Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương hai mươi bảy

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9119)
Chương hai mươi bảy

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG HAI MƯƠI BẢY

145.ÂM:

Tu Bồ Đề! Nhữ nhược tác thị niệm: "Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố, đắc A nậu đa la tam muội tam bồ đề ".

 Tu Bồ Đề! Mạc tác thị niệm: Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

 Tu Bồ Đề! Nhữ nhược tác thị niệm: Phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả, thuyết chư pháp đoạn diệt; mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? - Phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả, ư pháp, bất thuyết đoạn diệt tướng".

NGHĨA:

Này Tu Bồ Đề! Bằng ông tưởng như vầy: "Như Lai chẳng dùng tướng cụ túc mà đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".

 Tu Bồ Đề! Chớ tưởng như vậy : Như Lai há chẳng dùng tướng cụ túc mà đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 Tu Bồ Đề! Bằng ông tưởng như vầy: "Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ấy, mà nói các pháp đoạn diệt. Chớ tưởng như vậy.

 Bởi cớ sao? - Bởi phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ấy, theo pháp, chẳng nên nói cái tướng đoạn diệt".

 

Giải: Nhan Bính giải: Phần này có bốn chương đều của Phật nói. Trước hết kêu ông Tu Bồ Đềnói trái lại, nếu ngươi tưởng như vầy: "Như Lai dùng tướng cụ túc mà đặng Vô thượng Chánh giác", rồi nói chánh lại "Chớ tưởng như thế". Như Lai chẳng dùng tướng cụ túc mà đặng Vô thượng Chánh giác?".

Kế đó cũng nói trái lại: Nếu ngươi tưởng như vầy: phát tâm Vô thượng thì nói các tướng đoạn diệt của các pháp", rồi nói chánh lại: "Chớ tưởng như thế. Phát tâm Vô thượng theo pháp, không nói tướng đoạn diệt".

Thế Bổn chương thứ nhứt hay viết lầm: Như Lai "bất"cụ túc tướng cố. Bản ở Tân Châu của đức Lục Tổ chú giải, bản ấn thí của họ Trần ở Nam Phố: chương thứ nhứt đều không có chữ  "bất": lý cũng phải.

Bản của Vương Hư Trung chú giải, bản ấn thí của Trương Công Xướng ở Võ Di đều viết: Như Lai khả dĩ cụ túc tướng cố: lý cũng thông.

Thạch bản Thọ Châu đều có chữ "bất"; nghĩa lại càng rõ.

Vương Nhựt Hưu giải: Chư pháp đoạn diệt là cả thảy pháp đều đoạn diệt mà không dùng - Tướng là tướng của các pháp.

Trong kinh Phật nói tướng, là hễ cái chi mà có là tướng, nên ban ngày sáng thì nói tướng sáng, ban đêm tối thì nói tướng tối. Các pháp trong kinh nói, đều là tướng pháp; chẳng phải pháp của kinh nói, ấy là tướng chẳng phải pháp. Bài này nói đoạn diệt mà chẳng dùng các pháp là tướng đoạn diệt.

Vả lại cái pháp cũng không nên câu nệ mà cũng không nên đoạn diệt, ví như qua sông, khi đã qua rồi thì không dùng ghe chèo nữa, chớ trước khi chưa qua không dùng sao đặng? Còn đã ngộ đạo rồi không dùng pháp nữa, chớ chưa ngộ đạo không dùng sao đặng? Nên phát tâm Vô thượng phải nương theo Phật pháptu hành, không nên đoạn diệt Phật pháp mà không dùng. Cho nên nói: "Nếu ngươi tưởng như vầy: phát tâm  Vô thượng Chánh giác thì nói các tướng đoạn diệt của các pháp; không nên nói như vậy".

Bởi sao mà không nên nói như vậy? - Bởi phát tâm cầu chơn tánh, hẳn nương theo Phật pháptu hành, nên cái pháp không nên đoạn diệt.

Nhan Bính giải: Toàn kinh này chỉ nói có một chữ "vô" Phật lại e cho người chấp trước chữ "vô" ấy mà lạc vào "không", sa vào  tịch; bỏ có chấp không thành ra tướng đoạn diệt nào có khác chi trong  Chứng đạo ca, có câu:

 

Chấp, không bỏ có bịnh đồng nhau,

Như tránh chết chìm, tìm chết đốt.


Cho nên phần này chỉ răn người không nên đoạn diệt. Mà người hoặc đã biết, hoặc chưa biết, đều cho chữ "vô" là cái pháp rất đúng, thì sự lầm chẳng ít.

Xưa có ông Trương Chuyết tú tài tham kiến ông Tây Đường Tạng Thiền sư mà hỏi: Non sông đại địa, chư Phật ba đời có hay không có?

- Có.

- Lầm.

- Tiền bốitham kiến ai chưa?

- Đã có tham kiến ông Kỉnh Sơn: tôi có hỏi ông, ông nói: "Đều là không".

- Chờ khi nào Tiền bối đặng như ông Kỉnh Sơn, thì cả thảy đều không mới đặng.

Đại phàm những người chưa kiến tánh, làm sao mà nói cả thảy đều không đặng, nên Phật bảo ông Tu Bồ Đề: Ngươi chớ tưởng như vậy. Như Lai há chẳng dùng cái tướng cụ túc mà đặng đạo  Vô thượng Chánh giác. Nếu ngươi tưởng như vậy mà phát tâm Vô thượng Chánh giác, ấy là nói đoạn diệt các pháp. Bởi cớ sao? - Là phát tâm  Vô thượng Chánh giác, không nên nói các tướng đoạn diệt.

Trí Giả Thiền sư giải:

Tụng: 

 

Tướng, tướng chi là tướng, Do lai tướng vốn không.

Sanh nhiều môn pháp pháp, Riêng các thể không không.

Đoạn diệt cùng không đoạn, Tông thông mới rõ tông.

Cảnh, tâm đừng chấp trước, Chánh thị đại nhơn ông.

 

Lý Văn Hội giải: Như Lai bất dĩ  v.v... là Phật e ông Tu Bồ Đề lạc vào  đoạn diệt kiến, nên mới dạy cho lìa cả hai bên, nhưng cái tánh, hàm dung cả muôn pháp chẳng phải bởi tại cụ túc, ứng dụng đều biết hết, một là cả thảy, cả thảy là một, đi đứng tự do không chi quái ngại; pháp ấy, trên từ chư Phật, dưới từ loại hàm linh, vẫn không thiếu kém ấy là tướng cụ túc.

Thuyết chư pháp v.v... là các pháp tánh đều không, không tức là thường, nên không đoạn không diệt. Nếu như tưởng rằng: không có tướng chi, chỉ có đạo tâm mà thôi; là đoạn cả thảy hạnh, diệt cả thảy pháp; thì trái vớitrung đạo.

Lại nói: Bằng quán tưởng là có tướng, ấy là chấp một bên, mà quán tưởngkhông tướng, cũng là chấp một bên. Còn quán tưởng là "chẳng không" "chẳng có" chi cả, ấy là đoạn diệt pháp. Nên biết pháp tánh chơn như chẳng phải là có, chẳng phải là không, rỗng rang chẳng động; quán cùng chẳng quán đều là sanh diệt. Cho nên nói: Chớ tưởng như thế.

Ư pháp bất thuyết đoạn diệt tướng  là người kiến tánh nên xét tột lý ấy. Nếu lòng không, ngồi tịnh, trăm việc chẳng lo, mà cho là ráo rốt, là chấp về tướng không tức các pháp  đoạn diệt.

Triều Đại Sư giải:

Tụng:

Phật dạy lý chơn không,

Bởi e người chấp có.

Nếu như lại chấp không,

Chụp thỏ mà buông ó.

 

Cho nên, bực đại sĩ thể cái lý không mà đến điều đức, kẻ phàm phu chấp cái lý không mà xa điều lành. Phải biết hữu vi là thể của vô vi, còn vô vi là dụng của hữu vi.

Xuyên Thiền sư giải: Tề không bằng, gở càng thêm rối. Kéo phăng ra cắt mối chẳng rời.

Tụng:

 

Bởi cớ sao ai khéo đặt bày?

Ban đầu nắm chặt rốt buông lơi!

Chớ rằng Đại Phật thiên "không kiến",

Dứt một lời âu nối một lời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32611)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6439)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11096)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30233)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30315)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7886)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12039)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12590)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34460)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9724)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52120)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10629)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10388)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10595)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21646)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12534)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16397)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16407)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11963)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16129)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16108)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12619)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11952)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15551)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11408)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12517)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11880)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14386)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20543)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13113)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20567)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14233)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17469)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13858)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant