Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương sáu

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9396)
Chương sáu

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG SÁU

32.-ÂM:

Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Phả hữu chúng sanh đắc văn như thị ngôn thuyết chương cú, sanh thiệt tín phủ?". Phật cáo Tu Bồ Đề: "Mạc tác thị thuyết: Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bá tuế, hữu trì giới tu phước giả, ư thử chương cú năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thiệt".

NGHĨA:

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Như có chúng sanh nào đặng nghe những câu bài giảng giải như vậy, có sanh lòng tin thiệt chăng?". Phật bảo Tu Bồ Đề: "Chớ có nói lời ấy khi Như Lai diệt độ rồi, sau năm trăm năm sau ([97]) có kẻ nào trì giới tu phước, mà sanh lòng tin những câu bài ấy, thì lấy đó làm thiệt.

 

Trần Hùng giải: Kinh Hoa Nghiêm có nói:

 

"Tin, thiệt cội nguồn của đạo đức,

Vun bồi cả thảy những căn lành".

 

Kinh Trí Độ Luận có nói : Pháp pháp như biển cả, duy có sự tin mới đặng vào; bởi sự thiệt tín là cái thềm thang của thiệt đế.

Ông Tu Bồ Đề nghi chúng sanh chẳng sanh lòng thiệt tín, mới hỏi như vậy. Phật lại e ngăn ngại lòng thiệt tín của chúng sanh, nên bảo rằng: "Chớ nói lời ấy".

Tăng Nhược Nột giải: Trì giới  là chẳng làm điều dữ, tu phước  là vưng chịu những việc lành. Vả lại trì giới tu phước  tức là gieo căn lành.

Lý Văn Hội giải: Đắc văn như thị ngôn thuyết  v.v.. giải: Ông Tu Bồ Đề nói: Trước kia Phật đã nói: Bố thí  không trụ tướng, tức là Nhân thâm, thấy đặng chơn tánh Như Lai, không có tướng, tức là Quả thâm, đã luận về "nhân quả", thế này không ai tin mà nghe theo, nên mới hỏi như vậy.

Phó Đại Sĩ  giải:

Tụng:

 

Quả lớn bởi nhân thâm, Lý mầu nhiệm khó tầm.

Đến thời kỳ  mạt kiếp, E đạo pháp tiêu trầm.

Thiện Hiện nghe chưa rõ. Nghĩa cao sợ phải lầm.

Bằng hai tin pháp ấy Mới thiệt bực minh tâm.

 

Hữu trì giới tu phước là: Không chấp trước các tướng, tức là  trì giới, lòng hằng vắng lặng, không các vọng niệm, tức là  tu phước. Người ấy chẳng bị các cảnh mê hoặc, mới sanh lòng tin chắc, lấy đó làm thiệt.

Từ Thọ Thiền sư  giải:

 

"Niệm niệm thường yên lặng.

Hằng ngày có đại công".

 

Ấy là cái dấu bước của chư Phật ba đời, Tổ Sư lục đại làm cái công không có công, thì công ấy chẳng hư mất.

Xuyên Thiền sư giải: Phật vàng chẳng tự độ khỏi lò, Phật cây chẳng tự độ khỏi lửa, Phật đất chẳng tự độ khỏi nước.

 

Tụng:

Hình dung ba Phật đều không thiệt,

Ở trước con ngươi trước mắt người.

Biết đặng bổn lai là quí báu,

Mừng xuân chim hót đóa hoa cười.

33.-ÂM:

Đương tri thị nhơn, bất ư nhứt Phật, nhị Phật, tam, tứ, ngũ Phật, nhi chúng ([98]) thiện căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở chúng chư thiện căn.

NGHĨA:

Nên biết người ấy, chẳng những là gieo căn lành trong một kiếp Phật, hai kiếp Phật, ba, bốn, năm kiếp Phật, mà đã gieo các căn lành, đến vô lượng ngàn muôn kiếp Phật rồi vậy.

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Bất ư nhứt Phật, nhị Phật  là một kiếp thì một vị Phật ra đời -  Chúng chư thiện căn  là cả thảy việc lành của thế gian kể chẳng xiết; đại khái là chẳng làm các điều dữ, vâng chịu những việc lành.

Kinh  Pháp Hoa  có nói:

Phương tiện khéo tùy nghi, Không còn quái ngại chi,

Lòng hoan hỷ sốt sắng, Thành Phật hẳn đương thì.

 

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng: 

 

Nương người, (y tha) không tự lập,

Mượn cớ đặng làm ra,

Ác lặn cây không bóng,

Đèn soi sáng cả nhà.

 

Lục Tổ giải: Sao gọi là  gieo các căn lành? Là đối với chư Phật phải một lòng  cúng dường thuận theo giáo pháp, đối với các vị Bồ Tát, bực Thiện tri thức, Sư Tăng, cha mẹ, người tuổi cao đức lớn, và bực Tôn Trưởng, thường phải cung kỉnh cúng dường,vâng lời dạy bảo chẳng nên trái ý, ấy là gieo các căn lành. Đối với cả thảy chúng sanh nghèo khổ, dấy lòng thương xót, chẳng nên khinh bỉ, có yêu cầu điều chi, tùy sức mình mà tế độ, ấy là gieo các căn lành; đối với cả thảy kẻ hung dữ phải nhu hòa nhịn nhục, vui vẻ phụng thù, chẳng nên trái ý, đặng khiến kẻ ấy phải lòng hoan hỷ, dứt sự hung hăng, ấy là gieo các căn lành; đối với chúng sanh trong sáu đường chẳng có; sát hại, khi dễ, nhiếc mắng, chửi đánh cùng là ăn thịt, thường làm việc lợi ích cho chúng nó, ấy là gieo các căn lành.

Vương Nhựt Hưu giải: Sao gọi là gieo các căn lành?- Là lòng chí thành niệm danh hiệu của Phật, hoặc dưng một nén hương, hoặc lạy, hoặc dưng một vật chi mà cúng dường, đều gọi là gieo các căn lành.

Tăng Nhược Nột giải: Phải rõ đã gieo nhiều căn lành là thấy Phật nhiều, nghe pháp nhiều, mà tu hành lại cũng nhiều.

34.-ÂM:

Văn thị chương cú, nãi chí nhứt niệm sanh tịnh tín giả. Tu Bồ Đề: Như Lai tất tri tất kiến, thị chư chúng sanh đắc như thị vô lượng phước đức.

NGHĨA:

Nghe những câu bài ấy, cho đến nhứt niệm ([99]) sanh lòng tin chắc, thì Tu Bồ Đề này: Như Lai đều biết hết thấy hết, các chúng sanh ấy đặng cái phước đức vô lượng như vậy (gieo căn lành).

 

Giải - Lục Tổ giải: Lòng tin: làtin pháp Bát Nhã Ba la mật hay trừ cả thảy phiền não; tin pháp Bát Nhã Ba la mật hay thành tựu cả thảy công đức xuất thế gian; tin pháp Bát Nhã Ba la mật  hay xuất sanh cả thảy chư Phật; tin chắc Phật tánh của tự mình Bổn Lai thanh tịnh, không có ô nhiễm, sánh với tánh của chư Phật bình đẳng như một; tin chắc chúng sanh trong sáu đường bổn lai không tướng; tin chắc cả thảy chúng sanh đều đặng thành Phật. Ấy mới là lòng "Tịnh tín".

Lý Văn Hội giải: Nãi chí nhứt niệm sanh tịnh tín là kẻ phàm phu ở trong các pháp, khởi sanh ra cả thảy điều tà kiến, lành, dữ, Thánh, phàm, có lòng chấp bỏ, mỗi mỗi đều là vọng niệm, nên không sanh lòng tịnh tín đặng. Còn Bồ Tát tỏ ngộ nhơn, pháp đều không, không các vọng niệm, lòng hằng thanh tịnh, tin nghe chánh pháp cho nên nói: Nhứt niệm sanh lòng tin chắc. Đắc như thị vô lượng phước đức Như Lai rõ biết chúng sanh không vọng niệm, lòng hằng thanh tịnh kính tin chánh pháp, sanh đặng trí huệ: Công đức cùng tột không thế so lường đặng.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

 

Tín tâm sanh một niệm, Chư Phật thảy tường tri.

Bằng trước tu nhân ấy, Ắt sau chứng quả ni.

Ba tăng kỳ đại kiếp, Sáu độ hạnh  thường trì.

Gieo đặng nhân vô lậu, Đáng xưng bất khả tư nghì([100]).

 

Xuyên Thiền sư giải: Gieo giống cam thảo thì ngọt, gieo giống huỳnh liên thì đắng; làm nhân nào thì đặng quả nấy.

Lại nói: Trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu.

Tụng:

Một, hai vị Phật đến muôn ngàn.

 Sống mũi nằm xuôi cặp mắt ngang,

 Thuở trước đã từng gieo thiện lực,

 Ngày nay mới đặng phước hoàn toàn.

 

Tu Bồ Đề! Tu Bồ Đề!!

Mặc áo, ăn cơm điều tiểu sự,

Sao còn riêng có chỗ nghi nan!!

35.-ÂM:

Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh vô phục ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng,thọ giả tướng,vô pháp tướng, diệc vô phi pháp tướng.

NGHĨA:

Bởi cớ sao? - Bởi các chúng sanh ấy không còn có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp cũng không có tướng phi pháp.

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Vô phục ngã nhơn v.v. là không ỷ thị: Danh vị, quyền thế, giàu có, tài năng, tinh tấn, trì giới mà khinh bỉ kẻ ngu dốt, nghèo hèn, lười biếng, phá giới; lại không có lòng năng sở trì giới, không có lòng tham cầu hy vọng; lời nóiviệc làm phù hạp với nhau -  Vô pháp tướng, là trong kinh có nói: "Tâm sanh thì cả thảy pháp sanh, tâm diệt thì cả thảy pháp diệt, lòng đã thanh tịnh thì các pháp đều không". Cho nên không chấp bỏ cả thảy các pháp tướng, tà kiến lành dữ, Thánh phàm - Diệc vô phi pháp tướng  là không chấp lòng tri giải, không chấp lòng sở đắc, không nhơn, không pháp. Trong thì tỏ đặng thiệt tướng, ngoài thì ứng với hư duyên.

Triệu Pháp sư giải: Vô pháp tướng  là rõ cái pháp chẳng phải có, để trừ lòng chấp có. Diệc vô phi pháp tướng là rõ cái pháp chẳng phải không, để trừ lòng chấp không.

Tăng Nhược Nột giải: Pháp tướng tà kiến về chấp có. Phi pháp tướng tà kiến về chấp không. Bỏ hết cái chấp hai bên, cho nên nói "không".

Viên Ngộ Thiền sư giải: Người khôn lanh, gót chân đạp sát đất, xương sườn xương sống cứng như sắt, dạo khắp thế gian, xem muôn vật đều giả dối, tự tâm làm chủ. Chẳng theo tình đời, dứt tuyệt ngã nhơn, bỏ hết  tri giải; bấy giờ đặng thấy tánh, thành Phật. Trực chỉ cái diệu tâm làm thềm thang. Đến khi có làm việc chi, thì ngoài ứng theo hư duyên mà chẳng sa vào hang ổ. Rõ đặng một chút sự lâu dài, giữ thân tâm vắng lặng, vượt khỏi cảnh trần lao; đặng như vậy, thì đã lành mà lại thêm lành.

Xuyên Thiền sư giải: Tròn tợ Thái hư, không thiếu cũng không dư.

Tụng:

Pháp cùng phi pháp tướng:

Buông nắm tức bàn tay ([101])

Muôn dặm mây bay vẹt,

Trời xanh một dạng bày.

36.-ÂM:

Hà dĩ cố? - Thị chư chúng sanh nhược tâm thủ tướng, tức vi trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Nhược thủ pháp tướng, tức trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Hà dĩ cố? - Nhược thủ phi pháp tướng, tức trước ngã, nhơn, chúng sanh thọ giả.

NGHĨA:

Bởi cớ sao? Bởi các chúng sanh ấy, nếu lòng còn chấp tướng, tức còn trước tướng, ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Nếu chấp pháp tướng, cũng là trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Bởi cớ sao? Bằng chấp phi pháp tướng, cũng là trước tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.

 

Giải: Lý Văn Hội  giải: Lòng còn chấp tướng ắt sanh vọng niệm, nên mắc phải bốn tướng ấy.

Viên Ngộ Thiền sư  giải: Chư Phật mở bày, Tổ sư chỉ dạy, duy cái diệu tánh  khẳng khái phụng thừa, chẳng sanh một niệm, tột thấu ngọn nguồn, đến lúc hoàn thành không lao tâm lực tự tại tiêu diêu, vốn không chấp bỏ, mới thiệt là chỗ nhiệm mầu.

Tiêu Diêu Ông  giải: Có niệm không tỏ, là cảnh giới kẻ phàm, có niệm có tỏ, là cảnh giới người hiền, không niệm có tỏ là cảnh giới bực Thánh.

Người trí tự hiểu lấy, dầu có nói, nói cũng không đặng.

Huỳnh Nghiệt Thiền sư nói với Bùi Thừa tướng : Phật với chúng sanh, chỉ có một cái tâm, vốn không sai biệt. Cái tâm ấy từ đời  vô thỉ đến nay, không hình không tướng, chẳng sanh chẳng diệt, ví như hư không, không có bờ bực; duy có cái tâm ấy mới thiệt là Phật.

Phật với chúng sanh vốn không khác lạ, nhưng bởi chúng sanh chấp sự tướng cầu ở ngoài, càng cầu càng mất. Dùng Phật mà tìm Phật, lấy tâm mà cầu tâm, dầu cùng kiếp mãn đời, rốt không chi đặng. Chớ nào biết dứt tưởng quên lo, thì tự nhiênPhật hiện tiền!

Tâm tức là Phật, Phật tức chúng sanh. Khi làm chúng sanh tâm cũng không bớt, lúc làm chư Phật tâm cũng chẳng thêm; gặp duyên thì thí, duyên qua rồi thì thôi. Vốn đã sẵn đủ chẳng đợi mượn sự  tu hành  mới có.

Bằng chẳng tin chắc cái tâm là Phật, dầu cho tu hành trải bao nhiêu kiếp, cũng không thành đạo đặng.

Thủ Pháp tướng : là cho ngoài cái tâm lại có pháp, nên mới chấp các tướng.

Lại nói: Tạo dữ, tạo lành đều là trước tướng. Trước tướng tạo dữ, luống chịu  luân hồi, trước tướng tạo lành luống chịu lao khổ; thảy đều chẳng bằng tự mình nhận biết bổn tâm.

Ngoài tâm không pháp, tâm tức là pháp. Ngoài pháp không tâm, mà nếu cho tâm là không tâm, thì tâm trở nên có. Cả thảy duy có tự mình hiểu lấy mà thôi.

Nhược thủ phi Pháp tướng : là còn các tướng: Chấp bỏ lành dữ, phàm Thánh.

Từ Thọ Thiền sư giải:

Tụng:

 

Đồ sộ chùa xưa cửa Thuận Thiên,

Bóng thiều nhấp nhoáng vọi khe tiên.

Bổn lai vật vật tâm là pháp,

Trong đấy mấy người đặng liễu nhiên?

 

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

 

Nhơn không, pháp cũng Hai tướng bổn lai đồng không,

Biến kể danh chưa rõ, Y tha lý chẳng thông.

Viên thành ngày một ngắm, Lưu chuyển thuở nào xong.

Muốn biết vô sanh nhẫnNhư như chẳng động lòng.

 

37.-ÂM:

Thị cố bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp.

NGHĨA:

Như thế thì, chẳng nên chấp pháp, cũng chẳng nên chấp phi pháp.

 

Giải : Lý Văn Hội giải : Bất ưng thủ pháp v.v... là có không đều bỏ, nói nín thảy quên.

Nếu dùng  pháp tướng  tức là chấp pháp, còn dùng  phi pháp tướng  tức là chấp không; có chấp thì  phiền não  dấy sanh, không chấp thì tín tâm thanh tịnh.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

 

Không vẫn nguyên nơi có, Vì không, có mới sanh.

Có không đâu có khác, Không có vốn không hình.

Không có nào chơn thể, Có không bởi vọng tình.

Có không như tiếng dội, Không có lý nên minh.

 

Xuyên Thiền sư  giải: Vàng chẳng đổi vàng, nước không rửa nước.

 

Tụng: 

Leo cây níu nhánh cũng chưa rành,

Chót núi buông tay mới đại danh.

Gió lạnh canh khuya câu chẳng có,

Đầy thuyền duy có bóng trăng thanh.

38.- ÂM :

Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết nhữ đẳng Tỳ Khưu tri ngã thuyết pháp như phiệt([102]) dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp?

NGHĨA:

Bởi cái nghĩa ấy, nên Như Lai thường dạy các thầy Tỳ khưu phải biết Ta nói pháp, ví như cái bè. Pháp còn phải bỏ thay, huống chi là chẳng phải pháp.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Phạt ([103]) (phiệt), là kết tre và cây thành bè đặng làm đò đưa rước, là đồ để đi dưới nước cũng như ghe vậy. Dĩ thị nghĩa cố  là chỉ các lời nói của bài trước.

Phật thường dạy các thầy Tỳ Khưu, phải biết việc thuyết pháp của Phật, ví cũng như ghe và bè vậy. Lúc chưa qua sông thì không nên không dùng ghe, bè, ví như lúc chưa tỏ ngộ chơn tánh thì không nên không dùng Phật pháp; còn khi đã qua sông rồi thì không còn ghe bè nữa, ví như khi tỏ ngộ chơn tánh rồi thì không cần Phật pháp nữa vậy.

Như thế thì, khi  tỏ ngộ  rồi, Phật pháp còn phải bỏ thay huống chi là ngoại đạo. Cho nên nói: "Pháp còn phải bỏ huống chi là chẳng phải pháp".

Ông Phó Đại Sĩ có tụng:

 

Nên mượn bè qua biển,

Đến bờ khỏi dùng thuyền,

Lời nói ấy rất nên đúng lý.

 

Tăng Nhược Nột giải: Kinh  Phật Dụ  có nói: "Nếu biết đặng nghĩa ví dụ dùng bè ấy, thì pháp lành còn phải bỏ, huống chi là pháp chẳng lành. Như muốn qua sông trước phải dùng bè, khi qua đến bờ phải bỏ nó lại".

Nhan Bính giải: Pháp tướng  thuộc có, phi pháp tướng  thuộc không, đều còn tà kiến  cả hai, hẳn phải dứt hết. Cho nên nói: "Không nên  thủ pháp cũng không nên  thủ phi pháp ".

Dĩ thị nghĩa cố v.v... Phật  là thuyền lớn; ví như người lúc chưa qua sông, phải mượn thuyền bè, khi đã đến bờ rồi phải bỏ thuyền bè đi, không nên chấp trước; cũng như người chưa qua khỏi biển khổ sanh tử, phải mượn Phật pháp mới độ thoát đặng, khi độ đặng rồi, pháp cũng phải bỏ. Cho nên ông Triệu Châu  có nói: "Có, có một chữ Phật, ta cũng chẳng muốn nghe".

Phật pháp còn phải bỏ huống chi là chẳng phải Phật pháp.

Lý Văn Hội giải: Chấp có nói không, thì dùng bè mà chi? Chấp có đã bỏ, chấp không đâu còn, như đã qua sông, đâu dùng bè nữa?

Ông Phó Đại Sĩ có tụng:

 

Nên mượn bè qua biển, Đến bờ khỏi dụng thuyền,

Ngã nhơn danh đã cưỡng, Giáo pháp chấp sao nên

Hai phía đều không lập, Trung lưu cũng chẳng yên,

Hữu vô bằng có một, Phải bị ố tâm điền.

 

Vả lại khi chưa rõ tánh, đương ở trong biển khổ sanh tử, mà gặp đặng bực thiện tri thức, lấy lời dạy bảo, phân biệt các pháp tướng, chừng thấy đặng tự tánh  rồi, thì đâu còn chấp trước nữa.

Pháp thượng ưng xả: Trong kinh có nói:

"Bằng muốn hiểu rành cảnh giới Phật.

Trong lòng thanh tịnh tợ hư không"

Ngoài không còn một pháp chi mà kiến lập; thì pháp còn phải bỏ, huống chi là chẳng phải pháp.

Xuyên Thiền Sư giải: Nước đến thì sông thành.

 

Tụng:

 

 

Trọn ngày lăng xăng,

Việc ấy không can.

Chẳng cầu giải thoát,

Chẳng muốn thiên đàng,

Bằng hay niệm đặng lòng vô niệm,

Trên đỉnh Tỳ lư cũng bước ngang.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14766)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11831)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12766)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10349)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12069)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15298)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11088)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10541)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12477)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16430)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14316)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11791)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14811)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12034)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16858)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11591)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12739)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11348)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12064)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52145)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15471)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13970)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13185)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12789)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13224)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17917)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12454)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12657)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54214)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14432)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57979)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14505)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20144)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13793)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15406)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17497)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11935)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13493)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14672)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12495)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12158)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12065)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13292)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12545)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13668)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13325)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25603)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12180)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14560)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11865)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28351)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38812)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14725)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12703)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16243)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant