Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương mười lăm

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9175)
Chương mười lăm

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG MƯỜI LĂM

89.-ÂM:

Tu Bồ Đề! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, sơ nhựt phận dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí; trung nhựt phận, phục dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí; hậu nhựt phận, diệc dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí, như thị vô lượng bá thiên vạn ức kiếp, dĩ thân bố thí...

 Nhược phục hữu nhơn văn thử kinh điển, tín tâm bất nghịch, kỳ phước thắng bỉ. Hà huống thơ tả thọ trì, đọc tụng, vị nhơn giải thuyết?

NGHĨA:

Này Tu Bồ Đề! Nếu có trai lành, gái tín nào, buổi mai dùng thân mạng bằng số cát sông Hằngbố thí, buổi trưa lại dùng thân mạng bằng số cát sông Hằngbố thí, buổi chiều cũng dùng thân mạng bằng số cát sông Hằngbố thí, dùng thân mạngbố thí vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp như vậy...

 Bằng lại có người nghe kinh điển này, lòng tin chẳng trái, thì phước đức ấy hơn phước đức bố thí kia. Huống chi là biên tả, thọ trì, đọc tụng và vì người mà giải thuyết?

 

 

Giải : Vương Nhựt Hưu  giải: Sơ nhựt phận là sớm mai, trung nhựt phận  là trưa, hậu nhựt phận  là chiều, là bên xứ Tây Thổ nói như vậy. Bởi Phật giáng sanh xứ ấy, nên nói theo thổ âm xứ ấy.

Bằng có người một phen dấy lòng tin thiệt kinh này, thì đặng phước nhiều hơn người mà mỗi ngày ba thời dùng cả hằng hà thân mạngbố thí cả trăm ngàn muôn ức kiếp vô lượng vô số đó. Vì bởi bố thí thì đặng cái phước báu vô lượng, là phước của thế gian, thì phải hưởng phước của thế gian. Nhiễm lấy các sự phiền não, cũng bởi nguyên nhân ấy mà ra; lại cũng bị cái nhân ấy mà gây ra nghiệp dữ nữa.

Còn người nghe kinh điển này, lòng tin chẳng trái, thì từ ấy đã gieo căn lành. Căn lành đã gieo, thì càng ngày càng tăng trưởng, càng lâu càng thạnh mậu, là phước xuất thế gian, thì phước bố thí kia làm sao mà sánh kịp!

Vậy nên mới hơn cái phước bố thí vô lượng vô số đặng.

Vả lại mỗi ngày có ba thời, đâu có đặng cả hằng hà thân mạngbố thí, ấy là lời ví dụ, ví dụ cho nhiêu cho tột bực đặng không có chi sánh kịp đó thôi.

Trần Hùng  giải: Phật e người đời chấp trước cái thuyết nhẫn nhục của Phật, mà luống dùng thân mạng đặng bố thí, thì tự tánh mình với tánh người khác, không mảy nào lợi ích cả. Cho nên đã có nói rồi trong phần thứ 13, mà đây lại nói nữa, là đặng cứu chữa sự lỗi ấy.

Triệu Pháp sư giải: Từ sớm mai đến giờ Thìn là buổi mai, từ giờ Thìn đến giờ Vị (Mùi) là buổi trưa, từ giờ Vị (Mùi) đến giờ Tuất là buổi chiều. Mỗi ngày trong ba thời ấy, mà đem thân mạng đến trăm ngàn muôn ức kiếpbố thí, cũng chẳng bằng thọ trì kinh này, đặng mà rõ tự tánh là thâm hiểu cái lý thiệt tướng, nhơn pháp đều không. Tức là hạng người đại giác ngộ.

Phó Đại Sĩ  giải:

Tụng:

Chúng sanh với thọ giả, Ngũ uẩn cưỡng hư danh.

Sừng thỏ nguyên không thiệt, Lông rùa há có hình,

Xả thânvọng thứcThí mạng bởi mê tình.

Luận rõ phước cùng tri, Chỉ bằng đọc tụng kinh.

Lý Văn Hội giải: Tín tâm bất nghịch : là tin thuận theo lý, nên nói chẳng nghịch.

Kinh Pháp Hoa có nói: "Chiêm ngưỡng tôn nhan mắt không xao lãng", là lòng thường tinh tấn không ngừng nghỉ.

Thọ trì, đọc tụng: sự hiểu, sự làm, ứng với nhauthọ, dõng mãnh tinh tấntrì. Vị nhơn giải thuyết: là người đã tỏ ngộ rõ đặng tự tánh, phương tiện vì người giải rõ kinh này, khiến cho tỏ ngộ thiệt tướng thành đạo  Vô thượng. Người bố thí không trụ tướng ấy, thì công đức có bờ bực, hơn các công đức của người dùng thân mạng cả ngàn muôn ức kiếp kia đến ngàn muôn ức bội.

Xuyên Thiền sư  giải: Phước báu  Thiên, Nhơn  mà chẳng không, Phật pháp chưa chiêm bao đã thấy.

Tụng: 

Sớm trưa bố thí phát tâm đồng,

Công đức vô biên tính chẳng cùng.

Chi bằng tín tâm đừng có chấp.

Một tay đánh phá cõi hư không.

90.-ÂM:

Tu Bồ Đề! Dĩ yếu ngôn chi, thị kinh hữu bất khả tư nghì. Bất khả xưng lượng vô biên công đức.

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Nói tóm lại, thì kinh này có cái công đức vô biên, không thể bàn nghĩ đặng, không thể cân lường đặng.

 

Giải : Triệu Pháp sư  giải: Tỏ đặng  pháp môn này thì công đức đã quá cái tâm cảnh, nên không thể lấy tâm trísuy nghĩ đặng, quá cái ngôn cảnh nên không thể lấy ngôn thuyết mà bàn tính đặng.

Vương Nhựt Hưu  giải: Bất khả nghì : là không thể dùng tâm trí, ngôn thuyếtsuy nghĩ bàn tính đặng.

Bất khả xứng lượng : là đã nói không thể bàn tính thì chữ xứng này không phải nghĩa xứng ngôn thuyết, ấy là nghĩa xứng cân lượng.

Thuở xưa chữ xưng (không dấu) và chữ xứng (dấu sắc), hai chữ thông dụng đặng, nên nói: Bất khả xứng : là không lấy cân mà cân đặng. Bất khả lượng: là không dùng lường mà lường đặng.

Nhan Bính  giải: Mỗi ngày dùng cả hằng hà thân mạngbố thí, (nghĩa là nhiều). Bố thí như thế cho đến vô lượng, vô số kiếp, mà không bằng người tin theo kinh điển này, nhứt tâm chẳng trái, (chẳng trái là làm theo). Phước đức ấy còn hơn phước hữu vi  kia thay, huống chi là phát tâm biên tả thọ trì, đọc tụng, rồi giảng giải lại cho người hiểu rõ!

yếu ngôn chi v.v... là chư Phật than thở không bằng cái phước đức rất lớn không bờ bực ấy.

Lý Văn Hội giải: Vô biên công đức : là người trì kinh này tỏ ngộ nhơn pháp đều không, rõ thấu cái lý thiệt tướng, thì công đức lớn lao cũng như lòng của Phật không có bờ bực, không cân lường đặng vậy.

91.-ÂM:

 Như Lai vị phát Đại thừa giả thuyết, vị phát Tối thượng thừa giả thuyết.

NGHĨA:

Như Laiphát khởi cho bực Đại thừa mà nói, vì phát khởi cho bực Tối thượng thừa mà nói.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu  giải: Thừa ([122]): là xe - Đại thừa là xe của Bồ Tát.

Bực A La Hán mới hết sanh tử, chưa độ chúng sanh đặng, ấy là Tiểu thừa, cũng như xe nhỏ chở đặng có một mình mình mà thôi.

Bực Duyên Giác, nửa vì người nửa vì mình, ấy là Trung thừa, cũng như cái xe bực trung vậy.

Bực Bồ TátĐại thừa, cũng như xe lớn chở hết cả thảy chúng sanh đặng.

Kinh này là muốn phổ độ cả thảy chúng sanh, cho nên vì phát khởi bực Bồ Tát Đại thừa mà nói.

Phát: là phát khởi -  Phát Đại thừa :phát khởi đặng tế độ chúng sanh -  Tối thượng thừa: là Phật thừa; Phật lại độ luôn cả các vị Bồ Tát, thì còn trên bực Đại thừa nữa cho nên nói: "Tối thượng thừa".

Là bởi không còn bực thừa nào mà trên bực thừa này nữa nên nói là Tối thượng.

Kinh này lại cũng để phát khởi cho Phật thừa mà nói, là Phật hóa độ Bồ Tát cũng dùng thuyết lý trong kinh này.

Lý Văn Hội giải: Vị phát Đại thừa giả thuyết: trí huệ sáng suốt rõ đặng tu tánh, sắc không  đều bỏ, chẳng chấp hai bên: hai bên đã không đâu còn trung đạo! Chẳng nhiễm các cảnh ấy là sự hành đạo của bực Đại thừa Bồ tát vậy.

Lại nói: Vị phát Đại thừa giả thuyết: là có nhơ uế đâu mà gớm, có thanh tịnh đâu mà cầu, có chi bỏ mà bỏ, cũng chẳng nói không bỏ; có chi trụ mà trụ, cũng chẳng nói không trụ; tâm lượng quảng đại rỗng rang như cõi hư không, không có bờ bực. Ấy là cái địa vị của chư Phật Tối thượng thừa.

Huỳnh Nghiệt Thiền sư  giải: Khi Như Lai hiện thế, muốn thuyết cái chơn pháp nhứt thừa, lại e chúng sanh dấy lòng khi báng, mà phải chìm đắm trong vòng khổ hải; còn như không thuyết, lại e đọa vào  kiên tham chẳng vì chúng sanhphổ độ cho cái diệu đạo? Cho nên mới lập ra pháp môn phương tiện: thuyết ba bực thừa. Thừa có đại tiểu, chỗ đặng có thấp cao, đều không có phép chi nhứt định. Cho nên nói: Duy có cái đạo nhứt thừa, nếu có cái thứ hai thì chẳng thiệt.

Xuyên Thiền sư  giải: Như chặt một cuồn tơ, một đao đều đứt cả.

 

Tụng:

Hóa thành đánh phá cho tan nát,

Huyền diệu trại co giò nhảy thoát,

Tùy thích ngao du Bắc chí Nam,

Chẳng tầm mích Thế Âm Bồ Tát

 

Thuyết Tối thượng, Thuyết Đại thắng (thừa).

Đánh một tay rướm máu, Đập một gậy nổi lằn.

92.-ÂM:

Nhược hữu nhơn năng thọ trì, đọc tụng, quảng vị nhơn thuyết, Như Lai tất tri thị nhơn, tất kiến thị nhơn, giai đắc thành tựu bất khả lượng, bất khả xưng, vô hữu biên, bất khả tư nghì công đức. Như thị nhơn đẳng, tức vi hả đảm Như Lai A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

NGHĨA:

Bằng có người hay thọ trì, đọc tụng (kinh này) và diễn thuyết rộng khắp ra cho người khác, thì Như Lai đều biết cho người ấy, đều thấy cho người ấy, thành tựu đặng cái công đức vô lượng, vô số, vô biên, không bàn nghĩ đặng. Những hạng người như thế, mới gánh vác nổi cái đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Như Lai.

 

Giải: Tạ Linh Vận  giải: Ngàn năm chẳng sa sụp, cũng bởi người hoằng hóa mối đạo, gánh vác vận hành là cái nghĩa hả đãm.

Lý Văn Hội giải: Quảng vị nhơn thuyết  v.v... là bực thượng căn thượng khí rõ thấu kinh này, tỏ ngộ lý Phật; trì kinh Đại thừa này, rồi giảng giải lại cho người khác, khiến cho các học giả đều thấy cái lý không tướng của tự tánh, thấy cái bổn nguyện của tự tâm là Phật, thì nên biết công đức của người ấy không có bờ bực, không cân lường đặng.

Ông Mã Tổ có nói: "Bọn ngươi nên biết tự tâm là Phật, tâm ấy tức là tâm của Phật".

Lại nói: "Ngoài tâm không Phật khác, ngoài Phật không tâm khác".

Ông Phật Quốc Bạch Thiền sư có lời tụng:

 

Tâm tâm là Phật, Phật là tâm.

Phật Phật tâm, tâm tức Phật tâm.

Tâm Phật ngộ rồi không một vật,

Chỉ me đở khác Phật và tâm.

 

Kinh Hoa Nghiêm có nói: "Bằng không tin tự tâm là Phật, hẳn không phải lẽ".

Ông Viên Ngộ Thiền sư có nói: "Tức tâm tức Phật, đã từng chỉ dẫn đành rành, không Phật không tâm lắm lúc khuyên răn tỏ rõ, sao còn chẳng liền theo lời dạy mà bấy giờ tỏ ngộ, mới thấy đặng người xưa lòng son khắn khắn; nếu còn chút dần dà thì phải ngẩn ngơ mà chớ!".

Kinh Tâm Phật có tụng:

 

Phật là tâm, tâm là Phật,

Tâm Phật nguyên lai không một vật.

Bằng biết chẳng chi Phật với tâm.

Mới rằng Phật Pháp thân chơn thật.

 

Phật, Phật, Phật nào mô dạng.

Một đóa viên quang trùm các tượng.

Nguyên thể vẫn là không thể chi,

Tướng mà không tướng mới rằng tướng.

 

Chẳng sắc chẳng không, chẳng phải không.

Chẳng xao chẳng lặng chẳng Tây Đông.

Không đồng không khác không không, có,

Khó bỏ khó dùng khó ngắm trông.

 

Trong ngoài rỗng rang diệu viên giác,

Một Phật độ nơi trong hột cát.

Hột cát hàm tàng cả đại thiên

Thân tâm mỗi mỗi đều không khác.

 

Các ngươi phải biết không tâm pháp.

Chẳng sạch chẳng nhơ chẳng tạo nghiệp.

Lành dữ muôn ngàn không có, không,

Mới rằng tín ngưỡng Phật Ca Diếp.

 

Huỳnh Nghiệt Thiền sư giải: Ngươi phải trừ bỏ tình phàm cảnh Thánh, thì ngoài cái tâm không có Phật chi khác.

Tổ sư phương Tây lại, chỉ rành toàn thể của người là Phật, sao ông chưa biết, còn chấp phàm chấp Thánh, cầu Phật ở ngoài; tự tâm mê hoặc, nên mới đối với ông mà nói "tức tâm là Phật", nếu một niệm sanh tình ắt phải luân hồi trong lục đạo!

Từ đời  vô thỉ  đến nay cũng chẳng đổi cái tâm chi khác, mà cũng không có pháp chi khác, cho nên nói: "Chánh đẳng Chánh giác".

Tức vi hả đảm v.v... là nghe kinh nghĩa cứ theo giáo pháptu hành, rồi diễn thuyết lại cho nhiều người hiểu cái pháp không tướng, khiến cho người học đạo tỏ ngộ tâm địa, đặng làm theo cái hạnh không tướng, không  chấp trước, khai phát ra cái trí huệ sáng suốt trong tâm, bỏ các trần lao vọng niệm, đều thành đạo. Vô thượng bồ đề, cho nên nói: "Nên biết người ấy gánh vác nổi cả tự tánh Như Lai Vô thượng Chánh giác  ở trong thân mình".

Phó Đại Sĩ giải:

 

Tụng: 

Tỏ tánh mê cho cho chóng,

Chứng thành Phật chẳng lâu.

Bởi nhờ trí tự tại,

Phương tiện dạy người tu.

 

Xuyên Thiền sư giải: Xé banh non Thai hóa([123]), duy có Cự Linh Thần.

Tụng:

Trơ trơ như cụm núi Tất cả cũng trần ai,

Đởm lược, xanh tròng mắt, Oai danh sấm chạc tai,

Chăn dân yên cảnh giới, Trong nước đúng anh tài

Lòng đan một mảnh - mênh mông biển,

Sóng tịnh trời êm mặc vãng lai.

93.-ÂM:

Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Nhược nhạo tiểu pháp giả, trước ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức ư thử kinh bất năng thính thọ đọc tụng, vị nhơn giải thuyết.

NGHĨA:

Bởi cớ sao? - Này Tu Bồ Đề! Bằng ưa theo tiểu pháp, thì còn chấp trước về ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến ([124]) thì đối với kinh này không hiểu thấu, không thọ trì, không đọc tụng và cũng không vì người mà giải thuyết đặng.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu  giải: Nhạo: là ưa. Tiểu pháp : là pháp ngoại đạo. Pháp ngoại đạotrước tướng  về ngã, nhơn, sanh, thọ; nên mới nói lời ấy. Như thế thì không hạp với lý trong kinh này, cho nên không thọ trì, đọc tụnggiảng giải lại cho người khác đặng.

Trần Hùng  giải: Tiểu pháp : là pháp Tiểu thừa.

Kinh Pháp Hoa có nói: "Căn khí thấp hèn thì ưa tiểu pháp" là hễ chí ý hẹp hòi thì không phát lòng Đại thừa đặng. Người như vậy phải đọa vào tà kiến, hẳn không biết đặng cái thuyết pháp Đại thừa, Tối thượng thừa đều ở trong kinh này - Nghe và đọc tụng còn không đặng thay, huống chi là giảng giải lại cho người khác.

Trước ngã nhơn kiến là đọa vào tà kiến.

Kinh Viên Giác có nói: "Cầu cái pháp Đại thừa thì chẳng đọa vào tà kiến " là vậy đó.

Lý Văn Hội giải: Nhược nhạo Tiểu phápđộ lượng của kẻ phàm phu ngu độn không có "tin nghe" đặng, hầu có học lên đạo pháp Vô thượng Bồ đề, chỉ tu phước huệ, làm theo cái pháp  nhân quả luân hồi  trong lục đạo. Dầu cho có rán học thì cũng chấp trước theo sự kiến văngiảng giải, lại cho người khác, đến khi bị người có nhãn lực khám phá thì tay chưn run lập cập, đại bại nhứt trường!

 

Ông Bảo Ninh Dõng Thiền sư có tụng:

 

Màu sắc khuôn hình xem chẳng lạ.

Người ai dám tưởng rằng đồ mạ.

Vào lò đốt thử thấp hay cao.

Rốt cuộc tự nhiên lòi bạc giả.

 

Huỳnh Nghiệt Thiền sư giải: Người xưa tâm chí sáng suốt, vừa nghe đặng một lời thì liền tuyệt học  ([125]), cho nên gọi là một vị nhàn đạo nhơn tuyệt học vô vi.

Còn người đời nay, chỉ muốn nhiều nghe rộng hiểu, muốn học cho cao mà cho là tu hành, nào ngờ sự nhiều nghe rộng hiểu, lại trở nên ủng tắc, vì bởi mấy món ấy đều là vị thuốc độc trong nẻo sanh diệt, chớ có ích chi cho chơn tánh đâu! Cả thảy những điều  tri giải trước kia đều phải bỏ dứt cho cái tâm trở nên không không. Ấy là không Như Lai Tạng. Như Lai Tạng là không mảy mún chi mà có. Ấy là vị Pháp vương  phá chấp xuất hiện trên thế gian.

 

Phật Tổ nói: "Khi ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng không có một chút pháp chi mà đặng", lời nói ấy nghĩa là không. Bằng các ông trừ dứt kiến tri, bỏ hết tâm cảnh, không còn chấp trước, ấy là người vô sự.

Giáo pháp tam thừa tức là một phương thuốc ứng cơ, tùy nghi mà thuyết, gặp bực nào thuyết theo bực ấy, mỗi mỗi không đồng nhau, nếu đặng tỏ ngộ thì chẳng bị sự hoặc loạn.

Thứ nhứt là không nên dùng tâm trí, mà chấp cuộc theo văn chương. Bởi sao vậy? Là bởi "không có pháp chi định chắc mà Như Lai thuyết cả". Trong cái "tông pháp của Ta không luận cái việc ấy, chỉ phải dứt lo, dứt niệm thì thôi, chớ chẳng dùng sự tư tưởng biện liệu".

Lại nói: Người học pháp Bát Nhã, chẳng thấy có một pháp chi mà đặng, không trông mong làm ba bực thừa, duy có một cái tánh chơn thiệt không đặng chứng đắc ([126]) đó thôi.

Còn nói rằng: "Ta đã chứng, đã đắc là hạng người  ngã mạn cống cao  (tặng mình khi người trên) hội  Pháp Hoa, phủi áo mà đi đều là bọn ấy".

Cho nên Phật nói: "Ta đối với pháp  A nậu Bồ đề  thiệt không có phép chi mà đặng, chỉ thầm hiểu mà thôi"; kẻ học đạo phải xét lấy. Phải theo chánh pháptu hành, bỏ thế bốn tướng ngã, nhơn, sanh, thọ  thì chẳng bị cả thảy các cảnh nó hoặc loạn việc tu hành.

Kinh Chánh Pháp Nhãn Tạng  có nói: "Bằng muốn tu hành, phải theo chánh pháp, tâm thể dứt niệm, sánh đồng hư không, chẳng lạc Thánh phàm, thân tâm bình đẳng"; tu hành như thế mới là chánh pháp cho.

Xuyên Thiền sư  giải: Kẻ nhơn thấy biết là nhơn, người trí xem tường là trí.

Tụng:

Không học văn, không học vũ,

Lao lao lục lục thường giong ruỗi.

Bơ thờ chẳng hiểu báu nhà mình,

Cam chịu dại khờ đói cú rũ!

Trách ai cho đặng.

94.-ÂM:

Tu Bồ Đề! Tại tại xứ xứ, nhược hữu thử kinh, nhứt thiết thế gian: Thiên, Nhơn, A tu la sở ưng cúng dường.Đương tri thử xứ, tức vi thị tháp, giai ưng cung kính, tác lễ vi nhiễu, dĩ chư hoa hương nhi tán kỳ xứ.

NGHĨA:

 Tu Bồ Đề! Nơi nào, chốn nào, bằng có kinh này, thì cả thảy thế gian: Thiên, Nhơn, A tu la đều nên cúng dường. Phải biết chỗ ấy, tức là Bửu tháp, đều nên cung kỉnh làm lễ chung quanh cùng là dùng các món hương hoa mà rải khắp nơi ấy.

Giải : Trần Hùng  giải: Tại tại xứ xứ : là không phải một chỗ nào có chơn kinh này, cũng ví nhưchâu báu  ma ni, hào quang, chiếu ánh cả thảy Thiên, Nhơn, A tu la  đều phải cúng dường, cũng như chỗ bửu tháp tàng thân Xá lợi  của Như Lai, thì ai lại không cung kỉnh lễ bái và dùng các hoa hương mà rải chung quanh?

Các hoa hương cũng như kinh Pháp Hoa nói hoa hương: Tu Ngạt Na, Xa Đề Mạt Lỵ, Chiêm Bặc, Xích Liên, Thanh LiênBạch Liên  vậy.

Nhan Bính  giải: Đại thừa : là bực  đại căn khí, một khi phát động thì Chuyển pháp luân, chẳng ưa Tiểu pháp.

Tối thượng thừa: là chẳng ở địa vị Phật, chẳng trọng mình là có linh tánh, cao siêu khỏi Thập địa  (mười nhân địa của Phật) tỏ ngộ cái đại pháp. Ấy là người ở trên chót cây trụ một trăm thước, lại bước lên trên một bước nữa.

Ông Trường Sa có tụng:

Đầu cây trăm thước đứng trân trân,

Tuy ngộ nhưng chưa đúng lý chân.

Trên chót bước lên trên một bước,

Mười phương thế giới hiện toàn thân.

Có ông Tăng hỏi ông Nam Tuyền: Quả như ở trên đầu cây trăm thước, làm thế nào mà bước lên trên nữa?

Đáp : Núi Lãng Châu sông Lễ Châu.

Hỏi : Xin Sư dạy lại.

Đáp : Trong bốn biển năm hồ nơi nào có chánh giáo của nước nhà, thì hai hạng người ấy ([127]), tức là người gánh vác tự tánh Như Lai Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nhược nhạo Tiểu pháp: Tiểu pháppháp hữu vi của thế gian, tuy trước bốn tướng; mà đã trước bốn tướng thì chẳng đặng nghe, thọ trì giảng giải kinh này.

Ở tại chỗ nào mà có kinh này cũng như có chùa Phật thì các đạo Thiên, Nhơn, A tu la  đều cung kỉnh lễ bái, thường đem hoa hương mà rải chỗ trì kinh và cúng dường người ấy.

Ấy là một người đủ lý ngộ tâm, thì các cõi thảy đều cúng dường ([128]).

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

Phát tâmtự tánh, Công đức mới tu hành.

Không trông làm đại Phật, Có ý độ quần sanh.

Từ bi bi lộng lộng, Trí huệ huệ rành rành.

Tự lợi gồm tha lợi. Tam thừa há rấp ranh.

Lý Văn Hội  giải: Tại tại xứ xứ  v.v... là cả thảy chúng sanh sáu căn  vận động, mỗi thứ thi vi thường ở trong  Pháp tánh Tam muội, nên tỏ lý ấy thì tức là ở chỗ đó có kinh này.

Nhứt thiết thế gian : là có cái lòng hữu vi.

Thiên, Nhơn, A tu la: Thiên : là có lòng lười biếng, nhơn : là có lòng lành dữ, A tu la : là có lòng hờn giận; cũng bởi còn lòng ấy nên chẳng đặng giải thoát.

Sở ưng cúng dường  là nếu không cái lòng Thiên, Nhơn, A tu la mới là cúng dường (vô chấp). Tức vi thị pháp : là cái tánh giải thoát vọi vọi rõ ràng, cho nên nói là pháp - Dĩ chư hoa hương  v.v... là phải ở trong cái tánh giải thoát, mở bừng sự tri kiến, vun bồi muôn hạnh thì tánh pháp giới tự nhiên hiển hiện.

Xuyên Thiền sư  giải: Củ cải ở châu Trấn, bánh bột Sư Vân Môn.

Tụng:

Cũng đồng chơi dạo, cũng đồng hương,

Đi đứng cùng nhau, bửa chữa thường.

Khát uống, đói ăn đều đối diện,

Cầu chi nhọc trí phải tư lương.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14729)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11800)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12741)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10317)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12040)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15260)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11050)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10490)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12445)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16409)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14281)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11753)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14773)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16795)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11552)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12714)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11324)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12034)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52058)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15445)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13950)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11415)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13145)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12758)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13194)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17882)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12428)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12633)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54179)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14409)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9909)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13808)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57924)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14471)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20111)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13754)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15380)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17476)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13298)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11904)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13472)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14640)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12464)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12143)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12049)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13269)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12520)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13652)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13308)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25548)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12167)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14519)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11828)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42040)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28290)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38764)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14706)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12683)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16231)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant