Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương sáu

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9355)
Chương sáu

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG SÁU

32.-ÂM:

Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Phả hữu chúng sanh đắc văn như thị ngôn thuyết chương cú, sanh thiệt tín phủ?". Phật cáo Tu Bồ Đề: "Mạc tác thị thuyết: Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bá tuế, hữu trì giới tu phước giả, ư thử chương cú năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thiệt".

NGHĨA:

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Như có chúng sanh nào đặng nghe những câu bài giảng giải như vậy, có sanh lòng tin thiệt chăng?". Phật bảo Tu Bồ Đề: "Chớ có nói lời ấy khi Như Lai diệt độ rồi, sau năm trăm năm sau ([97]) có kẻ nào trì giới tu phước, mà sanh lòng tin những câu bài ấy, thì lấy đó làm thiệt.

 

Trần Hùng giải: Kinh Hoa Nghiêm có nói:

 

"Tin, thiệt cội nguồn của đạo đức,

Vun bồi cả thảy những căn lành".

 

Kinh Trí Độ Luận có nói : Pháp pháp như biển cả, duy có sự tin mới đặng vào; bởi sự thiệt tín là cái thềm thang của thiệt đế.

Ông Tu Bồ Đề nghi chúng sanh chẳng sanh lòng thiệt tín, mới hỏi như vậy. Phật lại e ngăn ngại lòng thiệt tín của chúng sanh, nên bảo rằng: "Chớ nói lời ấy".

Tăng Nhược Nột giải: Trì giới  là chẳng làm điều dữ, tu phước  là vưng chịu những việc lành. Vả lại trì giới tu phước  tức là gieo căn lành.

Lý Văn Hội giải: Đắc văn như thị ngôn thuyết  v.v.. giải: Ông Tu Bồ Đề nói: Trước kia Phật đã nói: Bố thí  không trụ tướng, tức là Nhân thâm, thấy đặng chơn tánh Như Lai, không có tướng, tức là Quả thâm, đã luận về "nhân quả", thế này không ai tin mà nghe theo, nên mới hỏi như vậy.

Phó Đại Sĩ  giải:

Tụng:

 

Quả lớn bởi nhân thâm, Lý mầu nhiệm khó tầm.

Đến thời kỳ  mạt kiếp, E đạo pháp tiêu trầm.

Thiện Hiện nghe chưa rõ. Nghĩa cao sợ phải lầm.

Bằng hai tin pháp ấy Mới thiệt bực minh tâm.

 

Hữu trì giới tu phước là: Không chấp trước các tướng, tức là  trì giới, lòng hằng vắng lặng, không các vọng niệm, tức là  tu phước. Người ấy chẳng bị các cảnh mê hoặc, mới sanh lòng tin chắc, lấy đó làm thiệt.

Từ Thọ Thiền sư  giải:

 

"Niệm niệm thường yên lặng.

Hằng ngày có đại công".

 

Ấy là cái dấu bước của chư Phật ba đời, Tổ Sư lục đại làm cái công không có công, thì công ấy chẳng hư mất.

Xuyên Thiền sư giải: Phật vàng chẳng tự độ khỏi lò, Phật cây chẳng tự độ khỏi lửa, Phật đất chẳng tự độ khỏi nước.

 

Tụng:

Hình dung ba Phật đều không thiệt,

Ở trước con ngươi trước mắt người.

Biết đặng bổn lai là quí báu,

Mừng xuân chim hót đóa hoa cười.

33.-ÂM:

Đương tri thị nhơn, bất ư nhứt Phật, nhị Phật, tam, tứ, ngũ Phật, nhi chúng ([98]) thiện căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở chúng chư thiện căn.

NGHĨA:

Nên biết người ấy, chẳng những là gieo căn lành trong một kiếp Phật, hai kiếp Phật, ba, bốn, năm kiếp Phật, mà đã gieo các căn lành, đến vô lượng ngàn muôn kiếp Phật rồi vậy.

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Bất ư nhứt Phật, nhị Phật  là một kiếp thì một vị Phật ra đời -  Chúng chư thiện căn  là cả thảy việc lành của thế gian kể chẳng xiết; đại khái là chẳng làm các điều dữ, vâng chịu những việc lành.

Kinh  Pháp Hoa  có nói:

Phương tiện khéo tùy nghi, Không còn quái ngại chi,

Lòng hoan hỷ sốt sắng, Thành Phật hẳn đương thì.

 

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng: 

 

Nương người, (y tha) không tự lập,

Mượn cớ đặng làm ra,

Ác lặn cây không bóng,

Đèn soi sáng cả nhà.

 

Lục Tổ giải: Sao gọi là  gieo các căn lành? Là đối với chư Phật phải một lòng  cúng dường thuận theo giáo pháp, đối với các vị Bồ Tát, bực Thiện tri thức, Sư Tăng, cha mẹ, người tuổi cao đức lớn, và bực Tôn Trưởng, thường phải cung kỉnh cúng dường,vâng lời dạy bảo chẳng nên trái ý, ấy là gieo các căn lành. Đối với cả thảy chúng sanh nghèo khổ, dấy lòng thương xót, chẳng nên khinh bỉ, có yêu cầu điều chi, tùy sức mình mà tế độ, ấy là gieo các căn lành; đối với cả thảy kẻ hung dữ phải nhu hòa nhịn nhục, vui vẻ phụng thù, chẳng nên trái ý, đặng khiến kẻ ấy phải lòng hoan hỷ, dứt sự hung hăng, ấy là gieo các căn lành; đối với chúng sanh trong sáu đường chẳng có; sát hại, khi dễ, nhiếc mắng, chửi đánh cùng là ăn thịt, thường làm việc lợi ích cho chúng nó, ấy là gieo các căn lành.

Vương Nhựt Hưu giải: Sao gọi là gieo các căn lành?- Là lòng chí thành niệm danh hiệu của Phật, hoặc dưng một nén hương, hoặc lạy, hoặc dưng một vật chi mà cúng dường, đều gọi là gieo các căn lành.

Tăng Nhược Nột giải: Phải rõ đã gieo nhiều căn lành là thấy Phật nhiều, nghe pháp nhiều, mà tu hành lại cũng nhiều.

34.-ÂM:

Văn thị chương cú, nãi chí nhứt niệm sanh tịnh tín giả. Tu Bồ Đề: Như Lai tất tri tất kiến, thị chư chúng sanh đắc như thị vô lượng phước đức.

NGHĨA:

Nghe những câu bài ấy, cho đến nhứt niệm ([99]) sanh lòng tin chắc, thì Tu Bồ Đề này: Như Lai đều biết hết thấy hết, các chúng sanh ấy đặng cái phước đức vô lượng như vậy (gieo căn lành).

 

Giải - Lục Tổ giải: Lòng tin: làtin pháp Bát Nhã Ba la mật hay trừ cả thảy phiền não; tin pháp Bát Nhã Ba la mật hay thành tựu cả thảy công đức xuất thế gian; tin pháp Bát Nhã Ba la mật  hay xuất sanh cả thảy chư Phật; tin chắc Phật tánh của tự mình Bổn Lai thanh tịnh, không có ô nhiễm, sánh với tánh của chư Phật bình đẳng như một; tin chắc chúng sanh trong sáu đường bổn lai không tướng; tin chắc cả thảy chúng sanh đều đặng thành Phật. Ấy mới là lòng "Tịnh tín".

Lý Văn Hội giải: Nãi chí nhứt niệm sanh tịnh tín là kẻ phàm phu ở trong các pháp, khởi sanh ra cả thảy điều tà kiến, lành, dữ, Thánh, phàm, có lòng chấp bỏ, mỗi mỗi đều là vọng niệm, nên không sanh lòng tịnh tín đặng. Còn Bồ Tát tỏ ngộ nhơn, pháp đều không, không các vọng niệm, lòng hằng thanh tịnh, tin nghe chánh pháp cho nên nói: Nhứt niệm sanh lòng tin chắc. Đắc như thị vô lượng phước đức Như Lai rõ biết chúng sanh không vọng niệm, lòng hằng thanh tịnh kính tin chánh pháp, sanh đặng trí huệ: Công đức cùng tột không thế so lường đặng.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

 

Tín tâm sanh một niệm, Chư Phật thảy tường tri.

Bằng trước tu nhân ấy, Ắt sau chứng quả ni.

Ba tăng kỳ đại kiếp, Sáu độ hạnh  thường trì.

Gieo đặng nhân vô lậu, Đáng xưng bất khả tư nghì([100]).

 

Xuyên Thiền sư giải: Gieo giống cam thảo thì ngọt, gieo giống huỳnh liên thì đắng; làm nhân nào thì đặng quả nấy.

Lại nói: Trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu.

Tụng:

Một, hai vị Phật đến muôn ngàn.

 Sống mũi nằm xuôi cặp mắt ngang,

 Thuở trước đã từng gieo thiện lực,

 Ngày nay mới đặng phước hoàn toàn.

 

Tu Bồ Đề! Tu Bồ Đề!!

Mặc áo, ăn cơm điều tiểu sự,

Sao còn riêng có chỗ nghi nan!!

35.-ÂM:

Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh vô phục ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng,thọ giả tướng,vô pháp tướng, diệc vô phi pháp tướng.

NGHĨA:

Bởi cớ sao? - Bởi các chúng sanh ấy không còn có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp cũng không có tướng phi pháp.

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Vô phục ngã nhơn v.v. là không ỷ thị: Danh vị, quyền thế, giàu có, tài năng, tinh tấn, trì giới mà khinh bỉ kẻ ngu dốt, nghèo hèn, lười biếng, phá giới; lại không có lòng năng sở trì giới, không có lòng tham cầu hy vọng; lời nóiviệc làm phù hạp với nhau -  Vô pháp tướng, là trong kinh có nói: "Tâm sanh thì cả thảy pháp sanh, tâm diệt thì cả thảy pháp diệt, lòng đã thanh tịnh thì các pháp đều không". Cho nên không chấp bỏ cả thảy các pháp tướng, tà kiến lành dữ, Thánh phàm - Diệc vô phi pháp tướng  là không chấp lòng tri giải, không chấp lòng sở đắc, không nhơn, không pháp. Trong thì tỏ đặng thiệt tướng, ngoài thì ứng với hư duyên.

Triệu Pháp sư giải: Vô pháp tướng  là rõ cái pháp chẳng phải có, để trừ lòng chấp có. Diệc vô phi pháp tướng là rõ cái pháp chẳng phải không, để trừ lòng chấp không.

Tăng Nhược Nột giải: Pháp tướng tà kiến về chấp có. Phi pháp tướng tà kiến về chấp không. Bỏ hết cái chấp hai bên, cho nên nói "không".

Viên Ngộ Thiền sư giải: Người khôn lanh, gót chân đạp sát đất, xương sườn xương sống cứng như sắt, dạo khắp thế gian, xem muôn vật đều giả dối, tự tâm làm chủ. Chẳng theo tình đời, dứt tuyệt ngã nhơn, bỏ hết  tri giải; bấy giờ đặng thấy tánh, thành Phật. Trực chỉ cái diệu tâm làm thềm thang. Đến khi có làm việc chi, thì ngoài ứng theo hư duyên mà chẳng sa vào hang ổ. Rõ đặng một chút sự lâu dài, giữ thân tâm vắng lặng, vượt khỏi cảnh trần lao; đặng như vậy, thì đã lành mà lại thêm lành.

Xuyên Thiền sư giải: Tròn tợ Thái hư, không thiếu cũng không dư.

Tụng:

Pháp cùng phi pháp tướng:

Buông nắm tức bàn tay ([101])

Muôn dặm mây bay vẹt,

Trời xanh một dạng bày.

36.-ÂM:

Hà dĩ cố? - Thị chư chúng sanh nhược tâm thủ tướng, tức vi trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Nhược thủ pháp tướng, tức trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Hà dĩ cố? - Nhược thủ phi pháp tướng, tức trước ngã, nhơn, chúng sanh thọ giả.

NGHĨA:

Bởi cớ sao? Bởi các chúng sanh ấy, nếu lòng còn chấp tướng, tức còn trước tướng, ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Nếu chấp pháp tướng, cũng là trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Bởi cớ sao? Bằng chấp phi pháp tướng, cũng là trước tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.

 

Giải: Lý Văn Hội  giải: Lòng còn chấp tướng ắt sanh vọng niệm, nên mắc phải bốn tướng ấy.

Viên Ngộ Thiền sư  giải: Chư Phật mở bày, Tổ sư chỉ dạy, duy cái diệu tánh  khẳng khái phụng thừa, chẳng sanh một niệm, tột thấu ngọn nguồn, đến lúc hoàn thành không lao tâm lực tự tại tiêu diêu, vốn không chấp bỏ, mới thiệt là chỗ nhiệm mầu.

Tiêu Diêu Ông  giải: Có niệm không tỏ, là cảnh giới kẻ phàm, có niệm có tỏ, là cảnh giới người hiền, không niệm có tỏ là cảnh giới bực Thánh.

Người trí tự hiểu lấy, dầu có nói, nói cũng không đặng.

Huỳnh Nghiệt Thiền sư nói với Bùi Thừa tướng : Phật với chúng sanh, chỉ có một cái tâm, vốn không sai biệt. Cái tâm ấy từ đời  vô thỉ đến nay, không hình không tướng, chẳng sanh chẳng diệt, ví như hư không, không có bờ bực; duy có cái tâm ấy mới thiệt là Phật.

Phật với chúng sanh vốn không khác lạ, nhưng bởi chúng sanh chấp sự tướng cầu ở ngoài, càng cầu càng mất. Dùng Phật mà tìm Phật, lấy tâm mà cầu tâm, dầu cùng kiếp mãn đời, rốt không chi đặng. Chớ nào biết dứt tưởng quên lo, thì tự nhiênPhật hiện tiền!

Tâm tức là Phật, Phật tức chúng sanh. Khi làm chúng sanh tâm cũng không bớt, lúc làm chư Phật tâm cũng chẳng thêm; gặp duyên thì thí, duyên qua rồi thì thôi. Vốn đã sẵn đủ chẳng đợi mượn sự  tu hành  mới có.

Bằng chẳng tin chắc cái tâm là Phật, dầu cho tu hành trải bao nhiêu kiếp, cũng không thành đạo đặng.

Thủ Pháp tướng : là cho ngoài cái tâm lại có pháp, nên mới chấp các tướng.

Lại nói: Tạo dữ, tạo lành đều là trước tướng. Trước tướng tạo dữ, luống chịu  luân hồi, trước tướng tạo lành luống chịu lao khổ; thảy đều chẳng bằng tự mình nhận biết bổn tâm.

Ngoài tâm không pháp, tâm tức là pháp. Ngoài pháp không tâm, mà nếu cho tâm là không tâm, thì tâm trở nên có. Cả thảy duy có tự mình hiểu lấy mà thôi.

Nhược thủ phi Pháp tướng : là còn các tướng: Chấp bỏ lành dữ, phàm Thánh.

Từ Thọ Thiền sư giải:

Tụng:

 

Đồ sộ chùa xưa cửa Thuận Thiên,

Bóng thiều nhấp nhoáng vọi khe tiên.

Bổn lai vật vật tâm là pháp,

Trong đấy mấy người đặng liễu nhiên?

 

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

 

Nhơn không, pháp cũng Hai tướng bổn lai đồng không,

Biến kể danh chưa rõ, Y tha lý chẳng thông.

Viên thành ngày một ngắm, Lưu chuyển thuở nào xong.

Muốn biết vô sanh nhẫnNhư như chẳng động lòng.

 

37.-ÂM:

Thị cố bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp.

NGHĨA:

Như thế thì, chẳng nên chấp pháp, cũng chẳng nên chấp phi pháp.

 

Giải : Lý Văn Hội giải : Bất ưng thủ pháp v.v... là có không đều bỏ, nói nín thảy quên.

Nếu dùng  pháp tướng  tức là chấp pháp, còn dùng  phi pháp tướng  tức là chấp không; có chấp thì  phiền não  dấy sanh, không chấp thì tín tâm thanh tịnh.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

 

Không vẫn nguyên nơi có, Vì không, có mới sanh.

Có không đâu có khác, Không có vốn không hình.

Không có nào chơn thể, Có không bởi vọng tình.

Có không như tiếng dội, Không có lý nên minh.

 

Xuyên Thiền sư  giải: Vàng chẳng đổi vàng, nước không rửa nước.

 

Tụng: 

Leo cây níu nhánh cũng chưa rành,

Chót núi buông tay mới đại danh.

Gió lạnh canh khuya câu chẳng có,

Đầy thuyền duy có bóng trăng thanh.

38.- ÂM :

Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết nhữ đẳng Tỳ Khưu tri ngã thuyết pháp như phiệt([102]) dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp?

NGHĨA:

Bởi cái nghĩa ấy, nên Như Lai thường dạy các thầy Tỳ khưu phải biết Ta nói pháp, ví như cái bè. Pháp còn phải bỏ thay, huống chi là chẳng phải pháp.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Phạt ([103]) (phiệt), là kết tre và cây thành bè đặng làm đò đưa rước, là đồ để đi dưới nước cũng như ghe vậy. Dĩ thị nghĩa cố  là chỉ các lời nói của bài trước.

Phật thường dạy các thầy Tỳ Khưu, phải biết việc thuyết pháp của Phật, ví cũng như ghe và bè vậy. Lúc chưa qua sông thì không nên không dùng ghe, bè, ví như lúc chưa tỏ ngộ chơn tánh thì không nên không dùng Phật pháp; còn khi đã qua sông rồi thì không còn ghe bè nữa, ví như khi tỏ ngộ chơn tánh rồi thì không cần Phật pháp nữa vậy.

Như thế thì, khi  tỏ ngộ  rồi, Phật pháp còn phải bỏ thay huống chi là ngoại đạo. Cho nên nói: "Pháp còn phải bỏ huống chi là chẳng phải pháp".

Ông Phó Đại Sĩ có tụng:

 

Nên mượn bè qua biển,

Đến bờ khỏi dùng thuyền,

Lời nói ấy rất nên đúng lý.

 

Tăng Nhược Nột giải: Kinh  Phật Dụ  có nói: "Nếu biết đặng nghĩa ví dụ dùng bè ấy, thì pháp lành còn phải bỏ, huống chi là pháp chẳng lành. Như muốn qua sông trước phải dùng bè, khi qua đến bờ phải bỏ nó lại".

Nhan Bính giải: Pháp tướng  thuộc có, phi pháp tướng  thuộc không, đều còn tà kiến  cả hai, hẳn phải dứt hết. Cho nên nói: "Không nên  thủ pháp cũng không nên  thủ phi pháp ".

Dĩ thị nghĩa cố v.v... Phật  là thuyền lớn; ví như người lúc chưa qua sông, phải mượn thuyền bè, khi đã đến bờ rồi phải bỏ thuyền bè đi, không nên chấp trước; cũng như người chưa qua khỏi biển khổ sanh tử, phải mượn Phật pháp mới độ thoát đặng, khi độ đặng rồi, pháp cũng phải bỏ. Cho nên ông Triệu Châu  có nói: "Có, có một chữ Phật, ta cũng chẳng muốn nghe".

Phật pháp còn phải bỏ huống chi là chẳng phải Phật pháp.

Lý Văn Hội giải: Chấp có nói không, thì dùng bè mà chi? Chấp có đã bỏ, chấp không đâu còn, như đã qua sông, đâu dùng bè nữa?

Ông Phó Đại Sĩ có tụng:

 

Nên mượn bè qua biển, Đến bờ khỏi dụng thuyền,

Ngã nhơn danh đã cưỡng, Giáo pháp chấp sao nên

Hai phía đều không lập, Trung lưu cũng chẳng yên,

Hữu vô bằng có một, Phải bị ố tâm điền.

 

Vả lại khi chưa rõ tánh, đương ở trong biển khổ sanh tử, mà gặp đặng bực thiện tri thức, lấy lời dạy bảo, phân biệt các pháp tướng, chừng thấy đặng tự tánh  rồi, thì đâu còn chấp trước nữa.

Pháp thượng ưng xả: Trong kinh có nói:

"Bằng muốn hiểu rành cảnh giới Phật.

Trong lòng thanh tịnh tợ hư không"

Ngoài không còn một pháp chi mà kiến lập; thì pháp còn phải bỏ, huống chi là chẳng phải pháp.

Xuyên Thiền Sư giải: Nước đến thì sông thành.

 

Tụng:

 

 

Trọn ngày lăng xăng,

Việc ấy không can.

Chẳng cầu giải thoát,

Chẳng muốn thiên đàng,

Bằng hay niệm đặng lòng vô niệm,

Trên đỉnh Tỳ lư cũng bước ngang.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33053)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6485)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11192)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30335)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30396)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7936)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12132)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12205)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11551)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12735)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34666)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9807)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52213)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10707)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10474)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10671)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10411)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13027)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16190)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21761)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9571)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7069)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10345)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12678)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12740)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16183)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16475)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13805)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16514)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12058)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13751)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14273)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9160)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11713)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11227)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16257)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14308)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16165)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12668)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12034)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11753)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15625)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11466)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13991)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11981)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12591)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14942)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11934)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13099)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14482)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20639)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13173)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10901)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20642)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14290)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20273)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17574)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13955)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31814)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11956)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant