Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương một

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9761)
Chương một

KINH KIM CANG CHƯ GIA

NGŨ THẬP TAM GIA:

1. Bách Trượng Hải Thiền sư.

2. Bàng Uẩn Cư sĩ

3. Bảo Ninh Dõng Thiền sư.

4. Bửu Tích Như Lai.

5. Cổ Đức Thiền sư.

6. Châu Sử Khanh Chơn nhơn.

7. Chơn Tịnh Văn Thiền sư.

8. Đạt Ma Đại sư.

9. Đồng Quan Sát Thiền sư.

10. Hải Giác Nguyên Thiền sư

11. Huyền Tông Hoàng đế.

12. Huỳnh Nghiệt Vận Thiền sư.

13. Kỳ Thiền sư.

14. Kim Hải Quang Như Lai.

15. Kỉnh San Kiểu Thiền sư.

16. Khuê Phong Thiền sư.

17. Lâm Tế Đại sư.

18. Lý Văn Hội Cư sĩ.

19. Lục Tổ Đại sư.

20. Lưu Đẩu Đại sư.

21. Mã Tổ Đại sư.

22. Nam Tuyền Nguyện Thiền sư.

23. Ngũ Tổ Đại sư.

24. Nhan Bính Như Như Cư sĩ.

25. Nhựt Nguyệt Quang Như Lai.

26. Pháp Thường Mãn Như Lai.

27. Phó Đại sĩ.

28. Qui Tông Thiền sư.

29. Tạ Linh Vận.

30. Tăng Nhược Nột Thiền sư.

31. Tăng Liễu Tánh Vân Am Thiền sư.

32. Tăng Triệu Pháp sư.

33. Tăng Tử Vinh Phú Sa Thiền sư.

34. Tăng Vi Từ Am Thiền sư.

35. Tiêu Diêu Ông.

36. Tiên Du Ông.

37. Tổ Ấn Minh Thiền sư.

38. Tông Mật Thiền sư.

39. Tự Tại Lực Vương Như Lai.

40. Tứ Tổ Nhẫn Đại sư

41. Từ Thọ Thâm Thiền sư.

42. Thái Dương Huyền Thiền sư.

43. Thiên Thai Trí Nghĩa Đại sư.

44. Thông Vương Như Lai.

45. Trần Hùng Cư sĩ.

46. Triều Văn Nguyên Cư sĩ.

47. Trương Vô Tận Cư sĩ.

48. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

49. Viên Ngộ Thiền sư.

50. Vĩnh Gia Đại sư.

51. Vô Danh Thị.

52. Vương Nhựt Hưu Cư sĩ.

53. Xuyên Thiền sư (Giả phủ).

 

*************


KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

ÂM :

 Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh.

NGHĨA :

 Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.

 

Giải - Tiên Du Ông Tập Anh giải: Kim Cang  là chất cứng bén (thép) trong loại kim. Chất thép sanh trong loại kim dầu nhồi luyện cả trăm phen cũng chẳng hề hao kém. Dùng sức chắc bén ấy mới chặt đứt muôn vật đặng.

Năm loại kim, cũng đều gọi chung là Kim ([61]). Phàm nói riêng một tiếng kim tức là sắc. Kim Cang nói đây là, như gươm đao có thép bén, ví dụ với trí huệ, hay dứt tuyệt cả thảy tà kiến điên đảo của tham, sân, si.

Tiếng Phạm: Bát Nhã, Tàu dịch Trí Huệ ([62]) Tánh thể sáng suốt xét soi tự tại; cho nên nói: Bát Nhã.

Ba La Mật: Đáo bỉ ngạn là đến bờ kia (chỗ Phật). Muốn đến bờ kia phải dùng thuyền Bát Nhã.

Bờ này (chỗ chúng sanh) là cảnh của chúng sanh gây nghiệp chịu sự khổ sanh tử luân hồi; còn bờ kia là cảnh của chư Phật cùng Bồ Tát đã ráo rốt ([63]) siêu thoát thanh tịnh an vui. Phàm phu là bờ này. Phật đạo là bờ kia. Một niệm dữ là bờ này, một niệm lành là bờ kia.

Sáu đường ([64]) như biển khổ, không thuyền thì không thể qua. Phải dùng trí Bát Nhã cùng pháp "Lục độ" ([65]) mà làm thuyền, mới qua khỏi đặng.

Lại nữa, tục ngữ bên Thiên Trước: "Phàm việc chi đã làm đặng rồi, đều gọi là Ba La Mật".

Kinh: nghĩa là "Đường tắt". Kinh này là con đường tắt để học Phật.

Xung Ứng Chơn Nhơn, Châu Sử Khanh làm lời chơn tán ông Dương Á Phu có giải: Sắt là một vật sanh ở trong khoán, khí thành sắt, tánh cứng mà hình thể chẳng biến, dùng lửa thép ra, thì làm nên các món, cho nên Phật lấy Kim Cang thí dụ.

Lại nhơn dịp người anh của Ông (Xung Ứng) xem kinh Viên Giác, đưa cho coi mà nói: Cổ nhơn có nói rằng:

"Xanh xanh tre sậm, vốn thiệt Chơn như, "

"Mởn mởn hoa vàng há không Bát Nhã!".

Chơn như, tre sậm một loài, bởi không nhiễm (sắc, thinh, hương, vị).

Bát Nhã, hoa vàng một thể, vì chẳng chấp "kiến, văn, giác, tri".

Trần Hùng giải: Ba la mật có sáu pháp: Hoặc "Bố thí" hoặc "Trì giới", hoặc "Nhẫn nhục", hoặc "Tinh tấn", hoặc "Thiền định"  đều chiếm một phần trong  Lục độ. Duy có một pháp "Bát Nhã" hay sanh tám muôn bốn ngàn (84.000) "Trí huệ", thì sáu độ gồm đủ, muôn hạnh vẹn toàn. Cho nên Như Lai dùng cái đục Trí huệ xoi núi  nhơn ngã, dùng sức Trí huệ khai khoán "phiền não", dùng lửa Trí huệ thép nên vàng trong "Phật tánh".

Vả lại gieo căn lành, trước phải tụng Kinh, sau mới tỏ lý. Đặng sức bền chặt, tức là Kim Cang. Đủ Trí huệ lớn tức là Bát Nhã. Độ khỏi biển sanh tử, đến bờ "Bồ đề", tức là Ba la mật.

Ngũ Tổ Đại sư hằng khuyên kẻ Tăng người tục: "Chỉ nên trì "Kinh Kim Cang", tức đặng "kiến Tánh thành Phật".

Lục Tổ Đại sư, một đêm nghe Ngũ Tổ thuyết pháp, đến câu: "Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" (sanh tâm không trụ chấp), vừa dứt lời liền tỏ ngộ.

Như thế mới là bực Thượng thừa đốn giáo  cho.

Nhan Bính giải : Duy có một quyển kinh này, chúng sanh sáu đường mỗi mỗi đều có đủ trong tánh. Bởi sau khi có thân rồi, vọng sanh sáu căn ([66]),sáu trần[67]), chôn lấp một điểm "Linh quang", trọn ngày mờ mờ, chẳng biết chẳng tỏ. Cho nên Phật ta mới mở lòng "Từ Bi", nguyện cứu vớt cả thảy chúng sanh, đồng qua khỏi biển khổ, đồng chứng đặng quả Bồ đề. (

Nên chi, Phật ở tại nước Xá Vệ thuyết kinh này, đại ý: Chỉ vì người mà phá mê, mở trói; bấy giờ liền tỏ thấy cái tự tánh.

Tự tánh đặng bền chặt, muôn kiếp chẳng hoại, cũng như cái tánh cứng chắc của loại kim vậy.

Lý Văn Hội giải: Kim Cang là vật chắc bén, hay phá nát muôn vật. Bát Nhã: Trí huệ, hay phá đặng cả thảy  phiền não, đổi thành diệu dụng.

Ba la mật: Đáo bỉ ngạn. Chẳng chấp các tướng là "bờ kia", bằng chấp các tướng là "bờ này".

 Lại nói : Lòng mê là "bờ này", lòng ngộ là "bờ kia".

Kinh"Đường", là con đường tắt để "kiến tánh".

ÂM :

 Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập phụng chiếu dịch.

NGHĨA :

 Đời Dao Tần, Thầy Tam Tạng Pháp Sư, là Cưu Ma La Thập, vưng chiếu, phiên dịch.

 

Giải  : - Xét trong sử Tấn: "Cưu Ma La Thập" là người  Thiên Trước.

Khi xưa, vua nước  Cưu Tư  nghe danh cha Ngài, là Cưu Ma La Diêm, bèn thỉnh về làm Quốc sư, rồi ép gả em gái cho.

Lúc Ngài còn trong thai thì bà mẹ sáng suốt bội thường. Mà cũng trong lúc ấy, bà xuất gia. Ngài đến mười hai tuổi thì bà dắt qua xứ  Sa Lạc  mà ở.

Đời  Hậu Tần  (383 - 416) vua  Dao Hưng  rước Ngài về vườn  Tiêu Diêu  mà dịch kinh.

Sau Ngài hóa thân tại Trường An. Khi thiêu, xác và củi đều cháy tiêu hết, mà lưỡi Ngài vẫn còn.

Dịch là phiên dịch chữ Thiên Trước  ra chữ  Trung Quốc.

 

1.-ÂM :

 Như thị ngã văn :

NGHĨA :

 Ta nghe như vầy

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Thị là chỉ các chỗ nói trong kinh này.

Ngã: là người viết kinh này tự xưng, tức là A Nan.

Như thị ngã văn  là các chỗ nói trong kinh này tự ta nghe những lời của Phật nói.

Đệ tử (A Nan) thường hỏi Phật: "Đến sau viết kinh khởi đầu làm sao?".

Phật bảo: "Dùng "Như thị ngã văn" mà khởi đầu".

 Lý Văn Hội giải: Như thị ngã văn  là Như Lai đến ngày nhập "Niết Bàn", A Nan có hỏi Phật: "Sau khi Phật  diệt độ, cả thảy đầu bài kinh để chữ chi?".

Đáp: Trước để "Như thị ngã văn", sau chỉ rõ các chỗ. Cho nên ông Phó Đại Sĩ tụng:

 

Ở giữa Cụm Ta La, Là nơi Phật diệt độ.

A Nan ([68]) lúc bấy giờ, Bi thảm không qua đó.

Hỏi sẵn có Ưu Ba ([69]), Kinh, làm sau khởi thủ.

Rằng "Như thị ngã văn" Truyền bá hoài thiên cơ.

 

Bằng theo các bực đại Tông sư giải nghĩa, thì "Như" là cái tánh của chúng sanh, muôn khác ngàn sai, động tịnh không chừng, không ngang hàng đặng, không bằng bực đặng.

"Thị" là biệt danh cái tánh của chúng sanh. Lìa ra ngoài cái tánh, lại không có pháp chi khác nữa.

Lại nói: Pháp, chẳng phải không, gọi là Như. Đều là Phật Pháp gọi là "Thị".

Xuyên Thiền sư giải: Như thị, người xưa đạo kêu là "Như", nói Như thị là đã biến rồi.

Nói thử coi: Biến đổi đi đến chỗ nào?

Ôi! Chẳng đặng chạy đi bậy.

 Rốt lại nói chi vậy.

 Ngoài ngôn luận lửa không hề cháy!

Như như:

 Đài gương muôn tượng thảy đều thâu,

Vậy vậy:

 Nước sóng nguyên đồng tánh chất nhau.

 Gương nước lúc chưa vương gió bụi,

 Đất trời toàn thể hiện làu làu.

Lại nói :

Ngã  là "Tự tánh tự tại", chỉ cưỡng danh vậy thôi.

Thân không phải có ta,

Cũng chẳng phải không  ta,

Hai lẽ không ngần ngại,

Mới cho là thiệt ta.

Sạch sạch bóng,

Đỏ đỏ thắm.

Không phương rờ nắm.

 

Lại nữa :

Ta, ta...........................

Phân biệt Thánh hai cái khác xa.

Chẳng động hào ly huờn bổn tánh,

Tri âm tự có gió tòng, hòa.

Văn là lóng nghe.

Nghe không chấp có nghe.

Cũng chẳng chấp không nghe.

Chẳng "có chấp", "không chấp",

Mới cho là "thiệt nghe".

Lại nói: Rất kỵ nhứt, là nghe theo nó.

Lời tụng rằng:

Hạc kêu chín nội,

Vượn hót đầu ngàn;

Mây ùn gió cuốn,

Nước chạt giòng tràng.

Sương đượm màu thu khoe vẻ đẹp;

Nhạn inh ỏi giọng tiết trời hàn.

2.- ÂM :

Nhứt thời, Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên .

NGHĨA :

 Một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ nơi nhà Tịnh xá của ông Cấp Cô Độc cất trong vườn cây ông Kỳ Đà .

 

Giải : Triệu Pháp Sư giải: Nhứt thời  là thuở Phật pháp "Bát Nhã".

 Lý Văn Hội giải: Nhứt thời  là khi Phật thuyết pháp hiệp giới lý đạo mà cảm với lòng người.

Phật là Giác. Giác trong tâm không các vọng niệm, giác ngoài cảnh chẳng nhiễm lục trần.

Lại nói: Phật là vị "Giáo chủ". Chẳng phải tướng mà hiện tướng, là "Ứng thân Phật". Tướng, mà chẳng phải tướng, là "Báo thân Phật" - Chẳng phải tướng, chẳng phải không tướng, là "Pháp thân Phật".

Tại : là chỗ ở.

Sớ Sao  giải: Phật, tiếng Phạm kêu: Bà Dà Bà cũng kêu Phật Đà.

Phật: là Giác. Trước giác cho mình, sau giác cho người (tự giác, giác tha), là bởi "giác tánh" đã viên mãn. Cả thảy các loại "hữu tình" đều có tánh giác ấy. Ngộ là Phật, mê là chúng sanh.

Trong Kinh có nói: "Nước  Xá Vệ  có một ông Trưởng giả, tên là  Tu Đạt Noa, thường bố thí cho kẻ nghèo hèn cô độc, cho nên người đời gọi ông là "Cấp Cô Độc Trưởng giả".

Lục Tổ giải: Xá Vệ : là tên một nước của vua  Ba Tư Nặc.

Kỳ :Kỳ Đà Thái tử, con vua  Ba Tư Nặc.

Thọ : là vườn cây của ông  Kỳ Đà  dưng cúng, cho nên nói: Kỳ thọ.

 Xuyên Thiền sư giải: Theo nhau mà đến.

 

Tụng:

Một một...........

 Hai, ba, năm, bảy, không cùng tột;

 Kiền khôn hỗn độn lúc chưa phân,

 Vốn đã nhứt sanh thông ráo rốt.

Lại nói :

Như người uống nước, lạnh nóng tự mình biết lấy.

Tụng:

Thì thì.......................

Trăng trong, gió mát thảy đều tùy.

Đào hồng, lý trắng, tường vi tía,

Hỏi thử chủ nhơn có hiểu gì?

Lại nói :

Không có diện mục gì, mà nói việc thị phi.

 

Tụng: 

Nhỏ kêu Tất Đạt;

Lớn hiệu  Thích Ca.

Tế độ các loại;

Thâu phục lũ tà,

Bằng nói Ngài là Phật,

Thế thì ta tức ma.

Dùng sáo tự nhiên không trổ lỗ,

Nhỏ to thổi điệu thái bình ca.

Lại nói :

Lục tặc đến, phải coi chừng đánh chận lại, đừng cho đi tuốt.

Tụng:

Ngồi thiền một nén hương;

Kinh nghĩa tụng hai hàng.

Thương bấy khách xe ngựa,

Bề ngoài luống nhộn nhàn.

 

3.- ÂM :

Dữ đại Tỳ Khưu chúng, thiên nhị bá ngũ thập nhơn cu.

NGHĨA :

Cùng một ngàn hai trăm năm mươi thầy đại Tỳ Khưu đều ở tại đó .

 

Giải : Tăng Tử Vinh dẫn trong bộ  Trí Độ Luận, quyển thứ ba có nói: khi "Như Lai sắp nhập  Niết Bàn, kêu  A Nan  mà dạy rằng: "Mười hai bộ kinh  ngươi phải truyền bá ra cho đời sau".

Lại dạy Ưu Ba Ly  rằng: "Cả thảy  Giới luật, ngươi nên thọ trì".  A Nan  nghe Phật dặn bảo, lòng rất lo rầu".

Khi ấy, Ưu Ba Ly  nói với  A Nan rằng: "Ông là người gìn giữ "Pháp Tạng" của Phật, phải bạch hỏi Phật những điều yếu lý về đời sau".

Ưu Ba Ly  cùng  A Nan  có đến hỏi Phật bốn điều:

1.- "Cả thảy trước đầu kinh nên để chữ chi?".

- "Cả thảy trước đầu kinh nên để chữ Như thị".

2.- "Lấy ai mà làm thầy?".

- "Lấy giới Ba la đề mộc xoa  làm Thầy cả của các ngươi".

3.- "Nương nơi đâu mà trụ?".

- "Đều nương theo pháp "Tứ Niệm" mà trụ".

Tứ niệm:

Một là : Quán tưởng  lòng chẳng sạch;

Hai là : Quán tưởng  chịu những sự khổ;

Ba là : Quán tưởng  Pháp tánh vốn không;

Bốn là: Quán tưởng  "Tâm" không có "ta".

 

4.- "Thầy Tỳ Khưu có tánh ác, làm sao mà ở chung?".

 - "Thầy Tỳ Khưu có tánh ác, thì dùng pháp "Phạm đàn" mà sửa trị".

Phạm đàn "Mặc tấn": là nín nhịn.

Thiệt như lời Huỳnh Lỗ Trực nói:

Muôn nói muôn nhằm, chẳng bằng một nín (mặc).

Trăm trận trăm hơn, chẳng bằng một nhịn (tấn).

Tấn  là kỉnh mà xa lánh.

Pháp này để xử thầy Tỳ Khưu có tánh ác.

 

Như Lai, khi dặn dò xong rồi, vào Đại thành  Cu Thi La, nơi hai cây  Ta Lathị hiện pháp  Niết Bàn. A Nan nghe Phật sắp nhập  Niết Bàn, trong lòng buồn rầu lo lắng nên chẳng đến trước Phật mà hỏi lại bốn điều đó nữa.

 Vương Nhựt Hưu giải: Tỳ Khưu: Khất sĩ. Trên xin pháp cùng chư Phật, đặng tỏ cái chơn tánh mình, dưới xin ăn của người thế, đặng cầu phước cho đời, cho nên nói: Khất sĩ.

Đại Tỳ Khưu :đắc đạo đã thâm, tức là bực Bồ Tát cùng A La Hán.

Cu :ở chung. Là nói Phật cùng một ngàn hai trăm năm mươi người ở chung trong vườn ông Cấp Cô Độc.

 Trần Hùng : Tỳ Khưu, tức đời nay kêu là Thầy tu.

Lý Văn Hội  giải: Tỳ Khưu, bỏ dữ làm lành là "Tiểu Tỳ Khưu", lành dữ đều bỏ là "Đại Tỳ Khưu". Bằng người tỏ thấu lý ấy, tức là chứng quả vị A La Hán. Phá đặng  lục tặc  (lục trần) là người trong bốn quả "Tiểu thừa".

Xuyên Thiền sư giải: Một tay vỗ chẳng nên kêu.

 

Tụng:

Nghiêm nghị đàng hoàng,

Muôn pháp chủ trương.

Băm hai tướng hảo?

Muôn ngàn chủng quang.

Thánh, phàm chiêm ngưỡng,

Ngoại đạo qui hàng.

Chớ rằng Phật Tổ không trông thấy,

Ở tại Kỳ Viên đại đạo tràng.

4.-ÂM :

Nhĩ thời, Thế Tôn thực thời chước([70]y trì bát.

NGHĨA :

Khi ấy, gần đến giờ ăn của đức Thế Tôn, Ngài bèn mặc y, mang bát.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu  giải: Nhĩ thời :thuở ấy.

Phật là bực tôn trọng trong  ba cõi, nên xưng là  Thế Tôn.

Ba cõi  là: "Dục giới", "Sắc giới", "Vô Sắc giới".

 Lý Văn Hội giải: Nhĩ thời: là thuở Phật ra đời.

Thế Tôn: Trong ba cõi, bốn loài  không có trí huệ, phước đức nào sánh bì cho kịp. Thiệt là đáng tôn trọng của cả thảy thế gian.

Thực thời : là chánh lúc sắp sửa bữa ăn ngọ.

Chước y: là đắp cái y  Nhu hòa nhẫn nhục.

 Tăng Nhược Nột  giải: Trong Kinh "Tỳ La Tam Muội" có nói: "Buổi sáng là bữa ăn của chư Thiên; chánh giờ ngọbữa ăn của chư Phật; chiều và tối là bữa ăn của các dị loại cùng quỉ thần".

Nay nói Thực thời là chánh thức trước giờ ngọ, trong buổi đi xin ăn.

Sớ Sao  giải: Chước  là đắp cái y "Tăng già lê", tức là Đại y hai mươi lăm điều ([71]).

Trì bát  là bưng cái bát của Tứ Thiên Vương  dưng cúng.

Kinh Di Giáo  giải: Mặc đồ đáng hổ thẹn, đối với sự  trang nghiêm  là đúng bực nhứt.

5.- ÂM :

Nhập Xá Vệ đại thành khất thực.

NGHĨA :

Vào đại thành nước Xá Vệ xin ăn.

 

Giải : Tăng Nhược Nột  giải: Chùa ở ngoài thành, cho nên nói: Vào.

 Lý Văn Hội  giải: Khất thực  là muốn khiến các thầy Tỳ Khưu đời sau chẳng tích tụ tiền của châu báu.

6.- ÂM :

Ư kỳ thành, trung, thứ đệ khất dĩ.

NGHĨA :

Ở trong thành, cứ theo thứ lớp mà xin.

 

Giải - Tăng Nhược Nột  giải: Chẳng bỏ nghèo theo giàu không chê hèn tìm sang, lòng  Đại từ bình đẳng, không có chọn lựa, cho nên nói: Thứ lớp.

Lý Văn Hội giải: Thứ đệ  là lòng  từ bi  của Như Lai, chẳng lựa nghèo giàu, bình đẳng khắp độ.

7.-ÂM :

Huờn chí bổn xứ, phản tự cật ([72]) thâu y bát, tẩy túc dĩ.

NGHĨA :

Về đến chỗ ở; dùng cơm xong, đoạn cất y bát, rửa chơn rồi .

 

Giải : Vương Nhựt Hưu  giải: Đi xin ăn rồi trở về, cho nên nói: Về chỗ ở.

Ăn cơm xong, cất y bát là cất áo Ca sa cùng bình bát rồi sau mới rửa chơn, là bởi Phật đi chơn không (Không đi giày).

Lý Văn Hội  giải: Tẩy túc dĩ"Tịnh thân nghiệp".

8.- ÂM :

Phu tòa nhi tọa.

NGHĨA :

Lên pháp tọa mà ngồi .

 

Giải : Nhan Bính giải: Phu  là sắp đặt, sắp đặt "Pháp tọa" mà ngồi.

Trí Giả Thiền sư giải :

Tụng: 

Pháp, Ứng, Hóa ba thân,

Chẳng ăn uống tự nhiên.

Thường từ bi, bác ái,

Vì lợi ích Nhơn, Thiên.

Cất áo ngơi lao lự,

Rửa chơn sạch bụi duyên.

Lý "Tam không" muốn chứng,

Ngồi kiết già tham thiền.

 

Sớ Sao  giải: "Tam không" là ba thể luân chuyển đều không.

Người thí, người thọ thí và vật thí là ba cái thể luân chuyển.

Người thí hồi tưởng cái chơn như bổn thể vốn không, chẳng có một vật chi, cho nên nói: Lý không.

Người thọ trí hồi tưởng cái sắc thân không phải chơn tướng, cái phương pháp không tên lâu dài; thân còn chẳng có, vật đâu mà thọ lãnh; cho nên nói: Thọ không.

Kẻ thí, người thọ thí đã là không - Hai bên đều không lòng vọng thí, vật thí cũng tự không, cho nên nói: Vật không.

Ấy là: Tam luân thể không.

Lý Văn Hội  giải: Phu tọa nhi tọa  là cả thảy pháp đều không.

Xuyên Thiền Sư giải: Cho rành nó.

 

Tụng: 

Ăn cơm xong xả, rửa chơn rồi,

Nghiêm nghị ra nói Pháp tọa ngồi.

Có biết những văn sau đó tả?

Đất bằng gây nổi trận phong lôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32574)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12030)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12570)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34442)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12519)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16393)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13732)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12613)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11936)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20530)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13101)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14227)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13851)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant