Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Yếu chỉ tâm kinh Bát-nhã

15 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 23666)
Yếu chỉ tâm kinh Bát-nhã

YẾU CHỈ TÂM KINH BÁT-NHÃ
Thích Thông Phương

I. DẪN NHẬP

blankTâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ, thấu đạt lý Bát-nhã để đi vào Không môn. Do đó chúng tôi xin trao đổi một chút về ý nghĩa: “Yếu chỉ Tâm kinh Bát-nhã”. Tất cả Phật tử chúng ta đều thuộc lòng bài Tâm kinh Bát-nhã, nhưng thuộc lòng danh tự Bát-nhã vẫn chưa đủ mà phải thuộc lòng Bát-nhã.

Thuộc lòng Bát-nhã là sao? Chúng ta ra đường gặp ai nói xúc phạm một chút, nghe hơi buồn buồn thì ngay khi đó chúng ta phải nhớ Tánh không. Những tiếng nói không thật, chúng ta cũng không thật, buồn cũng không thật chúng ta liền buông xuống thì mới là thuộc lòng Bát-nhã. Ngược lại, chúng ta để phiền não nổi lên, chỉ nhai đi nhai lại câu nói của người; tâm vẫn chạy theo vọng tưởng là chưa thuộc lòng Bát-nhã. Thuộc lòng Bát-nhã tức là lúc nào cũng thấy muôn pháp là không, nên không dính không mắc.

II. TINH THẦN BÁT-NHÃ LÀ PHÁ CHẤP, PHỦ ĐỊNH

Theo Bát-nhã, phủ định tất cả đều là không. Bồ-tát Quán Tự Tại khi quán chiếu sâu về Bát-nhã thấy năm uẩn đều là không. Năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không. Sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không; Sáu căn: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý cũng không; sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức v.v... cũng không. Mười tám giới đều không, rồi không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh v.v... không cả Tứ Đế, Mười hai nhân duyên, không chứng cũng không đắc. Vì vậy người học Bát-nhã là phá sạch, không cho tâm bám víu bất kỳ chỗ nào để không còn duyên mà sanh khởi.

Vì có chỗ tâm sanh là có chỗ tâm diệt, có sanh tử có khổ đau. Cho nên trước tiên là Phật phá chấp, không cho con người chấp vào cái gì hết, từ pháp thế gian cho đến pháp xuất thế gian.

Pháp thế gian Phật dạy chúng ta phải bỏ nhưng pháp xuất thế gian cũng không cho chúng ta bám, vì còn bám chấp là còn có ngại. Tu mà còn dính mắc bất cứ cái gì đều thành chướng ngại, cho dù đó là pháp xuất thế gian. Vì pháp xuất thế gian cũng là phương tiện, giống như vị lương y cho thuốc để trị bệnh cho người. Chúng ta uống thuốc hết bệnh thì phải bỏ thuốc, không ai hết bệnh mà lại uống thuốc hoài, nếu còn uống thuốc là chưa hết bệnh.

Pháp thế gian hay pháp xuất thế gian cũng đều là pháp, có lập ra thì có phá. Giống như chiếc xe là phương tiện chuyên chở con người đi từ chỗ này đến chỗ kia, như từ đây mà đến Đà Lạt, chiếc xe là phương tiện chở chúng ta đến Đà Lạt, nhưng chiếc xe không phải là Đà Lạt. Chúng ta ngồi trên chiếc xe để đến Đà Lạt, nhưng đến Đà Lạt rồi mà chúng ta cứ ngồi trên chiếc xe hoài thì cũng không đi được đâu hết, không biết gì về Đà Lạt. Cho nên tới Đà Lạt rồi chúng ta phải xuống xe, chiếc xe không phải mục đích, Đà Lạt mới là mục đích. Vì vậy Phật nói pháp nhưng rồi phá tất cả để con người không bám chấp vào pháp. Do tâm con người là quen nắm bắt, nên luôn có đối tượng để duyên theo. Như chúng ta ngồi chơi không có việc gì hết nhưng lại không chịu rảnh rang, ngồi một mình thấy buồn cô đơn bèn mở ti-vi xem hoặc kiếm sách báo đọc. Có người vào nhà vệ sinh còn đem theo tờ báo để đọc, tâm chúng ta không bao giờ chịu buông mà ngược lại luôn nắm bắt tìm chỗ để duyên. Nếu con người luôn sống với tâm rảnh rang, thoải mái, tự do thì có sướng hơn không? Nhưng con người lại thấy như vậy là trống vắng, cô đơn chịu không nỗi nên phải tìm chỗ duyên chỗ bám.

Do đó, tâm con người luôn đi đôi với pháp (có tâm thì có pháp), để tâm duyên với pháp, pháp là đối tượng để cho tâm duyên. Tâm duyên theo pháp gọi là tâm sinh diệt. Thí dụ: Như con mắt duyên với sắc, lỗ tai duyên với âm thanh, ý duyên với pháp trần v.v.. Các căn luôn có đối tượng để duyên theo hiểu biết, ngược lại nếu không có chỗ duyên thì giống như là tâm không còn biết. Khi ngồi thiền, nếu bảo chúng ta đừng nghĩ gì hết thì rất khó, vì chúng ta luôn có đối tượng để duyên.

Trong kinh Lăng-nghiêm, Đức Phật dạy: “Có hai thứ căn bản phiền não: Thứ nhất là căn bản sinh tử từ vô thỉ là nhận tâm phan duyên làm tự tánh. Tâm phan duyên luôn nắm bắt đối tượng để duyên theo, rồi nhận cái đó làm tự tánh của mình. Đó là gốc sinh tử từ xưa tới nay, vì có đối tượng thì biết còn không đối tượng thì không biết gì hết. Đây gọi là tâm sinh diệt, là gốc sinh tử. Thứ hai là căn bản “Bồ-đề Niết-bàn”, tức là “Thức tinh nguyên minh” hay sanh ra các duyên mà bị các duyên bỏ sót”. Nguyên là nguyên vẹn, minh là sáng suốt, “Thức tinh nguyên minh” là cái thức nguyên vẹn, tinh ròng không bị xen lẫn bất cứ cái gì. Nghĩa là cái thức căn bản nguyên vẹn sáng suốt hay sanh ra các duyên nhưng bị các duyên bỏ sót nó. Tức là nó biết cái này, biết cái kia, biết đủ thứ đó là sanh các duyên, nhưng khi nó biết cái nào rồi thì nó chỉ nhớ cái đó mà quên mất chính nó. Cho nên gọi là bị các duyên bỏ sót nó.

Thí dụ: như khi nó nhìn cái bình hoa thì chỉ nhớ cái bình hoa, mà quên mất chính nó. Chính chỗ đó mà người ta tu hành ít có đến được chỗ rốt ráo, ngược lại hay rơi vào các thú hoặc rớt vào các đường sanh tử. Con người thấy cái nào rồi thì đồng hóa mình với cái đó mà quên mất nó. Bây giờ chúng ta khéo trở lại, biết hết tất cả nhưng không bỏ sót nó thì đó là Bát-nhã. Như vậy không phải không cho chúng ta biết, biết hết nhưng đừng bỏ sót chính nó. Đó gọi là biết Bát-nhã, là gốc trở về Bồ-đề Niết-bàn. Chúng ta thấy giữa sanh tử và Niết-bàn cách nhau bao xa? Chỉ là một cái xoay thôi. Thay vì biết tất cả rồi đồng hóa nó với tất cả mà quên mất chính nó, thì đó là sanh tử luân hồi. Biết tất cả mà không quên mất chính nó, luôn luôn có mặt chính nó thì đó là gốc Bồ-đề Niết-bàn. Chỉ nhích chút xíu, đâu có cách biệt xa xôi gì. Nhưng tập khí nhiều đời làm con người không chịu nhích, nó biết cái gì thì đồng hóa cái đó, chỉ nhớ cái đó thôi.

Đúng như kinh Lăng-nghiêm, Phật quở Ngài A-nan. Phật đưa cánh tay lên, hỏi: “Thấy không?”. A-nan thưa: “Thấy”. Phật để cánh tay xuống, hỏi: “Thấy không?”. Đáp: “Không thấy”. Như vậy rõ ràng, khi đưa cánh tay lên thì thấy cánh tay, biết có cánh tay rồi đồng hóa chính nó với cánh tay luôn. Nó nhớ cánh tay mà quên mất chính nó, nên khi để cánh tay xuống thì nói là không thấy, vì nó chỉ nhớ cánh tay. Sự thật là giơ cái tay lên thì nó thấy cái tay, để cái tay xuống thì nó thấy không có cái tay, chính nó luôn có mặt, lúc nào cũng sáng suốt. Rồi nghe tiếng cũng vậy, khi nghe có tiếng nói thì bảo có nghe, khi ngưng không có tiếng nói thì gọi là không nghe. Đó là đồng hóa chính nó với cái tiếng, nên quên mất chính nó, đó là gốc sanh tử luân hồi. Bây giờ chúng ta tu Bát-nhã là trở lại, khi nghe nó cũng biết có tiếng nhưng không quên mất chính nó. Nghe tiếng thì biết có tiếng, không tiếng thì biết không tiếng, vậy thôi. Lúc nào nó cũng biết, cũng nghe, nghe có tiếng nghe không có tiếng, đâu có lúc nào mất. Đó chính là trở về Bát-nhã, là gốc Bồ Đề Niết-bàn.

III. KHẲNG ĐỊNH

Tâm kinh Bát-nhã là trừ sạch các tâm phan duyên, tâm bám chấp theo duyên nên nói cái gì cũng không, để nó không bám dính vào bất cứ cái gì. Không bám không dính gì hết là trả về gốc Bồ Đề Niết-bàn. Nhưng theo tinh thần Bát-nhã chỉ là phá chấp, chứ không nói đến cái gốc của nó. Đến tinh thần Lăng-nghiêm, Pháp Hoa, Phật mới chỉ ra cái gốc chân thật đó. Cho nên, Bát-nhã ban đầu vào là phá hết, nói gì cũng không. Nhiều người hiểu chưa chính xác Bát-nhã, nói học Bát-nhã dễ rơi vào chấp không.

Nhưng nếu là người học kỹ Bát-nhã, sẽ thấy tinh thần của Bát-nhã là phủ định tất cả để thành tựu tất cả. Mở đầu bài Tâm kinh là phủ định cái gì cũng không, nhưng đoạn cuối thì xác định ba đời chư Phật đều nương Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà được đạo quả vô thượng Bồ-đề, Bồ-tát cũng y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đatâm không ngăn ngại, vì tâm không ngăn ngại mà đạt đến cứu cánh Niết-bàn. Như vậy, ba đời chư Phật đều nương nơi Bát-nhã mà thành Chánh đẳng Chánh giác. Bồ-tát cũng nương nơi Bát-nhã mà tâm không ngăn ngại, xa rời điên đảo vọng tưởng đến cứu cánh Niết-bàn. Cuối cùng, đâu có phải là không hết, ban đầu phủ định sau là xác định trở lại.

Như vậy trước là phá hết để chúng sanh không còn mê chấp, sau mới chỉ ra cái thật. Có người không hiểu Bát-nhã, nói Bát-nhã dạy cái gì cũng không, rồi trở lại chấp không. Bản tâm kinh ban đầuphá chấp có, sau phá luôn chấp không, sạch hết các chấp đó mới là Bát-nhã Ba-la-mật.

Thiền sư Duy Tín nói: “Lúc chưa học đạo, thấy núi sông là núi sông. Khi học đạo, thấy núi sông chẳng phải núi sông, sau ba mươi năm thấy núi sông là núi sông”. Con người khi chưa học đạo thấy gì cũng thật: mình thật, người thật, vật thật v.v... nhưng đến khi học Bát-nhã thấy cái gì cũng không thật: Ta không, vật không, pháp cũng không v.v... nên thấy núi sông chẳng phải núi sông. Nhưng đến chỗ rốt ráo, tâm sáng suốt phá sạch hết không còn chấp bất cứ điều gì nên thấy trở lại núi sông là núi sông, không nói có nói không gì cả.

Tuy nhiên, đến giai đoạn này thấy núi sông là núi sông khác với lúc chưa học đạo. Vì chúng ta thấy trong trí tuệ sáng suốt, thấy rõ núi sông là núi sông nhưng không mê lầm nó, nên khác hơn với lúc chưa học. Như vậy khi tâm phá sạch tình chấp thì nhìn cái gì nó cũng sáng ngời, tỏ rõ không mê lầm. Giống như chúng ta mang mắt kính, nếu đôi kính màu đen thì thấy cảnh vật cũng màu đen, nếu đôi kính màu hồng nhìn cái gì cũng màu hồng. Khi gở mắt kính ra thì thấy cái gì đúng như thật cái đó. Khi tâm sạch hết tình chấp thì nhìn tất cả đều trong ánh sáng chân thật. Nên nói Bát-nhã rốt cùng là chân thật bất hư, thấy rõ cái chân thật không hư đối.

Như vậy, chúng ta học Bát-nhã đâu phải là không còn thấy biết, chỉ không tất cả cái hư dối để trả lại cái biết chân thật nơi mỗi người. Trong nhà Thiền có câu chuyện: Mã Tổthiền sư nổi tiếng trong thời Đường, ban đầu Ngài dạy học nhân mới đến: “Tức Tâm tức Phật”, Phật ngay nơi tâm; Tâm tức Phật để chúng ta soi trở về nơi tự tâm. Nhưng thời gian sau, Mã Tổ nghe ai cũng bắt chước nói theo tức Tâm tức Phật, ngay nơi Tâm là Phật nên không cần phải tu. Nhiều người lập đi lập lại câu tức Tâm tức Phật nhưng chỉ thuộc mà không có hành nên thành vướng mắc. Để phá cái dính mắc của học nhân, sau đó Mã Tổ lại nói: “Chẳng phải tâm chẳng phải Phật chẳng phải vật”. Khi đó, có một vị tăng mới đến ngài Nam Tuyền hỏi:

- Mã Tổ nói chẳng phải tâm chẳng phải Phật chẳng phải vật, là ý gì?

Ngài Nam Tuyền đáp:

- Tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải đạo.

Vị tăng thưa:

- Con chưa biết ý nghĩa thế nào?

Ngài Nam Tuyền nói:

- Nếu ngươi không nhận tâm là Phật, trí là đạo. Ngay bây giờ nếu lão tăng chợt được tâm thì để chỗ nào?

Vị tăng thưa:

- Đã hoàn toàn chẳng được, đâu khác với hư không.

Ngài Nam Tuyền bảo:

- Đã chẳng phải vật làm sao so với hư không, lại nói cái gì là khác chẳng khác.

Vị tăng thưa:

- Chẳng lẽ là không luôn cái chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật nữa hay sao?

Ngài Nam tuyền bảo:

- Ông nếu nhận cái ấy thì thành tâm Phật.

Tức là ngay khi ông nhận rõ cái chẳng phải tâm, chẳng phải vật, chẳng phải Phật thì đó chính là tâm Phật.

Cho nên, trước là phủ nhận tất cả, không còn chỗ để học nhân bám nhưng khi tâm sạch hết không còn chỗ bám thì đó chính là tâm Phật. Nhưng chúng ta thì đòi phải có cái gì khác nữa, do muốn có cái gì khác nữa là chỗ mắc kẹt, chỗ mê lầm của chúng ta. Bát-nhã là phá chấp, thấy tất cả đều không và chính cái thấy đó là Bát-nhã.

IV. VƯỢT QUA DẤU VẾT VĂN TỰ NGÔN NGỮ

Tinh thần Bát-nhã là vượt qua hết dấu vết văn tự, chữ nghĩa, cuối cùng kết thúc bằng một câu thần chú: “Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát-bà-ha”.
Chúng ta đọc kỹ thấy có mâu thuẫn không? Trước đó nói: “Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, v.v...”. Bát-nhã đã là đại thần chú, đại minh chú

tức là thần chú uy linh, thần lực sáng suốt to lớn, rồi vô thượng, vô đẳng đẳng không gì bằng. Thần chú như vậy quá siêu rồi, nhưng tại sao lại còn nói chú?

Nếu người đọc theo chữ nghĩa thì không thấy được cái ý đó, nhưng đó là ý nghĩa sâu mà Phật muốn chỉ. Nói Bát-nhã là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú, là cũng dùng văn tự chữ nghĩa để giải thích cho người ta hiểu. Đến rốt cùng nói bằng một câu chú thì không ai hiểu, đó là phủi sạch hết chữ nghĩa cho người ta vượt qua khỏi văn tự, đưa thẳng người học trực tiếp vào Bát-nhã.

Do tâm con người lúc nào cũng muốn hiểu biết, nên luôn tìm cách duyên theo để hiểu. Đúng theo tinh thần Bát-nhã là ngay khi không còn chỗ nào để hiểu là đi vào Bát-nhã. Ý nghĩa rất sâu xa nhưng thường thì chúng ta đọc chữ nghĩa rồi cho qua, chứ không thấy được ý nghĩa đó. Vì vậy không có gì mâu thuẫn, mà đầy đủ ý nghĩa. Như nhà Thiền thường hét một tiếng, đập một gậy là hết nghĩ ngợi đưa thẳng vào Bát-nhã, gọi là một đao chặt đứt hai đầu. Người lanh lợi, bén nhạy thì ngay đó là vào cứu cánh Bát-nhã, mới đúng là học xong Bát-nhã. Bài tâm kinh Bát-nhã là tinh yếu, hệ thống của bộ kinh Bát-nhã. Cho nên, chúng ta có thể học kỹ bài tâm kinh Bát-nhã là đủ thành Phật rồi. Nên kinh nói ba đời chư Phật đều y đó mà thành Phật, Bồ-tát cũng y đó mà tâm vô quái ngại đạt đến cứu cánh Niết-bàn. Đúng tinh thần học Phật là học ngay tâm chứ không phải chỉ học chữ nghĩa.

Khi Phật mới thành đạo, Ngài thấy chỗ chứng đạo quá sâu xa, khó hiểu, sợ nói ra người ta không hiểu, hay hiểu lệch lạc nên Ngài do dự không muốn thuyết pháp. Sau đó, Phạm thiên thỉnh ba lần Phật mới nhận, ngay đó Phật đã muốn nhắn nhủ cho người sau: muốn học Phật, muốn thấy được ý nghĩa của Phật thì phải vượt qua những ngôn ngữ, chữ nghĩa. Những điều mà Phật nói ra chỉ là bất đắc dĩ Phật mới nói thôi. Còn chỗ Phật chứng rất là khó nói, không thể nói được, nhưng vì thương chúng sanh mới dùng phương tiện nói đến cái chỗ không thể nói.

Qua đây, Phật muốn nhắn nhủ cho người sau là phải vượt qua chỗ Phật đã nói để thấy được chỗ Phật chưa nói, chỗ Phật không thể nói, đó mới là khéo hợp với ý Phật. Kinh Lăng-già ghi: “Phật ra đời từ khi ban đầu chuyển pháp luân cho đến sau nhập Niết-bàn, trong khoảng bốn mươi chín năm Phật thuyết pháp nhưng cuối cùng ngài xác định: “Như Lai chưa từng nói một lời””. Thuyết pháp bốn mươi chín năm mà chưa từng nói một chữ, rõ ràng muốn nhắn những người đệ tử Phật là không nên mắc kẹt trên chữ nghĩa, tuy chữ nghĩa do Phật nói nhưng mà lý thật không ở trên chữ nghĩa đó. Phật nói xong là phủi sạch, chưa từng nói một chữ nào.

V. TÓM KẾT

Chúng ta học Bát-nhã là học xả tất cả để được tất cả. Học Bát-nhã là sẵn sàng buông, là phá chấp chứ không phải phá pháp. Có người phê bình Bát-nhã nói cái gì cũng không: Tứ đế, Mười hai nhân duyên đến trí đắc cũng không, như vậy Phật phá hết pháp lấy gì tu? Nếu chúng ta hiểu đúng theo tinh thần Bát-nhã, phá ở đây là phá chấp về cái pháp đó chứ không phải là phá pháp. Pháp là Phật dạy cho người tu: Tứ đế, Mười hai nhân duyên, Lục độ Ba-la-mật đâu có lỗi, lỗi là người ta chấp vào pháp đó.

Thí dụ: như chấp vào Tứ đế cho mình thật có chứng đắc được quả A-na-hàm, A-la-hán v.v... Do chấp có chứng có đắc mới là lỗi, nếu biết đó là phương tiện Phật dạy để chúng sanh trừ mê lầm, chấp trước trở về cái chân thật thì đâu có lỗi. Biết rõ quả vị cũng là phương tiện không phải là mục đích cứu cánh, thì chúng ta không mắc kẹt trên những quả vị đó. Không thấy tôi là người chứng A-la-hán nên không mắc kẹt.

Học Mười hai nhân duyên là để phá chấp về sanh tử luân hồi. Con người sinh tử luân hồi là từ: vô minh duyên hành, hành duyên thức v.v... nên có sinh tử, ưu bi, khổ não. Do chúng sanh lầm chấp Mười hai nhân duyên, nên Phật nói Mười hai nhân duyên để người tỏ ngộ chúng không có thật. Nhưng chúng ta lại chấp sinh tử có thật vào Mười hai nhân duyên. Sinh tử không có thật, chỉ do nhân duyên mà có sinh tử. Do cái này có nên cái kia có, nếu cái này không thì cái kia cũng không. Như vậy rõ ràng sinh tử không có tính thật, ngay đó nhận ra sinh tử vốn không tức là vô sanh. Phật nói Mười hai nhân duyên để chúng ta thấu suốt được sinh tử không có thật, chúng sanh có thể thoát được sanh tử.

Chúng ta hiểu như vậy mới thấy được ý nghĩa sâu của Phật dạy. Phá chấp hết thì chân thật hiện bày, Bát-nhã sáng ngời. Tinh thần của đạo Phậtvô ngã: nhân vô ngã, pháp vô ngã cuối cùng không có gì để bám. Nhưng cái gì thấu tất cả đều vô ngã? Và cái này có phá được không? Chính Bát-nhã thấu suốt tất cả, phá hết tất cả, khi phá sạch hết rồi chính đó là Bát-nhã. Và cái đó không làm sao phá được.

Nhà Thiền có câu chuyện:

Vị tăng đến Ngài Tào Sơn Bổn Tịch (Thiền sư Bổn Tịch ở Tào Sơn) hỏi:

- Thế nào là cây kiếm không mũi?

Ngài Tào Sơn đáp:

- Đó là chẳng do rèn luyện mà thành.

Vị tăng hỏi:

- Vậy dụng của nó thì như thế nào?

Ngài Tào Sơn đáp:

- Ai gặp cũng đều phải chết hết.

Vị tăng hỏi:

- Còn không gặp thì sao?

Ngài Tào Sơn đáp:

- Cũng phải rơi đầu luôn.

Vị tăng hỏi:

- Người gặp đều phải chết đó là cố nhiên, vậy người không gặp thì sao cũng rơi đầu?

Ngài Tào Sơn bảo:

- Ông không nghe nói là nó hay sạch hết tất cả sao!

Vị tăng hỏi:

- Vậy khi sạch hết thì sao?

Ngài Tào Sơn bảo:

- Thì mới biết có cây kiếm này.

Người xưa mượn hình ảnh cây kiếm của thế gian để chỉ cho Bát-nhã. Cây kiếm đó không có hình tướng, nên không có mũi cũng không phải do rèn luyện mà thành. Nó ở ngay nơi mỗi người không phải do đúc luyện mà tạo nên. Dụng của nó là quét sạch tất cả, gặp cũng chết mà không gặp cũng chết. Tức là “có” cũng chém, “không” cũng chém, “đụng” cũng chém, “không đụng” cũng chém, chém sạch hết không cho bám vào cái gì. Khi sạch hết không còn chấp, không còn bám thì mới biết “có cây kiếm này”.

Như vậy, tinh thần của Bát-nhã là thể hiện chân lý sự thật ngay nơi con người, không ở nơi xa xôi. Điều này chúng ta có thể chứng nghiệm ngay đời này, không phải đợi qua đời sau mới chứng minh. Ngay nơi hiện tại chúng ta không chấp, không bám thì chứng liền Bát-nhã. Quan trọng là chúng ta dám buông, không bám chấp vướng tình thì Bát-nhã sáng ngời như thật. Vì vậy chúng ta phải phát huy được ánh sáng chân thật của chính mình, làm đuốc soi để tự mình đi và có thể đưa chúng sanh về nhà. Mong thay!

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11532)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11246)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17861)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9851)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10103)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14210)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11997)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15177)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11880)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12323)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11999)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10504)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12465)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13043)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14692)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12557)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19473)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13017)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11722)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10806)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13404)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11517)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12659)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12519)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15546)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13500)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17881)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11050)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12090)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12089)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16509)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11379)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14145)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14061)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24414)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10586)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant