Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương ba mươi mốt

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9637)
Chương ba mươi mốt

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG BA MƯƠI MỐT

156.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Nhược nhơn ngôn: Phật thuyết ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến - Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Thị nhơn giải ngã sở thuyết nghĩa phủ?". - "Phất dã, Thế Tôn ! Thị nhơn bất giải Như Lai sở thuyết nghĩa. Hà dĩ cố? - Thế Tôn thuyết ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức phi ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, thị danh ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến".

NGHĨA:

"Này Tu Bồ Đề! Bằng ông nào nói Phật nói: ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? - Người ấy có tỏ nghĩa lý của Ta nói không?".

 "Bạch đức Thế Tôn ! Không - Người ấy tỏ nghĩa lý của Phật nói.

 Bởi cớ sao? - Bởi Phật nói ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, nhưng chẳng phải ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, chỉ cưỡng danh là ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến vậy thôi".

 

Giải : Thông Vương Như Lai giải: Phật nói bốn câu đó, là chỉ nói kiến tánh, chớ chẳng phải nói tướng.

Nói lập lại ba lần là Phật phân biệt cái nghĩa bỏ tướng kiến tánh.

Tụng: 

Giảng rành tứ kiến ngã cùng nhân,

Quán tự tánh mình chẳng quán thân.

Phá tướng thủ không cho vắng lặng,

Giả trừ dà tỏa khỏi mê tân.

 

Vương Nhựt Hưu giải: Ngã kiến  là lấy sự kiến thứcnhận ra là có. Nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến  là lấy sự kiến thức mà nhận là có nhơn, có chúng sanh, có thọ giả.

Đó là nói: Vốn không có cái kiến thức của bốn tướng ấy vì trong  chơn tánh  vẫn không, cũng bởi bốn thứ  tà kiến ấy chẳng phải là chơn thiệt. Cho nên nói: Chẳng phải ngã kiến v.v... chỉ cưỡng danh là ngã kiến v.v... là nói sự  tà kiến  ấy đều là hư vọng, chẳng phải có ở trong  chơn tánh.

Lý Văn Hội giải: Phật nói cái pháp Bát nhã Kim Cang  này: trước là khiến người học đạo phải diệt trừ bốn tướng thô trọng, như trong phần Đại thừa Chánh tông (đệ thứ ba) đã nói, sau là, khi rõ tánh rồi, lại phải diệt trừ bốn tướng vi tế, như trong phần cứu cánh vô ngã (đệ thứ 17) đã nói. Hai phần ấy, đều chỉ rõ cái lý thanh tịnh của bốn tướng. Nếu lòng không hy cầu tham đắc, rỗng rang thường trụ, thì mới là  thanh tịnh ngã kiến cho.

Huỳnh Nghiệt Thiền sư giải: Biết cả trăm việc cũng không bằng lòng, chẳng cầu là hơn hết. Người tu hành là người vô sự, thiệt chẳng có việc gì; lòng vẫn không, nên việc cũng không.

Lại nói: Những người học đạo, nếu muốn đặng thành Phật, thì cả thảy Phật pháp đều chẳng cần phải học, chỉ học cho đặng cái "tâm không cầu, không chấp" thì đã đủ rồi. Không cầu thì tâm chẳng sanh, không chấp thì tâm chẳng diệt. Mà chẳng sanh chẳng diệt tức là Phật.

Bằng rõ tự tánh vốn đã sẵn đủ, là  nhơn kiến thanh tịnh  - Lòng không phiền não, là  chúng sanh kiến thanh tịnh  - Tự tánh không biến dị, sanh diệt, là  thọ giả kiến thanh tịnh. Cho nên nói: "Không phải ngã kiến v.v... chỉ cưỡng danh vậy thôi".

157.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả, ư nhứt thế pháp, ưng như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải bất sanh pháp tướng.

 Tu Bồ Đề! Sở ngôn pháp tướng giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng".

NGHĨA:

"Tu Bồ Đề! Phát lòng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đó, thì cả thảy pháp, phải biết như vầy, phải thấy như vầy, phải tin rõ như vầy, là chẳng sanh pháp tướng.

 Tu Bồ Đề! Sự nói pháp tướng đó, Như Lai nói chẳng phải pháp tướng, chỉ cưỡng danh là pháp tướng".

 

Giải : Nhan Bính giải: Hai chữ "như vầy", đáng cho là thân thiết. Bằng phát lòng  Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì cả thảy pháp phải biết như vầy, thấy như vầy, tin rõ như vầy, hà tất phải cầu pháp tướng ở ngoài? Song, khi mới vào đạo mà chẳng mượn pháp tướng, thì không biết cái nẻo mà vào; còn đã rõ tánh rồi, cũng nên lánh xa đi, không cần chấp trước. Cho nên nói: "Đặng cá chẳng dùng nơm", "Đến bờ khỏi dụng thuyền" nữa, là vậy đó.

Bởi cớ, nên sau lại vì người mà thuyết phá: "Chẳng phải  pháp tướng, chỉ cưỡng danh là  pháp tướng ".

Lý Văn Hội giải: Phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, là phải biết cả thảy chúng sanh trí huệ vô lậu  vốn đã sẵn đủ, phải tin cả thảy chúng sanh  tinh linh chơn tánh  vốn không sanh diệt. Bằng tỏ ngộ đặng ý này, tức là cả thảy trí huệ.

Chẳng có lòng năng sở, chẳng còn tướng  tri giải; miệng nói pháp không tướng, lòng tỏ lý không tướng, thường làm cái hạnh không tướng. Cho nên nói: "Chẳng sanh pháp tướng, chỉ cưỡng danh vậy thôi".

Trí Giả Thiền sư giải:

Tụng:

Vốn không phải thấu lý, Bỏ tướng dùng vô vi.

Sanh thọ hư danh cả, Ngã nhơn thiệt đế chi.

Bồ đề tỏ ngộ đặng, Bỉ ngạn tránh xa đi.

Pháp tướng cùng phi pháp, Hiểu rằng như thế ni.

Xuyên Thiền sư giải: Cơm đến hả miệng, ngủ đến nhắm mắt.

Tụng:

Nước xao bở bủa sợi tơ mành,

Một lượn sóng đùa, mấy lượn sanh.

Giá lạnh canh khuya câu chẳng có.

Đầy thuyền chỉ có bóng trăng thanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22292)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16018)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15026)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18950)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14445)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18627)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14427)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13584)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13548)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11816)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13252)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13650)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13935)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13247)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15023)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16159)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11083)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16449)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11903)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17590)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12872)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13703)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12857)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14853)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16382)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13125)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12081)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12771)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12906)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12769)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14173)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14109)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16468)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12376)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14379)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11307)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11025)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13190)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13889)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13156)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12997)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13501)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12733)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10233)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13965)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10219)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13702)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16264)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11963)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12970)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11643)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12669)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10793)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10997)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10933)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11897)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12752)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11065)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12613)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11319)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant