Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương mười tám

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8849)
Chương mười tám

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG MƯỜI TÁM

118.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Nhục nhãn phủ?".- "Như thị, Thế Tôn ! Như Lai hữu Nhục nhãn".- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Thiên nhãn phủ?".- "Như thị, Thế Tôn ! Như Lai hữu Thiên nhãn".- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Huệ nhãn phủ?".- "Như thị, Thế Tôn ! Như Lai hữu Huệ nhãn".- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Pháp nhãn phủ?".- "Như thị, Thế Tôn ! Như Lai hữu Pháp nhãn".- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Phật nhãn phủ?".- "Như thị, Thế Tôn ! Như Lai hữu Phật nhãn".

NGHĨA:

"Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Như LaiNhục nhãn chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy; Như Lai có Nhục nhãn".

- "Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Như LaiThiên nhãn chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy; Như Lai có Thiên nhãn".

- "Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Như LaiHuệ nhãn chăng?".- "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy; Như Lai có Huệ nhãn".- "Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Như LaiPháp nhãn chăng?".- "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy; Như Lai có Pháp nhãn".- "Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Như LaiPhật nhãn chăng?".- "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy; Như Lai có Phật nhãn".

 

Giải : Nhựt Nguyệt Thù Quang Như Lai giải: Nhục nhãn là thấy đặng cái nhân duyên  sanh diệt của sắc thân bốn loại: noãn, thai, thấp, hóa.

Thiên nhãn là thấy đặng cung điện của các cõi trời cái nhân duyên vận hành của mây mưa, tối sáng, tinh tú và nhựt nguyệt. Huệ nhãn là thấy đặng cái tánh huệ cao thấp của chúng sanh và cái nhân duyên luân hồi đầu thai của các bực thượng phẩm hạ sanh. Pháp nhãn là thấy đặng cái nhân duyên của pháp thân đầy khắp cả ba cõi, không hình không tướng, khắp cả hư không cả pháp giới. Phật nhãn là thấy đặng thân của Phật, thế giới không chi sánh bằng, phóng hào quang soi thấu các chỗ hắc ám không ngăn không ngại, viên mãn thập phương; theo hào quang ấy mà thấy đặng bổn thể, biết có quốc độ của Niết bàn.

- Bằng có hạng người thượng căn thượng trí biết đặng nhân duyên  ngũ nhãn của Như Lai, thì tức là bực Đại thừa Bồ Tát.

Trần Hùng giải: Kinh Hoa Nghiêm có nói: "Nhục nhãn  thấy cả thảy sắc; Thiên nhãn thấy cả thảy tâm của chúng sanh; Huệ nhãn  thấy cả thảy cảnh giới, các căn khí của chúng sanh, Pháp nhãn  thấy cả thảy thiệt tướng của các pháp; Phật nhãn thấy thập lực của Như Lai". Trong kinh Đại Bát Nhã nói: thanh tịnh ngũ nhãn là vậy.

Thế Tôn hỏi về cái lý ngũ nhãn ông Tu Bồ Đề đều đáp có như lý ấy, thiệt đáng khen là hay vấn đáp.

Nhan Bính giải: Sự trông thấy theo bực hóa thânNhục nhãn: soi khắp cả đại thiênThiên nhãn; đuốc trí thường tỏ là Huệ nhãn; tỏ các pháp đều không là Pháp nhãn; tự tánh thường giácPhật nhãn.

Có ông Tăng hỏi vị Tôn túc: Quán Âm Bồ Tát ([136]) dùng bấy nhiêu tay mắt đặng làm cái gì?

Đáp: "Cả mình đều tay mắt cả".

Hạng thường nhơn trong ngũ nhãn ấy cũng không có đặng lấy một nhãn, đâu lại đặng đến ba đến bốn! Tuy vậy nhưng mà phải làm sao như cái người ấy mới đủ ngũ nhãn đặng; là duy có bực tự tánh Như Lai.

Kinh Ngũ Nhơn Độ Tế Phẩm có nói: "Phật nói tùy thế giankhai hóa, nên vào nói năm đường ([137]) mà thanh tịnh ngũ nhãn".

1.- Nhục nhãn: ở chốn thế gian hiện thân tứ đại, bởi ấy mà khai hóa độ thoát chúng sanh;

2.- Thiên nhãn: ở trên chư Thiên và dưới thế gian, chỗ nào chưa biết chí đạo thì chỉ bảoTam thừa.

3.- Huệ nhãn: chỗ nào chưa hay hiểu và trí độ chưa đúng đều khai hóa cho vào bực Đại huệ.

4.- Pháp nhãn: kẻ trí thức còn hẹp hòi, không đặng quảng đại, thảy đều khai hóa giải rõ cái nghĩa Pháp thân, vốn không đi, tới, khiến cho bình đẳng ba đời.

5.- Phật nhãn: kẻ còn mê hoặc chẳng biết chơn chánh, bị ấm giới nó che ngăn, ví như người mê ngủ thì chỉ dạy cái hạnh bốn bực, bốn ơn: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn.

Nhứt tâm dùng trí huệ, hay quyền dung phương tiện, tùy nghi không lỗi, khiến cho cả thảy đều phát cái đạo chánh chơn vậy.

Lý Văn Hội giải: Cả thảy phàm phu đều đủ ngũ nhãn, mà bị cái vọng tâm che áng nên không rõ đặng tự tánh. Bằng không mê tâm vọng niệm, ví như cái mù áng đã bay đi hết, thì ngũ nhãn, tỏ sáng mới thấy đặng cả thảy sắc.

Trong ngoài vắng lặng, ấy là Nhục nhãn; rõ đặng chơn tánh mình, là pháp bình đẳng, ấy là Thiên nhãn; rõ đặng trí Bát Nhã trong tự tánh, ấy là Huệ nhãn; thấy các sắc tướng, lòng chẳng động lay, thấy cả thảy pháp đều không cả thảy pháp, thấy cả thảy tướng đều không cả thảy tướng, ấy là Pháp nhãn; thấy đời trước không có phiền não chi mà bỏ, đời này không có tự tánh chi mà giữ, đời sau không có Phật đâu mà cầu, ba đời thanh tịnh, ấy là Phật nhãn.

Lại nói: Dùng không tướng làm Pháp thân, ấy là  Huệ nhãn; thấy đặng Như Lai.

Chỉ không, luận có, giả danh, lập tướng, ấy là Pháp nhãn; thấy đặng  Như Lai.

Bằng tỏ lý có, không là chẳng có có không, hai bên vắng lặng, toàn thể  Pháp thân  khắp cả pháp giới; ấy là cụ túc  Phật nhãn; thấy đặng Như Lai.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

Nhục nhãn còn ngăn ngại, Như Thiên nhãn mới thông.

Pháp, soi tường tục đế, Huệ, xét thấu duyên không.

Phật, quá vừng hồng sáng, Thấy nhiều thể tánh đồng.

Viên minh trong pháp giới, Không chỗ chẳng hàm dung.

Xuyên Thiền sư giải: Đều ở dưới lông mày.

Tụng:

Như Laingũ nhãn, Giáp mổ chỉ hai con.

Đều đều chia đỏ trắng, Thảy thảy biện xanh vàng.

Kỳ trung có chút chi sai suyễn,

Tháng sáu nồng nàn, xuống tuyết sương.

119.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Hằng hà trung sở hữu sa,Phật thuyết thị sa phủ?". - "Như thị, Thế Tôn ! Như Lai thuyết thị sa". - Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như nhứt Hằng hà trung sở hữu sa, hữu như thị sa đẳng hằng hà, thị chư Hằng hà sở hữu sa số Phật thế giới, như thị, ninh vi đa phủ?".- "Thậm đa, Thế Tôn !".

NGHĨA:

"Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Như trong sông Hằng có số cát, Phật nói là cát chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy; Như Lai nói là cát".

-Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Như dùng số cát trong một sông Hằng mà ví dụ, có những sông Hằng khác nhiều bằng số cát ấy, rồi có thế giới Phật bằng số cát của những sông Hằng ấy, như thế, thiệt là nhiều chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều".

 

Giải : Lục Tổ giải: Sông Hằng là cái sông ở gần bên nhà Tịnh xá, chỗ Kỳ Viên, nước Tây Vức. Phật thuyết pháp thường hay chỉ sông ấy mà ví dụ.

Phật hỏi: "Cát ở sông ấy, mỗi hột cát ví một thế giới Phật, như vậy nhiều chăng?". Cho nên ông Tu Bồ Đề mới đáp: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều".

Vương Nhựt Hưu giải: Hằng hà trung v.v... là mỗi hột cát là một sông Hằng - Thị chư Hằng hà v.v...; thị chư Hằng hà là mỗi hột cát là một sông Hằng, như thế thì số cát của cả thảy sông Hằng thiệt nhiều không xiết kể.- Phật thế giới như thị thế giới nhiều như vậy thì số nhiều không thể nói.

Phật dùng việc ấy mà hỏi ông Tu Bồ Đề là cớ sao? Là khi đương đường thuyết pháp, trước hết muốn cho người tỏ ngộ tự tâm, nên không nhàm nản mà nói đi nói lại. Bởi vậy mới có mấy lời trong bài sau đây.

Phật thế giới là phàm một đại thế giới thì có một vị Phật hóa độ. Cho nên hễ đại thế giới đều kêu là Phật thế giới.

Nhan Bính giải: Nói thế giới như số cát là nói sự nhiều.

- Hữu như thị đẳng v.v... đẳng là so sánh (ví). Dùng cát như thế mà ví sự nhiều của sông Hằng. Lại dùng những cát của cả thảy sông Hằng ấy mà ví thế giới Phật. Phật dùng như thế mà hỏi "nhiều chăng" Cho nên ông Tu Bồ Đề mới đáp: "Rất nhiều".

Tăng Nhược Nột giải: Nêu những cát trong sông Hằng, mỗi hột cát là một thế giới; dùng như thế mà hỏi.

Lý Văn Hội giải: Hằng hà sa số là muốn rõ chúng sanh có các thứ vọng niệm, cho nên dùng vô cùng những cát mà ví dụ. Kinh Lăng Nghiêm có nói: "Phật Lưu Ly Quang Pháp Vương tử xem chúng sanhthế gian đều bởi nơi cái duyên vọng, bị cái phong đại (là một trong tứ đại) nó chuyển dời: quán việc thế thì động theo thời, quán cái thân thì động theo sự chỉ, (chỉ tức), quán cái tâm thì động theo sự niệm, các sự động đều có một bực không sai khác. Cái tánh của các sự động ấy; lại không chỗ theo, đi không chỗ đến, mười phương vi trần điên đảo, chúng sanh thảy đều hư vọng.

120.ÂM:

Phật cáo Tu Bồ Đề: "Nhĩ sở quốc độ trung, sở hữu chúng sanh, nhược can chủng tâm, Như Lai tất tri".

NGHĨA:

Phật bảo Tu Bồ Đề: "Những chúng sanh trong quốc độ ấy, có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai đều biết cả".

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Sở hữu chúng sanh là phàm chúng sanh trong thế giới ấy là cả thảy chúng sanh. Như Lai, sở dĩ biết đặng cái tâm của cả thảy chúng sanh đó, là bởi tâm ấy đều là tâm vọng ở trong  chơn tánh  hiện ra. Mà đã sanh cái tâm vọng, thì Phật xem thấy hẳn có hình tướng rõ ràng. Bởi có hình tướng, cho nên mới biết. Bằng vắng lặng như hư không thì do đâu mà biết đặng?

Còn nói pháp "Tha tâm thông"  là người nào khác khởi sanh tâm niệm thì Tha tâm thông  cũng đều biết đặng cả.

Có người kia nắm con cờ trong tay, mà hỏi vị Tha tâm thông; vị ấy biết ngay là con cờ, là bởi tại người kia đã biết trước con cờ rồi.

Còn nếu mình không biết số nhiều ít mà hỏi, thì Tha tâm thông không biết đặng, là bởi tại mình không biết trước.

Lấy đó mà luậnthì nếu một phen khởi niệm dường như có hình tướng rõ ràng, nên có thể mà biết đặng.

Còn như Phật phải là có một pháp Tha tâm thông  mà thôi đâu! Cho nên vô lượng chúng sanh, một phen khởi niệm, thảy đều thấy biết, không còn chi nghi ngại cả.

Nhan Bính giải: Nhược can  là bao nhiêu; dầu bao nhiêu tâm, Như Lai cũng đều biết, bởi tâm cảnh sáng suốt không chỗ nào chẳng khắp rõ.

Tăng Nhược Nột giải: Nhược can: nhược là như, can là số.

Ông  Nhan Sư Cổ  có nói: "Là cái lời hỏi (bao nhiêu) của phép toán".

Nhược can có hai thứ: một là lòng của phàm phu thế gian; hai là lòng của Thánh nhơn  xuất thế gian, Như Lai  đều biết hết, nên gọi là "Chánh Biến Tri".

Lý Văn Hội giải: Nhược can chủng tâm v.v... Nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; bằng khởi động niệm đều là  quốc độ. Ở trong quốc độ có những chúng sanh, bao nhiêu những tâm sai biệt, số tâm tuy nhiều, nhưng tổng danh là vọng tâm; đã biết là vọng. Cho nên nói: "Đều biết cả".

Xuyên Thiền sư giải: Tu bỉ đặng rồi thương những kẻ; say mê tỉnh lại ngán cho ai!

Tụng:

Để mắt Đông Nam, Lưu tâm Tây Bắc.

Sẽ nói khỉ đen, Lại rằng vượn bạch.

Cả thảy chúng sanh cả thảy tâm,

Thường đeo đuổi mãi điều thinh sắc.

121.ÂM:

Hà dĩ cố? Như Lai thuyết: Chư tâm giai vi phi tâm, thị danh vi tâm.

NGHĨA:

Bởi cớ sao? - Như Lai nói cả thảy tâm, đều chẳng phải tâm, chỉ cưỡng danh là tâm.

 

Giải : Lục Tổ giải: Trong  quốc độ  ấy có những chúng sanh, cả thảy chúng sanh đều có bao nhiêu tâm sai biệt, số tâm tuy nhiều nhưng tổng danh là vọng tâm. Biết đặng vọng tâm là chẳng phải tâm; nên nói: Chỉ cưỡng danh là tâm.

Nhan Bính giải: Như Lai  nói các thứ tâm thiệt không có chi mà đặng. Cho nên nói: "Chẳng phải tâm, chỉ cưỡng danh là tâm".

Lý Văn Hội giải: Phải biết vọng tâm là chẳng phải tâm; vốn không vọng niệm, chẳng khởi vọng tâm, tức là bổn tâm của tự tánh. Cho nên nói: "Chỉ cưỡng danh là tâm". Tâm ấy tức là tâm của  Bồ Tát, cũng kêu là tâm của  Niết bàn  của đại đạo và của Phật.

Ông Lâm Tế Thiền sư có lời tụng:

 

Bằng nhứt niệm tâmgiải thoát,

tam muội pháp của Quán Âm.

 

Xuyên Thiền sư giải: Hay đau thì quen tánh thuốc.

Tụng:

Một lượn sóng đùa mấy lượn sanh,

Kiến bò miệng chén biết đâu ranh.

Bấy giờ cắt đoạn vì ngươi đó,

Đặng xuất thân rồi mới đại danh.

122.ÂM:

Sở dĩ giả hà? Tu Bồ Đề!

 Quá khứ tâm bất khả đắc;

Hiện tại tâm bất khả đắc;

Vị lai tâm bất khả đắc".

NGHĨA:

Sở dĩ sao? Này Tu Bồ Đề!

Tâm quá khứ, không có chi mà đặng;

Tâm hiện tại, không chi có mà đặng;

Tâm vị lai, không có chi mà đặng".

 

Giải : Triệu Pháp sư giải: Nghe nói các thứ tâm, thì cho rằng có tâm thiệt, nên lo trừ bỏ; phải rõ tâm của  ba đời  đều không, cho nên trong  Luận  có nói: "Quá khứ  đã hết, vị lai  chưa khởi, hiện tại  thì hư vọng". Ba đời  xét cầu, rốt không chi đặng.

Sớ Sao giải: Chưa giác ngộ thì chẳng biết, nên tùy thờilưu chuyển mới có  ba đời  - Bằng giác ngộ đặng cái tâm chơn nhứt rồi, thì không có  quá khứ, hiện tại, vị lai.

Bằng có tâm  quá khứ  mà diệt đặng ấy là mình tự diệt. Có tâm vị lai  mà sanh đặng, ấy là mình tự sanh. Đã có sanh diệt thì không phải là  chơn tâm thường trụ, tức là tâm y tha, tâm hư vọng.

Bằng nhứt niệm có tâm sanh diệt thì thành ra 62 thứ tà kiến, 900 thứ phiền não.

Vương Nhựt Hưu giải: Cái chơn tâm thường trụ  tức là  chơn tánh. Vậy nên từ đời vô lượng vô số kiếp đến nay, thường nhứt định mà không biến động, chớ đâu có  quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu có quá khứ, vị lai, hiện tại  thì là vọng tưởng; tức là tam tâm.

Vả lại, như đói mà chưa muốn ăn thì cái tâm ấy là tâm  vị lai; đói mà đương muốn ăn là tâm  hiện tại; ăn rồi mà buông đũa muỗng là tâm quá khứ, thì cái tâm ấy bởi việc mà khởi, việc qua rồi thì dứt. Cho nên nói vọng tưởng tâm.

Bất khả đắc  là không, là  tam tâm  ấy bổn lai không có, tại bởi việc mà có. Cho nên trong kinh Viên Giác  sở dĩ nói: "Sáu trần  bởi theo cái bóng ở ngoài mà làm cái tướng của "tự tâm", là nói chúng sanh dùng cái bóng của sáu thứ trần duyên mà làm cái tướng của  tự tâm  mình vậy".

Tăng Nhược Nột giải: Kinh Bổn Sanh Tâm Địa Quán có nói: Phật thường nói duy có cái  tâm pháp  là chủ của  ba cõi; bổn nguyên của tâm pháp chẳng nhiễm bụi nhơ.

Thế nào là tâm pháp? Nếu nhiễm  tham, sân, si  của pháp ba đời  thì ai gọi là tâm. Tâm quá khứ đã dứt, tâm vị lai chưa đến, tâm  hiện tại  chẳng trụ. Ở trong các pháp, đâu có tánh chi mà đặng? Ở ngoài các pháp đâu có tướng chi mà đặng? Ở trung gian các pháp cũng đều chẳng có chi mà đặng cả. Tâm pháp bổn lai không có hình tướng, tâm pháp bổn lai không có chỗ trụ. Cả thảy  Như Lai  còn chẳng thấy tâm pháp thay, huống chi là ai mà thấy đặng tâm pháp!?

Nhan Bính giải: Tưởng nhớ việc trước là tâm quá khứ, tưởng nhớ việc bây giờ là  hiện tại; tưởng nhớ việc sau là tâm  vị lai. Ba điều tưởng nhớ ấy đều bỏ, không chấp, ấy là không có chi mà đặng.

Trong kinh có nói:

Niệm trước niệm sau với niệm này,

Niệm sau đừng nhiễm vào tà kiến.

Ấy là  tam tâm  không có chi mà đặng.

Cổ Ngữ có nói: "Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện" là cũng nói  ba đời  đều dứt, ba niệm đều vọng, rốt không chi đặng.

Kinh Vị Tằng Hữu có nói: "Ông Diệu Kiết Tường Bồ Tát nhận thấy một người nọ tưởng rằng mình có tạo nghiệp sát, ắt phải đọa vào  địa ngục, chẳng biết thế nào mà cứu độ. Ngài bèn hóa ra một người, rồi cũng nói: "Tôi có tạo nghiệp sát, ắt phải đọa vào  địa ngục". Người nọ nghe rồi nói: "Tôi cũng như thế". Người hóa ấy bảo rằng: "Duy có Phật mới cứu tội ấy đặng, vậy thì đi theo tôi đặng đến cầu Phật".

Người hóa bạch Phật: Tôi tạo nghiệp sát e đọa vào  địa ngục, xin Phật cứu độ - Phật bèn bảo người: "Theo lời ngươi nói tạo nghiệp sát đó, vậy bởi cái tâm nào mà ngươi gây ra nghiệp ấy? Tâm  quá khứ, hiện tại  hay là  vị lai? Bằng khởi cái tâm  quá khứ, là tâm đã diệt, cũng không có chi là tâm; mà tâm  vị lai  là tâm chưa đến, cũng không có chi là tâm; còn tâm  hiện tại  là tâm chẳng trụ, cũng không có chi là tâm. Ba đời  đều không có chi mà đặng, thì không khởi tác. Đã không khởi tác thì cái tướng của tội bởi đâu mà thấy.

Thiện nam tử này! Vả cái tâm không có chỗ trụ: chẳng ở trong, chẳng ở ngoài và cũng chẳng ở trung gian. Tâm cũng không sắc tướng, chẳng phải xanh, vàng, trắng, đỏ chi!

Tâm không có tạo, bởi không chi mà tạo: tâm chẳng phải huyễn hóa, bởi vốn chơn thiệt; tâm không bờ bực, bởi không có hạn lượng; tâm không chấp bỏ, bởi không có lành dữ; tâm không chuyển động, bởi không sanh diệt, tâm sanh như hư không, bởi không ngăn ngại; tâm không nhiễm tịnh, bởi lìa cả thảy các việc (kiếp số).

Này Thiện nam tử! Nếu tưởng như thế, thì trong cả thảy pháp, đều không có chi mà cầu cái tâm đặng cả! Bởi cớ sao? Tự tánh của tâm là các pháp tánh. Các pháp đều không, ấy là tánh chơn thiệt. Bởi cái nghĩa ấy thì ngươi cũng chẳng nên e sợ".

Lúc ấy người hóa nghe Phật thuyết pháp bèn bạch Phật rằng: "Nay tôi ngộ đặng tánh tội vẫn không, không còn e sợ". Người tạo nghiệp nọ cũng bạch Phật: "Nay tôi ngộ đặng tánh tội vẫn không, mà không còn tư tưởng những điều e sợ ấy nữa".

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

Một niệm vừa manh động, Bởi tâm vọng sở hành.

Các tà kiến lẫn lộn, Những trược lậu tung hoành.

Quá khứ diệt không diệt. Vị lai sanh chẳng sanh.

Thường hay quán pháp ấy, Chơn, vọng, tự nhiên bình.

Lý Văn Hội  giải: Tâm của  ba đời  không có chi mà đặng, bởi tại duyên mà sanh.

Triệu Pháp sư giải: Nghe nói cả thảy tâm thì cho rằng thiệt có tâm, nên toan dứt bỏ.

Phải rõ tâm của  ba đời  đều không, nên nói: Quá khứ  đã hết, vị lai  chưa khởi, hiện tại hư vọng; ba đời  xét cầu rốt không chi đặng. Cho nên nói: Nếu ngộ đặng không pháp, không tướng, không sự, chơn tâm bình thường tức pháp thể vắng lặng: chẳng sanh, chẳng diệt, rỗng rang thanh tịnh đâu có niệm trước, niệm sau, niệm nay chi mà đặng.

Mã Tô>  giải: Đạo chẳng cần tu, chỉ đừng ô nhiễm - Thế nào là ô nhiễm? Là có cái hướng thú sanh tử tạo tác, đều là ô nhiễm. Bằng muốn mau hiểu đặng đạo, thì cái tâm bình thường, tức là đạo, - Thế nào là tâm bình thường? Là không tạo tác phải quấy, chấp bỏ, thương ghét, phàm Thánh. Cho nên trong kinh nói: "Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh Thánh Hiền thì tức là hạnh Bồ Tát".

Ông  Triệu Châu  hỏi ông Nam Tuyền:

"Thế nào là đạo?".

Đáp : Tâm bình thường là đạo.

 

Viên Ngộ Thiền sư  giải:

Tụng:

Muốn biết đạo bình Thiên chơn ấy bổn nguyên. thường,

Roi dùng mà cỡi ngựa. Chèo để có đi thuyền.

Đói phải ăn là tánh, Buồn thì ngủ tự nhiên.

Bởi vì duyên mới đặng. Đặng đặng cũng không duyên.

Xuyên Thiền sư  giải: Nói nho nhỏ! Nói nho nhỏ chỉ phải xì hơi ra lỗ mũi.

Tụng:

Ba đời cầu mãi có chi tâm,

Đôi mắt trơ trơ chỉ ngó chăm.

Tuyết, nguyệt, phong, hoa, thường trước mặt.

Hay gì rớt giáo khắc bè tầm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22059)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15908)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14929)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18781)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14344)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14293)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13450)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13439)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11718)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13149)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13836)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13151)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14916)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16065)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10986)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16315)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11775)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17468)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12792)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13581)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12786)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14775)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16243)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13025)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 11999)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12658)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12787)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12690)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14028)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14010)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16354)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12289)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14287)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11180)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10930)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13119)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13795)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13062)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12896)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13406)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12600)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10122)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13814)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10136)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13595)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16160)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11868)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12871)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11556)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10697)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10887)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10859)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12657)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10978)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12516)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11230)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant