu làm nên

Ðóng khoá và môn đình

Ðều dung báu trang nghiêm

Tường vây quanh ao hào

Ðều làm bằng châu báu

Hoa đẹp đều sung mãn

Chim tốt đều bay đậu

Bảy hàng cây Ða la

Ðều mọc vây chung quanh

Các báu dùng trang nghiêm

Ðều treo lưới chuông báu

Vang ra những tiếng hay

Cũng như tấu bát âm

Nghe rồi sinh hoan hỉ

Nơi nơi có hồ ao

Ðầy tràn các thứ hoa

Vườn rừng mọc hoa thơm

Trang nghiêm cho thành quách

Trong nước có Thánh Chúa

Tên hiệu là Hướng Khư

Kim luân vương bốn châu

Giàu thịnh nhiều oai lực

Phước đức nghiệp của vua

Dũng mãnh gồm bốn binh

Bảy báu đều thành tựu

Ngàn con thảy đều đủ

Bốn biển đều thanh bình

Không có chiến binh đao

Chánh pháp dạy quần sinh

Giáo hoá đều bình đẳng

Vua có bốn kho tàng

Ðều ở trong các nước

Mỗi kho tàng đều có

Châu báu trăm muôn ức

Trong nước Yết Lăng Già

Có kho Băng Kiệt La

Trong nước Mật Si La

Có kho Bát Trục Ca

Kho Y La Bát La 

Ðể ở nước Kiện Ðà

Ở nước Ba Tư Nặc

Kho tên là Hướng Khư

Ðó là bốn kho tàn

Ðều thuộc vua Hướng Kh

Là của do trăm phước

Quả báo đều thành tựu

Quan đại thần giúp nước

Bà La Môn Thiện Tịnh

Bốn minh đều sáng suốt

Ða văn làm quốc sư

Bác thông các tạp luận

Thiện giáo hữu văn từ

Dạy giải các thanh minh

Không chẳng làu hiểu suốt

Cô gái tên Tịnh Diệu

Làm phu nhân đại thần

Tiếng khen tướng đoan nghiêm

Ai thấy đều vui mừng

Ðại trượng phu Từ Thị

Từ cõi trời Hỷ Túc

Sinh vào phu nhân kia

Mượn chỗ sinh thân mình

Bà mang thai đại Thánh

Ðược đầy đủ mười tháng

Ngày kia Từ Tôn mẫu

Ði đến vườn Diệu Hoa

Vào dạo vườn hoa đó

Chẳng ngồi cũng chẳng nằm

Sẽ vịn cành cây hoa

Chợt sinh đấng Từ Tôn

Khi đó đấng Tối Thắng

Ra bên hông phải mẹ

Như mặt trời tan mây

Khắp phóng đại quang minh

Chẳng nhiễm súc bào thai

Như sen vượt khỏi nước

Hào quang chiếu ba cõi

Ðều chiêm ngưỡng Ðại Từ

Ðương khi lúc giáng sinh

Thiên nhãn trời Ðế Thích

Tự thân rước Bồ Tát

Mừng gặp đấng Lưỡng Túc

Bồ Tát đương khi đó

Tự nhiên đi bảy bước

Mà ở dưới lót chân

Ðều mọc hoa sen báu

Xem khắp cả mười phương

Bảo các chúng trời người :

Thân ta đây cuối cùng

Vô sinh chứng Niết Bàn

Rồng mưa nước trong mát

Tắm gội thân Ðại Từ

Trời rải hoa đẹp lạ

Hư không gió nhẹ nhàng

Chư thiên mang lọng trắng

Cầm che Ðấng Từ Tôn

Ðều sinh tâm ít có

Giữ gìn cho Bồ Tát

Mẫu thân ẵm Bồ Tát

Ba mươi hai tướng tốt

Ðầy đủ các quang minh

Phụng trì trao từ mẫu

Ngự giá dâng xe vua

Ðều dùng báu trang nghiêm

Mẹ con đều lên xe

Chư thiên cùng đẩy xe

Ngàn thứ âm nhạc hay

Dẫn đường về hoàng cung

Tự Thị vào đô thành

Hoa trời rải như mưa

Ngày Từ Tôn giáng đản

Các phụ nữ mang thai

Thân đều được an ổn

Ðều sinh trai trí huệ

Thiện Tịnh cha Từ Tôn

Coi tướng con kỳ diệu

Ðủ ba mươi hai tướng

Lòng sinh đại hoan hỉ

Cha theo pháp chiêm đoán

Biết con có hai tướng :

Ở đời làm Luân Vương

Xuất gia thành Chánh Giác

Bồ Tát đã thành lập

Thương xót các quần sinh

Trong mọi khổ hiểm nạn

Luân hồi thường không ngừng

Sắc vàng quang minh sáng

Thanh âm như Ðại Phạm

Mắt như hoa sen xanh

Chi thể đều viên mãn

Thân dài tám mươi khửu

Vai rộng hai mươi khửu

Mặt rộng lượng nửa vai

Tướng trăng tròn đoan nghiêm

Bồ Tát biết mọi nghề

Khéo dạy thụ học ấy

Số trẻ nhỏ xin học

Tám vạn bốn ngàn người

Khi đó vua Hướng Khư

Kiến lập bảy tràng báu

Tràng cao bảy mươi tầm

Rộng khoảng sáu mươi tầm

Tràng báu tạo thành rồi

Vua phát tâm đại xả

Cho các Bà la môn

Thiết lập hội vô già

Khi đó các Phạm Chí

Số có một ngàn người

Ðược tràng báu đẹp đó

Khoảng chốc lát hư hoại

Bồ Tát thấy thế rồi

Nghĩ thế tục đều vậy

Sinh tử khổ trói buộc

Nghĩ cầu được xuất ly

Duy có đạo tịch diệt

Liền bỏ tục xuất gia

Trong sinh già bệnh chết

Cứu cho được thoát khỏi

Từ Tôn phát nguyện rằng :

Tám vạn bốn ngàn người

Ðều sinh tâm nhàm lìa

Cùng theo tu phạm hạnh

Lúc ban đầu phát tâm

Bỏ tục mà xuất gia

Ngay ở trong đêm đó

Thẳng lên ngôi Ðẳng Giác

Thời có cây bồ đề

Tên gọi là Long Hoa

Cao bốn Du thiên na

Um tùm xanh tươi tốt

Cành lá toả bốn bên

Che sáu Câu lư xá

Từ Thị Ðại Bi Tôn

Dưới cây thành Chánh Giác

Tối thắng nhất trong người

Ðủ tám tiếng phạm âm

Thuyết pháp độ chúng sinh

Khiến lìa các phiền não

Khổ và nơi khổ sinh

Tất cả đều trừ diệt

Hay tu Bát Chánh Ðạo

Lên bờ Niết Bàn kia

Vì các thanh tín sĩ

Nói đạo bốn Chân đế

Ðược nghe diệu pháp ấy

Chí thành mà phụng trì

Ở trong vườn Diệu Hoa

Các chúng như mây tụ

Ðầy trong trăm Do tuần

Quyến thuộc đều đầy dẫy

Vua Luân Vương Hướng Khư

Nghe pháp thâm diệu rồi

Xả hết các châu báu

Phát tâm xin xuất gia

Chẳng luyến tiếc cung điện

Chí cầu được thoát khỏi

Tám vạn bốn ngàn chúng

Ðều đi theo xuất gia

Lại tám vạn bốn ngàn

Ðồng tử Bà la môn

Nghe vua bỏ thế tục

Cũng đến cầu xuất gia

Trưởng giả chủ tạng thần

Tên gọi là Thiện Tài

Cùng với ngàn quyến thuộc

Cũng đến xin xuất gia

Nữ báu Tỳ Xá Khư

Và con các thị tùng

Tám vạn bốn ngàn người

Cũng đến cầu xuất gia

Lại hơn trăm ngàn số

Người thiện nam thiện nữ

Nghe Phật nói diệu pháp

Cũng đến cầu xuất gia

Ðấng hơn hết trời người

Ðại từ bi Thánh chúa

Khắp quán các tâm rồi

Bèn diễn nói pháp yếu

Bảo các người nên biết :

Từ Bi Thích Ca chúa

Dạy người tu chánh đạo

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc lấy hương tràng hoa

Phướng phan lọng nghiêm sức

Cúng dường Mâu Ni chúa

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc vật kim trầm thuỷ

Hương nê dùng bôi thoa

Cúng dường tháp Mâu Ni

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc quy Phật Pháp Tăng

Cung kính thường gần gũi

Nên tu các hạnh lành

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc ở trong Phật pháp

Thụ trì theo chỗ học

Khéo giữ không khuyết phạm

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc trong bốn phương Tăng

Cúng y phục ăn uống

Gồm cả thuốc thang hay

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc trong bốn thời chay

Và ở thần thông nguyệt

Thụ trì tám chi giới

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc dùng ba thứ thông

Thần cảnh ký truyền dạy

Hoá đạo chúng Thanh Văn

Khiến trừ hết phiền hoặc

Hội đầu vì thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi sáu ức người

Khiến khỏi chướng phiền não

Hội thứ hai thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi bốn ức người

Khiến qua biển vô minh

Hội thứ ba thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi hai ức người

Khiến tâm khéo điều phục

Ba lần nói pháp rồi

Trời người đều thuần tịnh

Dẫn các chúng đệ tử

Khất thực ở trong thành

Ðã vào thành Diệu Tràng

Ðường xá đều nghiêm sức

cúng dường Phật vậy

Trời mưa hoa Mạn đà

Tứ vương và Phạm Vương

Cùng với các thiên chúng

Dâng hương hoa cúng dường

Ðấng Ðại Từ Bi Tôn

Ðại oai đức chư thiên

Tán rải y phục đẹp

Chung quanh khắp thành ấp

Chiêm ngưỡng Ðại y vương

Dùng báu đẹp hương hoa

Rải trên các đường xá

Dùng để đi ở trên

Ví như bông tơ lụa

Âm thanhtràng phan

Bày hàng hai bên đường

Trời người chúng Ðế Thích

Khen ngợi đấng Ðại Từ

Nam Mô Thiên Thượng Tôn

Nam Mô Sĩ Trung Thắng

Lành thay Bạt Già Phạm !

Hay thương xót thế gian

Có trời Ðại Bi Ðức

Ðương làm vua chúng ma

Quy tâm chắp tay lễ

Chiêm ngưỡng đức Ðạo Sư

Phạm Vương các thiên chúng

Quyến thuộc mà vây quanh

Ðều dùng tiếng Phạm âm

Xiển dương pháp vi diệu

Ở trong thế giới này

Phần nhiều A la hán

Từ bỏ nghiệp hữu lậu

Xa lìa khổ phiền não

Trời người chúng long thần

Càn Thát A tu la

La SátDược Xoa

Ðều hoan hỉ cúng dường

Khi đó các đại chúng

Dứt chướng trừ nghi hoặc

Vượt qua dòng sinh tử

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Thời đó các đại chúng

Lìa trược bỏ của báu

Vô ngã, ngã sở tâm

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Thời đó các đại chún

Phá tan lưới tham ái

Viên mãn tâm vắng lặng

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Ðấng Từ Thị trời người

Thương xót loài hữu tình

Sống lâu sáu vạn tuổi

Thuyết pháp độ chúng sinh

Hoá đủ trăm ngàn ức

Khiến qua biển phiền não

Có duyên đều cứu vớt

Mời vào cõi Niết Bàn

Ðấng Từ Thị Ðại Bi

Sau khi vào Niết Bàn

Chánh pháp ở lại đời

Cũng đủ sáu muôn năm

Nếu ở trong pháp ta

Tin sâu mà thọ trì

Ðương lai ngày hạ sinh

Phụng thờ đấng Ðại Bi

Nếu có thông tuệ ấy

Nghe nói việc như thế

Ai chẳng khỏi ham vui

Nguyện gặp đấng Từ Thị

Nếu người cầu giải thoát

Mong gặp hội Long Hoa

Thường cúng dường Tam Bảo

Siêng tu đừng phóng dật.

Bấy giờ Ðức Thế Tôn vì ông Xá Lợi Phấtđại chúng nói việc đương lai đức Từ Thị rồi. Lại bảo Xá Lợi Phất rằng : Nếu có người thiện nam thiện nữ nghe pháp nầy rồi, thọ trì đọc tụng, vì người khác diễn nói, theo như trong Kinh mà tu hành, dùng hương hoa cúng dường, viết chép Kinh điển, thì những người đó, đời đương lai sẽ được gặp đấng Từ Thị hạ sinh, ở trong ba hội được nhờ ơn cứu độ.

Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn nói bài kệ xong, Xá Lợi Phấtđại chúng hoan hỉ tin thọ phụng hành.

Ðại từ đại bi thương chúng sinh

Ðại hỉ đại xả cứu muôn loài

Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm

Chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (108 lần)

Na Mô Di Lặc Tôn Phật. (108 lần)

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Ðại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)

 

HỒI HƯỚNG

Tụng Kinh công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng 

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

Chín phẩm hoa sencha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ Tát bất thối làm bạn lành

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Ðệ tử và chúng sinh

Ðều trọn thành Phật đạo.

 

Tam quy y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng Kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

 

Nguyện đem công đức nầy

Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh

Trên đền bốn ân nặng

Dưới cứu ba đường khổ

Nếu có ai thấy nghe

Liền phát tâm bồ đề

Khi xả báo thân nầy

Ðồng sinh về Cực Lạc.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11620)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11928)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11098)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12057)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12548)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10756)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17966)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10165)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12341)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15327)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11226)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14318)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12087)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15334)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14790)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12659)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16535)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19629)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12648)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12245)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11829)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10886)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13484)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11936)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11833)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11621)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12753)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15652)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13601)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12882)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9854)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18001)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9062)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12160)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13032)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10287)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12176)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15287)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16580)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12198)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11459)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14257)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19677)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24580)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10674)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant