Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật

23 Tháng Mười 201000:00(Xem: 20007)
Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật


KINH DI LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT


Hòa Thượng Thích Trung Quán dịch Việt

 

TÁN PHẬT

Nguyện đem lòng thành kính

Gởi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thệ trọn đời giữ đạo

Theo tự tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sinh

Cầu Phật từ gia hộ

Tâm bồ đề kiên cố

Xa bể khổ nguồn mê

Chóng quay về bờ giác

 

Ðấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời người

Cha lành chung bốn loài

Quy y trọn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận.

 

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta-Bà Giáo Chủ Ðiều-ngự Bổn-sư Thích Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thương Phật Bồ-tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực-Lạc thế-giới đại-từ đại bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán-Thế-Âm Bồ tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát, Ðại Nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-Tịnh Ðại Hải-Chúng Bồ-Tát. (1 lạy)

 

TÁN LƯ HƯƠNG

Hương thơm vừa đốt lên

Pháp giới đều thấm nhuần

Hải hội chư Phật đều xa hay

Theo chỗ kết mây lành

Lòng thành mới ân cần

Chư Phật đều hiện thân

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

 

KỆ KHAI KINH

Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng

Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được

Nay con thấy nghe được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

 

Phật nói Kinh Di Lặc Hạ Sinh Thành Phật

Chính tôi được nghe một thời Ðức Bạt Già Phạm ở thành Vương Xá, với chúng đại Tỳ Kheo.

Bấy giờ Ngài đại trí Xá Lợi Phất là bậc tối thắng trong hàng pháp tướng, thương xót thế gian, từ toà đứng lên, hở y vai bên phải, gối bên phải quỳ xuống đất, chắp tay cung kínhbạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Nay con có một ít chuyện muốn hỏi, xin Ðức Phật vui lòng nghe cho !

Phật bảo ông Xá Lợi Phất rằng : Tuỳ ngươi muốn hỏi, ta sẽ vì ông mà nói.

Bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất dùng bài kệ hỏi Ðức Thế Tôn rằng :

Ðại Sư đã thụ ký

Ðương lai Phật hạ sinh

Danh hiệuTừ Thị

Như trước sau Kinh nói.

Xin đấng Nhân Trung Tôn

Phân biệt lại lời tụng

Thần thông oai đức kia

Nay con muốn được nghe

Phật bảo Xá Lợi Phất !

Nên chí tâm nghe kỹ:

Ðương lai đấng Từ Thị

Vì người rộng tuyên nói

Bấy giờ nước biển lớn

Giảm dần đến ba ngàn

Hai trăm Du thiên na

Vì tỏ đường luân vương

Thiệm bộ châu ngang dọc

Cả vạn Du thiên na

Hữu tình ở trong đó

Xứ ấy đều xung mãn

Quốc độ đều giàu thịnh

Không hình phạt tai ách

Các con trai con gái

Ðều do nghiệp thiện sinh

Ðất không có gai gốc

Chỉ sinh cỏ xanh mềm

Chân đi đạp lên trên

Ví như vải tơ lụa

Tự nhiên mọc lúa thơm

Mùi ngon đều sung túc

Các cây sinh áo mặc

Tơ lựa đều trang nghiêm

Cây cao ba Câu xá

Hoa quả thường sung thực

Thời đó người trong nước

Ðều thọ tám vạn tuổi

Không có các bệnh khổ

Lìa não thường an lạc

Tướng đủ đều trang nghiêm

Sắc lực đều viên mãn

Người có ba thứ bệnh

Ăn suy già tiện lợi

Con gái năm trăm tuổi

Mới kết làm hôn nhân

Khi muốn đi tiện lợi

Ðất sé mà dung thụ

Mạng người sắp muốn hết

Tự đến rừng Thi lâm

Thành tên Diệu Tràng Tướng

Là đô của Luân Vương

Ngang mười hai do tuần

Rộng lượng bảy do tuần

Những người ở trong đó

Ðều từng trồng nhân lành

Thành này có thắng đức

Ở đây đều hoan hỉ

Lâu đài và khước địch

Dùng bảy báu làm nên

Ðóng khoá và môn đình

Ðều dung báu trang nghiêm

Tường vây quanh ao hào

Ðều làm bằng châu báu

Hoa đẹp đều sung mãn

Chim tốt đều bay đậu

Bảy hàng cây Ða la

Ðều mọc vây chung quanh

Các báu dùng trang nghiêm

Ðều treo lưới chuông báu

Vang ra những tiếng hay

Cũng như tấu bát âm

Nghe rồi sinh hoan hỉ

Nơi nơi có hồ ao

Ðầy tràn các thứ hoa

Vườn rừng mọc hoa thơm

Trang nghiêm cho thành quách

Trong nước có Thánh Chúa

Tên hiệu là Hướng Khư

Kim luân vương bốn châu

Giàu thịnh nhiều oai lực

Phước đức nghiệp của vua

Dũng mãnh gồm bốn binh

Bảy báu đều thành tựu

Ngàn con thảy đều đủ

Bốn biển đều thanh bình

Không có chiến binh đao

Chánh pháp dạy quần sinh

Giáo hoá đều bình đẳng

Vua có bốn kho tàng

Ðều ở trong các nước

Mỗi kho tàng đều có

Châu báu trăm muôn ức

Trong nước Yết Lăng Già

Có kho Băng Kiệt La

Trong nước Mật Si La

Có kho Bát Trục Ca

Kho Y La Bát La 

Ðể ở nước Kiện Ðà

Ở nước Ba Tư Nặc

Kho tên là Hướng Khư

Ðó là bốn kho tàn

Ðều thuộc vua Hướng Kh

Là của do trăm phước

Quả báo đều thành tựu

Quan đại thần giúp nước

Bà La Môn Thiện Tịnh

Bốn minh đều sáng suốt

Ða văn làm quốc sư

Bác thông các tạp luận

Thiện giáo hữu văn từ

Dạy giải các thanh minh

Không chẳng làu hiểu suốt

Cô gái tên Tịnh Diệu

Làm phu nhân đại thần

Tiếng khen tướng đoan nghiêm

Ai thấy đều vui mừng

Ðại trượng phu Từ Thị

Từ cõi trời Hỷ Túc

Sinh vào phu nhân kia

Mượn chỗ sinh thân mình

Bà mang thai đại Thánh

Ðược đầy đủ mười tháng

Ngày kia Từ Tôn mẫu

Ði đến vườn Diệu Hoa

Vào dạo vườn hoa đó

Chẳng ngồi cũng chẳng nằm

Sẽ vịn cành cây hoa

Chợt sinh đấng Từ Tôn

Khi đó đấng Tối Thắng

Ra bên hông phải mẹ

Như mặt trời tan mây

Khắp phóng đại quang minh

Chẳng nhiễm súc bào thai

Như sen vượt khỏi nước

Hào quang chiếu ba cõi

Ðều chiêm ngưỡng Ðại Từ

Ðương khi lúc giáng sinh

Thiên nhãn trời Ðế Thích

Tự thân rước Bồ Tát

Mừng gặp đấng Lưỡng Túc

Bồ Tát đương khi đó

Tự nhiên đi bảy bước

Mà ở dưới lót chân

Ðều mọc hoa sen báu

Xem khắp cả mười phương

Bảo các chúng trời người :

Thân ta đây cuối cùng

Vô sinh chứng Niết Bàn

Rồng mưa nước trong mát

Tắm gội thân Ðại Từ

Trời rải hoa đẹp lạ

Hư không gió nhẹ nhàng

Chư thiên mang lọng trắng

Cầm che Ðấng Từ Tôn

Ðều sinh tâm ít có

Giữ gìn cho Bồ Tát

Mẫu thân ẵm Bồ Tát

Ba mươi hai tướng tốt

Ðầy đủ các quang minh

Phụng trì trao từ mẫu

Ngự giá dâng xe vua

Ðều dùng báu trang nghiêm

Mẹ con đều lên xe

Chư thiên cùng đẩy xe

Ngàn thứ âm nhạc hay

Dẫn đường về hoàng cung

Tự Thị vào đô thành

Hoa trời rải như mưa

Ngày Từ Tôn giáng đản

Các phụ nữ mang thai

Thân đều được an ổn

Ðều sinh trai trí huệ

Thiện Tịnh cha Từ Tôn

Coi tướng con kỳ diệu

Ðủ ba mươi hai tướng

Lòng sinh đại hoan hỉ

Cha theo pháp chiêm đoán

Biết con có hai tướng :

Ở đời làm Luân Vương

Xuất gia thành Chánh Giác

Bồ Tát đã thành lập

Thương xót các quần sinh

Trong mọi khổ hiểm nạn

Luân hồi thường không ngừng

Sắc vàng quang minh sáng

Thanh âm như Ðại Phạm

Mắt như hoa sen xanh

Chi thể đều viên mãn

Thân dài tám mươi khửu

Vai rộng hai mươi khửu

Mặt rộng lượng nửa vai

Tướng trăng tròn đoan nghiêm

Bồ Tát biết mọi nghề

Khéo dạy thụ học ấy

Số trẻ nhỏ xin học

Tám vạn bốn ngàn người

Khi đó vua Hướng Khư

Kiến lập bảy tràng báu

Tràng cao bảy mươi tầm

Rộng khoảng sáu mươi tầm

Tràng báu tạo thành rồi

Vua phát tâm đại xả

Cho các Bà la môn

Thiết lập hội vô già

Khi đó các Phạm Chí

Số có một ngàn người

Ðược tràng báu đẹp đó

Khoảng chốc lát hư hoại

Bồ Tát thấy thế rồi

Nghĩ thế tục đều vậy

Sinh tử khổ trói buộc

Nghĩ cầu được xuất ly

Duy có đạo tịch diệt

Liền bỏ tục xuất gia

Trong sinh già bệnh chết

Cứu cho được thoát khỏi

Từ Tôn phát nguyện rằng :

Tám vạn bốn ngàn người

Ðều sinh tâm nhàm lìa

Cùng theo tu phạm hạnh

Lúc ban đầu phát tâm

Bỏ tục mà xuất gia

Ngay ở trong đêm đó

Thẳng lên ngôi Ðẳng Giác

Thời có cây bồ đề

Tên gọi là Long Hoa

Cao bốn Du thiên na

Um tùm xanh tươi tốt

Cành lá toả bốn bên

Che sáu Câu lư xá

Từ Thị Ðại Bi Tôn

Dưới cây thành Chánh Giác

Tối thắng nhất trong người

Ðủ tám tiếng phạm âm

Thuyết pháp độ chúng sinh

Khiến lìa các phiền não

Khổ và nơi khổ sinh

Tất cả đều trừ diệt

Hay tu Bát Chánh Ðạo

Lên bờ Niết Bàn kia

Vì các thanh tín sĩ

Nói đạo bốn Chân đế

Ðược nghe diệu pháp ấy

Chí thành mà phụng trì

Ở trong vườn Diệu Hoa

Các chúng như mây tụ

Ðầy trong trăm Do tuần

Quyến thuộc đều đầy dẫy

Vua Luân Vương Hướng Khư

Nghe pháp thâm diệu rồi

Xả hết các châu báu

Phát tâm xin xuất gia

Chẳng luyến tiếc cung điện

Chí cầu được thoát khỏi

Tám vạn bốn ngàn chúng

Ðều đi theo xuất gia

Lại tám vạn bốn ngàn

Ðồng tử Bà la môn

Nghe vua bỏ thế tục

Cũng đến cầu xuất gia

Trưởng giả chủ tạng thần

Tên gọi là Thiện Tài

Cùng với ngàn quyến thuộc

Cũng đến xin xuất gia

Nữ báu Tỳ Xá Khư

Và con các thị tùng

Tám vạn bốn ngàn người

Cũng đến cầu xuất gia

Lại hơn trăm ngàn số

Người thiện nam thiện nữ

Nghe Phật nói diệu pháp

Cũng đến cầu xuất gia

Ðấng hơn hết trời người

Ðại từ bi Thánh chúa

Khắp quán các tâm rồi

Bèn diễn nói pháp yếu

Bảo các người nên biết :

Từ Bi Thích Ca chúa

Dạy người tu chánh đạo

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc lấy hương tràng hoa

Phướng phan lọng nghiêm sức

Cúng dường Mâu Ni chúa

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc vật kim trầm thuỷ

Hương nê dùng bôi thoa

Cúng dường tháp Mâu Ni

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc quy Phật Pháp Tăng

Cung kính thường gần gũi

Nên tu các hạnh lành

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc ở trong Phật pháp

Thụ trì theo chỗ học

Khéo giữ không khuyết phạm

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc trong bốn phương Tăng

Cúng y phục ăn uống

Gồm cả thuốc thang hay

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc trong bốn thời chay

Và ở thần thông nguyệt

Thụ trì tám chi giới

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc dùng ba thứ thông

Thần cảnh ký truyền dạy

Hoá đạo chúng Thanh Văn

Khiến trừ hết phiền hoặc

Hội đầu vì thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi sáu ức người

Khiến khỏi chướng phiền não

Hội thứ hai thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi bốn ức người

Khiến qua biển vô minh

Hội thứ ba thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi hai ức người

Khiến tâm khéo điều phục

Ba lần nói pháp rồi

Trời người đều thuần tịnh

Dẫn các chúng đệ tử

Khất thực ở trong thành

Ðã vào thành Diệu Tràng

Ðường xá đều nghiêm sức

cúng dường Phật vậy

Trời mưa hoa Mạn đà

Tứ vương và Phạm Vương

Cùng với các thiên chúng

Dâng hương hoa cúng dường

Ðấng Ðại Từ Bi Tôn

Ðại oai đức chư thiên

Tán rải y phục đẹp

Chung quanh khắp thành ấp

Chiêm ngưỡng Ðại y vương

Dùng báu đẹp hương hoa

Rải trên các đường xá

Dùng để đi ở trên

Ví như bông tơ lụa

Âm thanhtràng phan

Bày hàng hai bên đường

Trời người chúng Ðế Thích

Khen ngợi đấng Ðại Từ

Nam Mô Thiên Thượng Tôn

Nam Mô Sĩ Trung Thắng

Lành thay Bạt Già Phạm !

Hay thương xót thế gian

Có trời Ðại Bi Ðức

Ðương làm vua chúng ma

Quy tâm chắp tay lễ

Chiêm ngưỡng đức Ðạo Sư

Phạm Vương các thiên chúng

Quyến thuộc mà vây quanh

Ðều dùng tiếng Phạm âm

Xiển dương pháp vi diệu

Ở trong thế giới này

Phần nhiều A la hán

Từ bỏ nghiệp hữu lậu

Xa lìa khổ phiền não

Trời người chúng long thần

Càn Thát A tu la

La SátDược Xoa

Ðều hoan hỉ cúng dường

Khi đó các đại chúng

Dứt chướng trừ nghi hoặc

Vượt qua dòng sinh tử

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Thời đó các đại chúng

Lìa trược bỏ của báu

Vô ngã, ngã sở tâm

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Thời đó các đại chún

Phá tan lưới tham ái

Viên mãn tâm vắng lặng

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Ðấng Từ Thị trời người

Thương xót loài hữu tình

Sống lâu sáu vạn tuổi

Thuyết pháp độ chúng sinh

Hoá đủ trăm ngàn ức

Khiến qua biển phiền não

Có duyên đều cứu vớt

Mời vào cõi Niết Bàn

Ðấng Từ Thị Ðại Bi

Sau khi vào Niết Bàn

Chánh pháp ở lại đời

Cũng đủ sáu muôn năm

Nếu ở trong pháp ta

Tin sâu mà thọ trì

Ðương lai ngày hạ sinh

Phụng thờ đấng Ðại Bi

Nếu có thông tuệ ấy

Nghe nói việc như thế

Ai chẳng khỏi ham vui

Nguyện gặp đấng Từ Thị

Nếu người cầu giải thoát

Mong gặp hội Long Hoa

Thường cúng dường Tam Bảo

Siêng tu đừng phóng dật.

Bấy giờ Ðức Thế Tôn vì ông Xá Lợi Phấtđại chúng nói việc đương lai đức Từ Thị rồi. Lại bảo Xá Lợi Phất rằng : Nếu có người thiện nam thiện nữ nghe pháp nầy rồi, thọ trì đọc tụng, vì người khác diễn nói, theo như trong Kinh mà tu hành, dùng hương hoa cúng dường, viết chép Kinh điển, thì những người đó, đời đương lai sẽ được gặp đấng Từ Thị hạ sinh, ở trong ba hội được nhờ ơn cứu độ.

Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn nói bài kệ xong, Xá Lợi Phấtđại chúng hoan hỉ tin thọ phụng hành.

Ðại từ đại bi thương chúng sinh

Ðại hỉ đại xả cứu muôn loài

Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm

Chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (108 lần)

Na Mô Di Lặc Tôn Phật. (108 lần)

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Ðại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)

 

HỒI HƯỚNG

Tụng Kinh công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng 

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

Chín phẩm hoa sencha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ Tát bất thối làm bạn lành

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Ðệ tử và chúng sinh

Ðều trọn thành Phật đạo.

 

Tam quy y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng Kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

 

Nguyện đem công đức nầy

Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh

Trên đền bốn ân nặng

Dưới cứu ba đường khổ

Nếu có ai thấy nghe

Liền phát tâm bồ đề

Khi xả báo thân nầy

Ðồng sinh về Cực Lạc.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12494)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10380)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12345)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11642)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28802)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12049)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13008)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11442)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12373)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17441)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53036)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35485)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21392)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12404)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26040)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13314)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14379)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16083)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13727)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16837)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17581)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13126)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12529)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11607)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11617)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14505)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20479)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18990)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19564)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18651)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12182)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12312)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13859)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15029)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15036)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15512)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11401)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17192)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14976)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20195)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14612)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13837)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11708)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15059)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12997)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22871)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11649)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13169)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18341)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11939)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11498)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15850)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12881)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18904)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18421)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant