Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quyển Thứ Hai Mươi Sáu

15 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9761)
Quyển Thứ Hai Mươi Sáu

Đại Tạng Số 1425
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Việt dịch: Thích Phước Sơn - Chứng nghĩa: Thích Đổng Minh

Quyển Thứ Hai Mươi Sáu

NÓI RÕ PHẨM TẠP TỤNG THỨ TƯ

TỘI CŨ. 

Tỉ-kheo che giấu tội rồi xin Biệt trụ, đoạn, nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão, tôi còn có tội Tăng già bà thi sa khác. 

- Tội cũ hay tội trung gian? 

- Tội cũ. 

- Có che giấu hay không che giấu? 

- Có che giấu. 

- Này trưởng lão, pháp Biệt trụ trước Thầy đã hành đúng pháp, còn tội mà hôm nay nói có che giấu phải xin lại pháp Biệt trụ, rồi gộp lại hai tội cùng hành Ba-lợi-bà-sa, cùng hành Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Ðó gọi là xin riêng, hành chung Ba-lợi-bà-sa, hành chung Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Tỉ-kheo che giấu tội, xin pháp Biệt trụ, làm được một nửa, bèn nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão, tôi còn có tội Tăng già bà thi sa khác. 

- Ðó là tội cũ hay tội trung gian? 

- Tội cũ. 

- Có che giấu hay không? 

- Có che giấu. 

- Pháp Biệt trụ của thầy đã làm đúng pháp còn tội che giấu hôm nay phải xin lại pháp Biệt trụ, rồi gộp hai tội lại hành chung Ba-lợi-bà-sa, hành chung Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Ðó gọi là xin riêng, hành chung Ba-lợi-bà-sa, hành chung Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Tỉ-kheo che giấu tội rồi xin Biệt trụ, khi làm xong lại nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão, tôi lại có tội Tăng già bà thi sa

- Tôi cũ hay tội trung gian? 

- Tội cũ. 

- Có che giấu hay không? 

- Có che giấu. 

- Pháp biệt trụ trước thầy đã làm đúng pháp, tội che giấu hôm nay phải xin lại Biệt trụ, khi làm xong, gộp hai tội lại cùng xin Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Ðó gọi là xin riêng, hành riêng Ba-lợi-bà-sa, hành chung Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Tỉ-kheo che giấu tội rồi hành Ba-lợi-bà-sa xong, đồng thời xin Ma-na-đỏa xong, lại nói: 

- Thưa trưởng lão, Tôi lại có tội Tăng già bà thi sa

- Tội cũ hay tội trung gian? 

- Tội cũ. 

- Có che giấu hay không? 

- Có che giấu. 

- Pháp Ba-lợi-bà-sa và Ma-na-đỏa trước đã làm đúng pháp, [435b] còn tội che giấu hôm nay phải xin lại pháp Ba-lợi-bà-sa, khi làm xong, lại xin Ma-na-đỏa, hai tội này gộp lại làm chung, rồi cùng xuất tội. 

Ðó gọi là xin riêng, hành Ba-lợi-bà-sa, xin riêng, làm chung Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Tỉ-kheo che giấu tội, làm xong Ba-lợi-bà-sa, xin Ma-na-đỏa, làm được nửa chừng, lại nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão, tôi lại có tội Tăng già bà thi sa. (cho đến nên nói): 

- Pháp Ma-na-đỏa trước đã làm đúng pháp, còn tội che giấu hôm nay phải xin lại pháp Ba-lợi-bà-sa, khi làm xong lại xin Ma-na-đỏa. Hai tội này hợp lại làm chung Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Ðó gọi là xin riêng, làm chung Ba-lợi-bà-sa, xin riêng, làm chung Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Tỉ-kheo che giấu tội, rồi làm Ba-lợi-bà-sa, Ma-na-đỏa xong, lại nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão, tôi lại có tội Tăng già bà thi sa. (cho đến nên nói): 

- Pháp Ba-lợi-bà-sa và Ma-na-đỏa trước đã làm đúng pháp, còn tội che giấu hôm nay phải xin lại pháp Ba-lợi-bà-sa, Ma-na-đỏa, khi làm xong sẽ xin xuất tội một lần

Ðó gọi là xin riêng Ba-lợi-bà-sa, Ma-na-đỏa và xuất tội chung. 

Tỉ-kheo che giấu tội, rồi hành Ba-lợi-bà-sa, Ma-na-đỏa và xuất tội xong, lại nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão, tôi lại có tội Tăng già bà thi sa. (cho đến nên nói): 

- Các pháp Ba-lợi-bà-sa, Ma-na-đỏa, xuất tội trước đã làm đúng pháp, còn tội che giấu hôm nay phải xin lại pháp Ba-lợi-bà-sa, Ma-na-đỏa và xuất tội. 

Ðó gọi là xin riêng, hành riêng Ba-lợi-bà-sa, Ma-na-đỏa và xuất tội. 

Tỉ-kheo che giấu tội, được cho pháp Ba-lợi-bà-sa xong, lại nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão, tôi lại có hai tội Tăng già bà thi sa

- Ðó là tội cũ hay tọâi trung gian? 

- Ðó là tội cũ. 

- Có che giấu hay không? 

- Một tội che giấu, một tội không che giấu. 

- Pháp Ba-lợi-bà-sa trước đã làm đúng pháp, còn nay tội không che giấu thì để yên, tội có che giấu thì phải xin lại pháp Ba-lợi-bà-sa, hợp lại làm xong, rồi cùng hành Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Như vậy, pháp Biệt trụ đoạn giữa và đoạn cuối, pháp Ma-na-đỏa đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối, pháp xuất tội đoạn cuối, cũng nói như trên. 

Tỉ-kheo che giấu tội, được cho pháp Ba-lợi-bà-sa xong, lại nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão, Tôi lại có ba tội Tăng già bà thi sa

- Ðó là tội cũ hay tội trung gian? 

- Ðó là tội cũ. 

- Có che giấu hay không? 

- Một tội che giấu, một tội không che giấu [435c] và một tội còn nghi ngờ

- Pháp Ba-lợi-bà-sa trước đã làm đúng pháp, giờ đây tội không che giấu thì để yên, tội nghi ngờ thì hãy quyết định, còn tội che giấu thì phải xin lại pháp Ba-lợi-bà-sa, rồi cùng hành Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. Như vậy, đoạn giữa Biệt trụ, đoạn cuối biệt trụ, đoạn đầu, giữa và cuối Ma-na-đỏa, đoạn cuối xuất tội cũng nói như trên. 

Ðó gọi là tội cũ. 

TỘI TRUNG GIAN

Tỉ-kheo che giấu tội, rồi hành Biệt trụ xong, lại nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão, tôi lại có tội Tăng già bà thi sa

- Ðó là tội cũ hay tội trung gian? 

- Ðó là tội trung gian

- Phạm vào khi nào? 

- Phạm trong lúc hành Biệt trụ. 

- Có che giấu hay không? 

- Có che giấu. 

- Này trưởng lão, pháp Biệt trụ trước đã làm đúng pháp, nhưng còn thiếu một đêm, nay tội che giấu phải xin lại pháp Biệt trụ, rồi hợp lại mà làm, và cùng làm Ma-na-đỏa, cùng xuất tội. 

Ðó gọi là xin riêng, làm chung Biệt trụ, làm chung Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Tỉ-kheo che giấu tội, làm Biệt trụ xong, khi hành Ma-na-đỏa lại nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão, Tôi lại có tội Tăng già bà thi sa

- Ðó là tội cũ hay tội trung gian? 

- Tội trung gian

- Phạm vào lúc nào? 

- Phạm trong lúc hành Ma-na-đỏa. 

- Có che giấu hay không? 

- Có che giấu. 

- Này trưởng lão, pháp Biệt trụ và Ma-na-đỏa trước đã làm đúng pháp, nhưng trong Ma-na-đỏa còn thiếu một đêm. Giờ đây tội che giấu phải xin lại pháp Biệt trụ, rồi khi làm xong lại xin pháp Ma-na-đỏa, họp lại mà làm, rồi cùng xuất tội. Ðó gọi là xin riêng, hành Biệt trụ riêng, xin riêng Ma-na-đỏa, làm chung Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Tỉ-kheo che giấu tội, rồi hành Biệt trụ, Ma-na-đỏa và xuất tội xong, lại nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão! Tôi lại có tội Tăng già bà thi sa

- Ðó là tội cũ hay tội trung gian? 

- Tội trung gian

- Phạm vào lúc nào? 

- Phạm trong lúc Biệt trụ. 

- Có che giấu hay không? 

- Có che giấu. 

- Này trưởng lão! Pháp Biệt trụ đầu tiên hành đúng pháp, nhưng còn thiếu một đêm, do đó, Ma-na-đỏa và xuất tội không thành tựu; giờ đây tội che giấu phải xin lại Biệt trụ, rồi hợp lại mà làm, làm xong lại hợp xin pháp Ma-na-đỏa rồi cùng xuất tội. 

Ðó gọi là xin riêng, hành chung Biệt trụ, xin chung Ma-na-đỏa, rồi cùng xuất tội. 

Tỉ-kheo che giấu tội rồi hành Ba-lợi-bà-sa, Ma-na-đỏa và xuất tội xong, lại nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão! Tôi lại có tội Tăng già bà thi sa

- Ðó là tội cũ hay tội trung gian? 

- [436a] Tội trung gian

- Phạm vào lúc nào? 

- Phạm trong lúc Ma-na-đỏa. 

- Có che giấu hay không? 

- Có che giấu. 

- Pháp Biệt trụ và Ma-na-đỏa trước đã làm đúng pháp, nhưng trong Ma-na-đỏa còn thiếu một đêm. Do đó, việc xuất tội không thành. Giờ đây, tội che giấu phải xin lại pháp Biệt trụ. Khi làm xong, xin lại Ma-na-đỏa rồi hợp lại mà làm, làm xong cùng xuất tội. 

Ðó gọi là xin riêng, làm riêng Biệt trụ, xin riêng, làm chung Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Tỉ-kheo che giấu tội, rồi trong khi hành Biệt trụ, nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão! Tôi lại có hai tội Tăng già bà thi sa

- Ðó là tội cũ hay tội trung gian? 

- Tội trung gian

- Phạm vào lúc nào? 

- Phạm trong lúc Biệt trụ. 

- Có che giấu hay không? 

- Một tội che giấu, một tội không. 

- Pháp biệt trụ đầu đã làm đúng pháp, nhưng còn thiếu một đêm. Tội không che giấu thì để yên, còn tội che giấu phải xin lại Biệt trụ, hợp lại mà làm, và hành chung Ma-na-đỏa, rồi cùng xuất tội. 

Ðó gọi là xin riêng, hợp hành Biệt trụ, hành chung Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Tỉ-kheo che giấu tội, rồi hành Biệt trụ xong, đến lúc hành Ma-na-đỏa thì nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão! Tôi lại có hai tội Tăng già bà thi sa

- Ðó là tội cũ hay tội trung gian? 

- Tội trung gian

- Phạm vào lúc nào? 

- Phạm trong lúc Ma-na-đỏa. 

- Có che giấu hay không? 

- Một tội che giấu, một tội không. 

- Pháp Biệt trụ và Ma-na-đỏa trước đã làm đúng pháp, nhưng trong Ma-na-đỏa còn thiếu một đêm. Tội không che giấu thì để yên, còn tội che giấu phải xin lại Biệt trụ. Khi hành xong lại hợp xin Ma-na-đỏa, rồi cùng xuất tội. 

Ðó gọi là xin riêng, làm riêng Biệt trụ, xin chung, làm chung Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Tỉ-kheo che giấu tội rồi hành Biệt trụ, Ma-na-đỏa và xuất tội xong, lại nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão! Tôi lại có hai tội Tăng già bà thi sa

- Ðó là tội cũ hay tội trung gian? 

- Tội trung gian

- Phạm vào lúc nào? 

- Phạm trong lúc Biệt trụ. 

- Có che giấu hay không? 

- Một tội che giấu, một tội không. 

- Pháp Biệt trụ đầu làm như pháp, nhưng còn thiếu một đêm, do đó, Ma-na-đỏa và xuất tội không thành. Giờ đây, tội không che giấu thì để yên, còn tội che giấu thì phải xin lại pháp Biệt trụ rồi hợp lại mà làm. Khi làm xong, lại hợp xin Ma-na-đỏa, rồi cùng xuất tội. 

Tỉ-kheo che giấu tội, rồi hành Biệt trụ, Ma-na-đỏa và xuất tội xong, lại nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão! Tôi lại có hai tội Tăng già bà thi sa

- Ðó là tội cũ hay tội [436b] trung gian? 

- Tội trung gian

- Phạm vào lúc nào? 

- Phạm vào lúc Ma-na-đỏa. 

- Có che giấu hay không? 

- Một tội che giấu, một tội không. 

- Pháp Biệt trụ và Ma-na-đỏa đầu đã làm đúng pháp, nhưng trong Ma-na-đỏa còn thiếu một đêm, do đó, việc xuất tội không thành. Giờ đây, tội không che giấu thì để yên, tội có che giấu phải xin lại Biệt trụ, khi làm xong, hợp xin Ma-na-đỏa rồi cùng xuất tội. 

Lại có Tỉ-kheo che giấu tội, rồi trong khi hành Biệt trụ, nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão! Tôi lại có ba tội Tăng già bà thi sa

- Ðó là tội cũ hay tội trung gian? 

- Tội trung gian

- Phạm vào lúc nào? 

- Phạm trong lúc Biệt trụ. 

- Có che giấu hay không? 

- Một tội che giấu, một tội không và một tội còn ngờ. 

- Phần Biệt trụ đầu đã làm đúng pháp, nhưng còn thiếu một đêm. Giờ đây, tội không che giấu thì để yên, tội nghi ngờ cần phải quyết định, còn tội che giấu phải xin lại Biệt trụ, hợp lại mà làm, rồi cùng làm Ma-na-đỏa và cùng xuất tội. 

Ðến phần Ma-na-đỏa cũng nói như thế. 

Tỉ-kheo che giấu tội, rồi hành Biệt trụ, Ma-na-đỏa và xuất tội xong, lại nói với Tỉ-kheo khác: 

- Thưa trưởng lão, tôi lại có ba tội Tăng già bà thi sa

- Ðó là tội cũ hay tội trung gian? 

- Tội trung gian

- Phạm vào lúc nào? 

- Phạm trong lúc Biệt trụ. 

- Có che giấu hay không? 

- Một tội che giấu, một tội không và một còn ngờ. 

- Phần Biệt trụ đầu đã làm đúng pháp, nhưng còn thiếu một đêm, do đó, Ma-na-đỏa và xuất tội không thành tựu. Tội không che giấu thì để yên, tội nghi ngờ cần phải quyết định, còn tội che giấu phải xin lại Biệt trụ, gộp lại mà làm, đồng thời làm chung Ma-na-đỏa, rồi cùng xuất tội.

Nếu trong phần Ma-na-đỏa mà phạm lại ba tội thì cũng như trên. Ðó gọi là xin riêng, hành Biệt trụ riêng, hành Ma-na-đỏa và xuất tội chung. 

Trên đây gọi là tội Trung gian

Nếu Tỉ-kheo cố ý xuất tinh, phạm tội Tăng già bà thi sa rồi che giấu, nhưng sau đó muốn hành Biệt trụ, thì nên xin với một Tỉ-kheo thông thạo yết-ma như sau: "Thưa trưởng lão! Xin trưởng lão cho tôi pháp yết-ma Ba-lợi-bà-sa". Ðoạn, đưa vị Tỉ-kheo mà mình tâm đắc đến giới trường để làm yết-ma cầu thính. Người làm yết-ma nên nói như sau: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp cố ý xuất tinh, phạm tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Tỉ-kheo mỗ giápcố ý xuất tinh, phạm tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm - vào giữa Tăng xin mười đêm Biệt trụ. 

Các đại đức đã bằng lòng cho Tỉ-kheo mỗ giáp - cố ý xuất tinh, phạm tội Tăng già bà thi sa, [436c] che giấu mười đêm - vào giữa Tăng xin mười đêm Biệt trụ, vì Tăng đã im lặng. Tôi ghi nhận việc này là như vậy. 

Người này phải trịch vai áo bên phải, quỳ gối, chắp tay, nói như sau: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp cố ý xuất tinh, phạm một tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, nay theo Tăng xin mười đêm Biệt trụ. Kính mong Tăng xót thương cho tôi mười đêm Biệt trụ. (xin như vậy ba lần). 

Người làm yết-ma nên nói như sau: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp cố ý xuất tinh, phạm một tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, đã theo Tăng xin mười đêm Biệt trụ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay cho Tỉ-kheo mỗ giáp - cố ý xuất tinh, phạm một tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm - mười đêm Biệt trụ. Ðây là lời tác bạch

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp cố ý xuất tinh, phạm một tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, theo Tăng xin mười đêm Biệt trụ. Tăng nay cho Tỉ-kheo mỗ giáp - cố ý xuất tinh, phạm một tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm - mười đêm Biệt trụ. Ðại đức nào bằng lòng cho Tỉ-kheo mỗ giáp - cố ý xuất tinh, phạm một tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm - mười đêm Biệt trụ thì im lặng; ai không bằng lòng hãy nói. Ðây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế). 

Tăng đã bằng lòng cho Tỉ-kheo mỗ giáp - cố ý xuất tinh, phạm một tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm- mười đêm Biệt trụ đã xong, vì im lặng. Tôi ghi nhận việc này là như vậy. 

Khi yết-ma xong, người này liền vào trong giới trường, trật vai áo phải, quỳ gối chắp tay, bạch Tăng như sau: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp cố ý xuất tinh, phạm một tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm. Tôi đã theo Tăng xin mười đêm Biệt trụ. Tăng đã thương xót cho tôi mười đêm Biệt trụ. 

Thưa đại đức Tăng! Tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp, cố ý xuất tinh, phạm một tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, nay tôi thi hành pháp Biệt trụ, xin Tăng ghi nhớ cho. (nói như vậy ba lần rồi bạch): Tôi xin tùy thuận chấp hành bảy việc. 

Nếu phạm hai, ba cho đến mười tội thì đều hợp xin một lần yết-ma Biệt trụ như vậy. Rồi người làm yết-ma nên nói như sau: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh cho đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay cho Tỉ-kheo mỗ giáp - phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh [437a] cho đến tội thứ mười, tất cả đều che giấu mười đêm - theo Tăng xin Tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ. 

Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, muốn theo Tăng xin tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ. 

Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng, tôi ghi nhận việc này là như vậy. 

Thế rồi, người này nên trật vai áo bên phải, quỳ gối, chắp tay, xin như sau: 

- Thưa đại đức Tăng, tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh cho đến tội thứ mười, tất cả đều che giấu mười đêm, nay theo Tăng xin tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ. Kính xin Tăng xót thương cho tôi tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ. (xin như vậy ba lần )

Người làm yết-ma nên nói như sau: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh cho đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm, đã theo Tăng xin tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay cho Tỉ-kheo mỗ giáp - phạm mười tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm - tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ. Ðây là lời tác bạch

Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh cho đến tội thứ mười, tất cả đều che giấu mười đêm, theo Tăng xin tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ. Tăng nay cho Tỉ-kheo mỗ giáp - phạm mười tội Tăng già bà thi sa - tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ. Các đại đức nào bằng lòng cho Tỉ-kheo mỗ giáp-phạm mười tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm - tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ thì im lặng; ai không bằng lòng hãy nói. Ðây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế.)

Tăng đã bằng lòng cho Tỉ-kheo mỗ giáp - phạm mười tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm - tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ xong, vì im lặng. Tôi ghi nhận việc này là như vậy. 

Nếu muốn làm liền thì ngay trong ngày ấy trật vai áo bên phải, quỳ gối, chắp tay, bạch Tăng như sau: 

- Thưa đại đức Tăng, tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh cho đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm, theo Tăng xin tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ. Tăng đã thương xót cho tôi tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ. 

Thưa đại đức Tăng, tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp - phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh cho đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm - nay tôi làm [437b] chung pháp Biệt trụ, xin Tăng ghi nhớ cho. (nói như vậy ba lần, rồi tiếp). Tôi xin tùy thuận làm bảy việc. 

Thế rồi, người này nên nhớ đếm từng ngày, khi làm đủ, nên bạch như sau: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm. Tôi đã theo Tăng xin tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ. Tăng đã cho tôi mười đêm Biệt trụ. Tôi đã làm mười đêm Biệt trụ xong, xin Tăng ghi nhớ cho. (nói như vậy ba lần). 

Nếu nơi đây Tăng chúng đủ số thì nên hành Ma-na-đỏa. Nếu không đủ thì nên xin nơi nào Tăng đủ số, rồi mời một Tỉ-kheo thông thạo yết-ma mà mình tâm đắc, đưa đến giới trường. Nếu khônggiới trường, không có đất làm yết-ma thì việc của Tăng không làm được. Ðất làm yết-ma như trên đã nói. 

Rồi người làm yết-ma nên hỏi: "Hành Biệt trụ đủ chưa? Không làm Biệt trụ tại già-lam không có Tăng đấy chứ? Không phạm tội cũ và tội trung gian đấy chứ? Không ở cùng một phòng, một nơi được che kín với Tỉ-kheo đấy chứ? Khách Tỉ-kheo đến có bạch không? Khi Tăng tập họp đúng thời và phi thời có bạch không?". Khi kiểm tra như vậy mà thấy đúng pháp, thì nếu phạm một tội, hai tội, ba tội cho đến mười tội, nên hợp lại xin (một lần) Ma-na-đỏa. Người làm yết-ma nên nói như sau: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh cho đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm, theo Tăng xin mười đêm Biệt trụ. Tỉ-kheo mỗ giáp đã làm xong mười đêm Biệt trụ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Tỉ-kheo mỗ giáp - phạm mười tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, làm Biệt trụ xong - theo Tăng xin tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa. 

Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, đã hành xong Biệt trụ, muốn theo Tăng xin tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa. 

Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng, tôi ghi nhận việc này như thế. 

Thế rồi, người này nên trật vai áo bên phải, quỳ gối chắp tay, xin Tăng như sau: 

- Thưa đại đức Tăng, tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh cho đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm. Tôi đã theo Tăng xin mười đêm Biệt trụ, và tôi đã làm xong mười đêm Biệt trụ, nay theo Tăng xin tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa. Kính mong Tăng xót thương cho tôi tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa. (xin như vậy ba lần). 

Người làm yết-ma nên nói như sau: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm, [437c] đã theo Tăng xin mười đêm Biệt trụ. Tỉ-kheo mỗ giáp đã làm xong mười đêm Biệt trụ, đã theo Tăng xin tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Tỉ-kheo mỗ giáp - phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh đến tội thứ mười, tất cả đều che giấu mười đêm, làm Biệt trụ xong - tổng hợp tất cả sáu đêm Ma-na-đỏa. Ðây là lời tác bạch

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm, đã theo Tăng xin tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ. Tỉ-kheo mỗ giáp đã làm xong mười đêm Biệt trụ, đã theo Tăng xin tổng hợp tất cả sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng nay cho Tỉ-kheo mỗ giáp - phạm mười tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, làm xong Biệt tru ï- tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa. Các đại đức nào bằng lòng cho Tỉ-kheo mỗ giáp - phạm mười tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, làm xong Biệt trụ - tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa thì im lặng; ai không bằng lòng hãy nói. Ðây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế). 

Tăng đã bằng lòng cho Tỉ-kheo mỗ giáp-phạm mười tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, làm xong Biệt trụ - tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa, vì im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy. 

Khi yết-ma xong, ngay trong ngày ấy nên vào trong Tăng, bạch như sau: 

- Thưa đại đức Tăng, tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố xuất tinh đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm, đã theo Tăng xin mười đêm Biệt trụ. Tôi đã làm xong mười đêm Biệt trụ, đã theo Tăng xin tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho tôi sáu đêm Ma-na-đỏa. 

Thưa đại đức Tăng, tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, đã làm xong Biệt trụ, tổng hợp làm sáu đêm Ma-na-đỏa, xin Tăng ghi nhớ cho. (nói như thế ba lần rồi tiếp). Tôi xin tùy thuận làm bảy việc. (nói như thế ba lần). 

Ðến ngày thứ hai, nên bạch như sau: 

- Thưa đại đức Tăng! Tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm. Tôi đã theo Tăng xin mười đêm Biệt trụ. Tăng đã cho tôi mười đêm Biệt trụ. Tôi đã làm xong mười đêm Biệt trụ, đã theo Tăng xin tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho tôi sáu đêm Ma-na-đỏa. Tôi đã làm xong một đêm Ma-na-đỏa, [438a] còn lại năm đêm, xin Tăng ghi nhớ cho. (nói như vậy ba lần). 

Thế rồi hằng ngày nên bạch như thế, cho đến đêm thứ sáu nên bạch như sau: 

- Thưa đại đức Tăng! Tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm. Tôi đã theo Tăng xin mười đêm Biệt trụ. Tăng đã cho tôi mười đêm Biệt trụ. Tôi đã làm xong mười đêm Biệt trụ, và đã xin tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho tôi sáu đêm Ma-na-đỏa. Tôi đã làm xong sáu đêm Ma-na-đỏa, giờ đến lúc xuất tội, xin Tăng ghi nhớ cho. 

Nếu nơi đây Tăng đủ số thì nên mời một vị thông thạo yết-ma rồi bạch như sau: "Thưa trưởng lão, xin trưởng lão làm yết-ma cho tôi". 

Người làm yết-ma nên hỏi: "Khi hành Ma-na-đỏa Tăng không thiếu túc số đấy chứ? Ma-na-đỏa đã rốt ráo chưa? Có phạm lại tội cũ và tội trung gian không? Không ở với Tỉ-kheo cùng một phòng, một nơi có ngăn che đấy chứ? Khi Tỉ-kheo khách đến có bạch không? Khi Tăng tập họp đúng thời và phi thời có bạch không? Hằng ngày có bạch với Tăng trong trú xứ không?". Nếu mỗi mỗi việc đều làm đúng pháp thì người làm yết-ma nên bạch như sau: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm, đã theo Tăng xin mười đêm Biệt trụ. Tăng đã cho mười đêm Biệt trụ. Mỗ giáp đã làm xong mười đêm Biệt trụ và đã theo Tăng xin tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỉ-kheo mỗ giáp đã làm xong sáu đêm Ma-na-đỏa. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Tỉ-kheo mỗ giáp - phạm mười tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, đã làm xong mười đêm Biệt trụ và Ma-na-đỏa - theo Tăng xin tổng hợp xuất tội. 

Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp -phạm mười tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, tổng hợp làm Biệt trụ và Ma-na-đỏa xong - theo Tăng xin tổng hợp xuất tội. 

Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng, tôi ghi nhận việc này như vậy. 

Thế rồi, người này nên trật vai áo bên phải, quỳ gối, chắp tay, đến trước Tăng xin như sau: 

- Thưa đại đức Tăng, tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp, phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh cho đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm, đã theo Tăng xin tổng hợp mười đêm Biệt trụ. Tăng đã cho tôi mười đêm Biệt trụ. Tôi đã làm xong mười đêm Biệt trụ, và đã theo Tăng xin tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho tôi sáu đêm Ma-na-đỏa. Tôi đã làm xong sáu đêm Ma-na-đỏa. Nay theo Tăng xin [438b] tổng hợp xuất tội về các tội đã che giấu mười đêm. Kính mong Tăng xót thương cho tôi xuất tội về các tội đã che giấu mười đêm. (xin như vậy ba lần). 

Người làm yết-ma nên nói như sau: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm, đã theo Tăng xin tổng hợp mười đêm Biệt trụ. Tăng đã cho mười đêm Biệt trụ. Tỉ-kheo mỗ giáp đã làm xong mười đêm Biệt trụ, và đã theo Tăng xin tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỉ-kheo mỗ giáp đã làm xong sáu đêm Ma-na-đỏa, đã theo Tăng xin tổng hợp xuất tội về các tội đã che giấu mười đêm. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Tỉ-kheo mỗ giáp - phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh đến tội thứ mười, tất cả đều che giấu mười đêm, đã tổng hợp làm xong Biệt trụ và Ma-na-đỏa - tổng hợp xuất tội. Ðây là lời tác bạch

Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm, đã theo Tăng xin tổng hợp mười đêm Biệt trụ. Tăng đã cho mười đêm Biệt trụ. Tỉ-kheo mỗ giáp đã làm xong mười đêm Biệt trụ, và đã theo Tăng xin tổng hợp sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỉ-kheo mỗ giáp đã làm xong sáu đêm Ma-na-đỏa và đã theo Tăng xin tổng hợp xuất tội về các tội đã che giấu mười đêm. Tăng nay cho Tỉ-kheo mỗ giáp - phạm mười tội Tăng già bà thi sa, từ tội cố ý xuất tinh đến tội thứ mười tất cả đều che giấu mười đêm, đã tổng hợp làm xong mười đêm Biệt trụ và sáu đêm Ma-na-đỏa - tổng hợp xuất tội. Các đại đức nào bằng lòng cho Tỉ-kheo mỗ giáp - phạm mười tội Tăng già bà thi sa, che giấu mười đêm, đã làm xong mười đêm Biệt trụ và Ma-na-đỏa - tổng hợp xuất tội thì im lặng; ai không bằng lòng hãy nói. Ðây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế). 

Tăng đã bằng lòng cho Tỉ-kheo mỗ giáp - mười đêm che giấu, tổng hợp tất cả mười đêm Biệt trụ và Ma-na-đỏa - xuất tội xong, vì Tăng im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy. 

Bấy giờ người làm yết-ma xoay qua nói với người phạm tội: "Thiện nam tử hãy lắng nghe. Thầy đã được xuất tội đúng pháp, một lần bạch, ba lần yết-ma, chúng Tăng đủ hai mươi người hòa hợp. Việc tập hợp Tăng làm yết-ma rất khó khăn. Thầy phải cẩn thận, chớ có tái phạm". 

Ðó gọi là Biệt trụ, Ma-na-đỏa và xuất tội thuộc về Tỉ-kheo, đã xong. 

VIỆC NÊN LÀM YẾT-MA, [438C] VÀ KHÔNG NÊN LÀM YẾT-MA. 

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba tranh chấp cãi vã nhau, sống không hòa hợp. Một người cử tội một người, hai người cử tội hai người, nhiều người cử tội nhiều người. Các Tỉ-kheo bèn đem sự kiện ấy đến bạch lên Thế Tôn

- Bạch Thế Tôn! Các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba sống phi pháp. Một Tỉ-kheo cử tội một Tỉ-kheo, hai Tỉ-kheo cử tội hai Tỉ-kheo, nhiều Tỉ-kheo cử tội nhiều Tỉ-kheo". 

Phật liền bảo các Tỉ-kheo: 

- Có bốn pháp yết-ma. Thế nào là bốn? Ðó là: 

1/ Yết-ma phi pháp, không hòa hợp
2/ Yết-ma phi pháp hòa hợp
3/ Yết-ma như pháp không hòa hợp
4/ Yết-ma như pháp hòa hợp". 

1/ Yết-ma phi pháp không hòa hợp: Tỉ-kheo không có việc gì mà Tăng làm yết-ma chiết phục. Các Tỉ-kheo biết là phi pháp nên ngăn cản. Những Tỉ-kheo không đến thì không gởi dục, còn người nhận dục đến thì không nói. 

Tỉ-kheo không có việc gì mà Tăng làm yết-ma chiết phục, rồi không tùy thuận làm mà cho xả (tội). Các Tỉ-kheo biết là phi pháp nên ngăn cản. Những Tỉ-kheo không đến thì không gởi dục, còn người nhận dục đến thì không nói. 

Hai trường hợp trên được gọi là yết-ma phi pháp không hòa hợp

2/ Yết-ma phi pháp hòa hợp: Tỉ-kheo không có việc gì mà Tăng làm yết-ma chiết phục. Các Tỉ-kheo không biết là phi pháp nên không ngăn cản. Các Tỉ-kheo không đến thì gởi dục, người nhận dục đến thì trình bày. 

Tỉ-kheo không có việc gì mà Tăng làm yết-ma chiết phục, rồi không tuân hành mà cho xả (tội). Các Tỉ-kheo không biết là phi pháp nên không ngăn cản. Các Tỉ-kheo không đến thì gởi dục, còn người nhận dục đến thì trình bày. 

Hai trường hợp trên đều gọi là yết-ma phi pháp hòa hợp

3/ Yết-ma như pháp không hòa hợp: Tỉ-kheo có việc nên Tăng làm yết-ma chiết phục. Các Tỉ-kheo không biết là đúng pháp nên ngăn cản. Các Tỉ-kheo không đến mà không gởi dục, còn người nhận dục đến thì không trình bày. 

Tỉ-kheo có việc nên Tăng làm yết-ma chiết phục, tùy thuận chấp hành và được xả (tội). Các Tỉ-kheo không biết là đúng pháp nên ngăn cản. Những Tỉ-kheo không đến mà không gởi dục, còn người nhận dục đến thì không trình bày. 

Hai trường hợp trên đều gọi là yết-ma như pháp không hòa hợp

4/ Yết-ma như pháp hòa hợp: Tỉ-kheo có tội, Tăng làm yết-ma chiết phục. Các Tỉ-kheo biết là đúng pháp nên không ngăn cản. Những Tỉ-kheo không đến thì gởi dục, còn người nhận dục đến thì trình bày. 

Tỉ-kheo có việc, Tăng làm yết-ma chiết phục, tùy thuận chấp hành rồi được xả (tội). Các Tỉ-kheo biết là đúng pháp nên không ngăn cản. Những Tỉ-kheo không đến thì gởi dục, còn người nhận dục đến thì trình bày. 

Hai trường hợp trên đều gọi là yết-ma như pháp hòa hợp

[439a] Ở đây, yết-ma như pháp hòa hợp thì gọi là yết-ma thích hợp. Ngoài ra, các yết-ma khác thì không thích hợp

Lại có yết-ma không thích hợp

Tỉ-kheo không có việc đáng chiết phục mà làm yết-ma chiết phục. Các Tỉ-kheo biết là phi pháp nên ngăn cản. Ðương sự không hiện diện, không hỏi, không dẫn chứng lỗi lầm, làm phi pháp không hòa hợp, chúng không thành tựu, bạch không thành tựu, yết-ma không thành tựu. Nếu mỗi một việc nào không thành tựu thì gọi là yết-ma không thích hợp

Nếu tùy thuận làm xong thì nên xả. Xả có sáu việc: 

1/ Làm yết-ma chiết phục; 
2/ Làm yết-ma không nói chuyện; 
3/ Làm yết-ma tẫn xuất; 
4/ Làm yết-ma phát hỉ; 
5/ Làm yết-ma cử tội; 
6/ Làm yết-ma Biệt trụ, Ma-na-đỏa. 

1/ Làm yết-ma chiết phục: Nên tùy thuận làm năm việc: Việc thuộc Tỉ-kheo; Việc thuộc Tỉ-kheo-ni; Việc thuộc quyến thuộc; Việc thuộc Yết-ma; Việc thuộc nhà vua. Sau khi làm yết-ma xong, nên nói: "Này trưởng lão, Thầy chớ có tái phạm. Nếu tái phạm thì Tăng sẽ trị phạt nặng hơn. Năm việc này nên tùy thuận làm tất cả". Khi làm xong, tâm ý đã được chiết phục nhũn nhặn thì Tăng nên cho yết-ma xả (tội). Ðó gọi là xả tác (Không làm nữa). 

2/ Làm yết-ma không nói chuyện: Nên tùy thuận làm năm việc: Việc thuộc Tỉ-kheo; Việc thuộc Tỉ-kheo-ni; Việc thuộc quyến thuộc; Việc thuộc yết-ma; Việc thuộc nhà vua. Khi làm yết-ma xong, nên tùy thuận làm năm việc trên. Tuy người một trăm tuổi cũng phải theo y chỉ với vị Tỉ-kheo trì giới, biết hai bộ luật, ít nhất mười tuổi (hạ). Sáng sớm thức dậy phải vấn an, đem đổ bô đại tiểu tiện, ống nhổ, rồi cất lại chỗ cũ, đưa đồ chà răng, quét phòng, đưa Thức ăn, giặt y, hong bát; cung cấp tất cả mọi thứ, chỉ trừ việc lễ bái, xoa bóp. Nhưng nếu Thầy y chỉ bệnh thì được sai xoa bóp. Thầy y chỉ nên dạy hai bộ luật. Nếu không có khả năng thì dạy một bộ. Nếu không có khả năng nữa, thì nên dạy rõ về năm thiên tội, nên dạy cho biết rõ về ấm, giới, nhập, mười hai nhân duyên, nên dạy cho biết thế nào là tội, thế nào là không phải tội, khi thấy có oai nghi nên khích lệ, trái oai nghi nên ngăn cản. Nếu học xong thì được gọi là xả. 

3/ Làm yết-ma tẫn xuất: Nên tùy thuận làm năm việc, từ việc thuộc Tỉ-kheo, cho đến việc thuộc nhà vua. Khi làm yết-ma xong, nên cho ở bên cạnh Tăng già-lam, để tùy thuận làm năm việc. Nếu mỗi mỗi việc đều làm đúng pháp xong thì nên cho xả tội. Ðó gọi là xả tẫn xuất. 

4/ Làm yết-ma phát hỉ: Nên tùy thuận làm năm việc, từ việc thuộc Tỉ-kheo cho đến việc thuộc nhà vua. Khi làm yết-ma xong, nên sai đến nhà thế tục mà đương sự đã sai phạm xin lỗi. Nếu người thế tục hỏi: "Tôn giả vẫn còn ở tinh xá cũ sao? Tôi sẽ cắt đứt thực phẩm, y phục, tiền bạc và các phẩm vật khác tại nơi đó", thì Tăng nên nói (với người phạm lỗi): "Ðây không phải là lỗi của Tăng, thầy nên trở lại chỗ người ấy làm cho họ nguôi giận, khiến họ vui vẻ". [439b] Nếu người ấy hoan hỉ thì gọi là xả. 

5/ Làm yết-ma cử tội: Nên tùy thuận làm năm việc, từ việc thuộc Tỉ-kheo đến việc thuộc nhà vua. Sau khi làm yết-ma xong, nên an trí tội nhân ở ngoài cửa Tăng già-lam, hướng về nơi hoang vắng. Nếu người ấy vào quét tước nơi Tháp, Viện, tăng phòng, thì Tỉ-kheo nên quét dấu chân của họ. Nếu người ấy đến múc nước đổ vào thùng nước dùng rửa chân, thùng nước dùng đi đại tiểu tiện thì nên múc đổ ra. Nếu là đệ tử đồng hành, đệ tử y chỉ thì không được gọi là đệ tử của Hòa Thượng, A-xà-lê. Không ai nên nói chuyện với người bị cử tội, chỉ nên nói với những người khác: "Hãy tùy thuận làm, hãy bỏ ác tà" nhưng không nên nói chuyện với Tỉ-kheo ác tà, không nên sống chung, không nên cùng ăn chung, không nên cùng sinh hoạt chung trong Phật, pháp, Tăng, không Bố-tát chung, không Tự túc chung, không yết-ma chung; có thể nói với ngoại đạo: "Ông muốn ngồi cứ ngồi", mà không được bảo người bị cử tội ngồi. Nếu người ấy bị bệnh thì không nên chăm sóc, nhưng được bảo đàn việt hay thân quyến của người ấy: "Người bị cử tội đang lâm bệnh, ông hãy đến chăm sóc". Nếu vô thường (sự chết) xảy đến thì không nên dùng hương hoa cúng dường tử thi, không nên sắm các thứ ẩm thực, nước uống phi thời để cúng dường. Tăng không nên chia y bát, không nên cho thiêu thân, lấy y bát buộc vào cổ tử thi, đặt tử thi trên giường mà ông ta ngủ rồi khiêng ra ngoài, nói: "Việc của chúng Tăng đã thanh tịnh, việc của chúng Tăng đã thanh tịnh". Ðối với Tỉ-kheo ác tà này không nên khởi ác tâm. Vì sao vậy? Vì dù bị thiêu đốt (?) cũng không nên khởi ác tâm. Nên suy nghĩ thế này: "Ðừng để cho người đời sau bắt chước theo tà kiến này". Nếu những kẻ chăn bò, những người đi lấy củi đem y bát (của người ấy) dến cúng dường thì được lấy, vì xem họ là thí chủ

6/ Làm yết-ma Biệt trụ, Ma-na-đỏa. Nếu người bị cử tội tùy thuận làm năm việc, được chánh kiến, tâm ý nhu nhuyến thì nên cho họ xả tội. Tỉ-kheo hành Ba-lợi-bà-sa, Ma-na-đỏa nên tùy thuận làm bảy việc, từ việc thuộc Tỉ-kheo cho đến việc thuộc nhà vua, đã được giải thích rõ ở trên. Ðó gọi là xả (tội).

LÀM THA-LA-THA (Giải quyết việc bất hòa). 

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, cư sĩ Tu Ðạt nói với người chị: 

- Chị ở trong thôn này hãy chăm sóc khách Tăng giúp tôi. 

Khi thấy các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba đến, bà rất hoan hỉ, niềm nở chào hỏi: 

- Lành thay các đại đức đã đến đây. 

Thế rồi, bà trải giường nệm, mời chư Tăng đến ngồi. Khi Tăng ngồi xong, bà đưa nước rửa chân, dầu thoa chân, nước giải khát, ban đêm bà đốt đèn, đoạn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, quỳ gối chắp tay, nói như sau: "Xin đại đức Tăng nhận lời mời của con ngày mai đến Thọ trai". 

Chư Tăng liền nhận lời mời. Bỗng chốc, chúng thứ hai lại đến, bà lại trải giường nệm, mời họ vào ngồi, rồi đưa nước rửa chân, dầu thoa chân và nước giải khát, đoạn, cúi đầu [439c] đảnh lễ dưới chân, quỳ gối chắp tay, nói như sau: "Xin đại đức Tăng nhận lời mời của con ngày mai đến nhà con Thọ trai". Chúng này nói: 

- Chúng tôi không ăn chung với những người ấy. 

- Vì sao vậy? 

- Vì họ là những người bị cử tội. 

Các Tỉ-kheo ấy nói: 

- Chúng tôi không phải là những người bị cử tội. 

Chúng Tăng kia lại nói: 

- Các ông là những người bị cử tội, tại sao bảo là không? 

Cứ như vậy cãi nhau suốt đêm về việc bị cử hay không bị cử, khiến cho những người thế tục ở gần đó sinh tâm không vui. Bà chị ông cư sĩ nghe thế, liền trách cứ: 

- Vì sao Sa-môn lại cãi nhau suốt đêm về việc bị cử hay không bị cử. 

Rồi bà thấy lòng không vui. Do thế, buổi sáng, bà không cho bữa ăn trước, bữa ăn sau, rồi lên xe ngựa đi về thành Xá-vệ, đến chỗ cư sĩ Tu Ðạt, trình bày lại đầy đủ sự việc kể trên, cho đến việc bà không thếch đãi. Cư sĩ nghe rồi, lòng bồi hồi không vui, nói với chị: 

- Ðấy là việc ác, cứ cho (họ ăn), vì sao lại không cho? Việc đúng pháp hay phi pháp là chuyện của Sa-môn (chứ can hệ gì! ). 

Thế rồi, Tu Ðạt bèn đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, ngồi sang một bên, trình bày lại đầy đủ sự việc kể trên, cho đến bị cử, không bị cử cho Thế Tôn nghe, rồi bạch: 

- Bạch Thế Tôn! Chúng con phải cung kính cúng dường như thế nào đối với những người vị cử, kính xin Thế Tôn phân biệt dạy rõ? 

Phật nói với cư sĩ

- Ðúng nghĩa nên biết, không đúng nghĩa cũng nên biết, đúng pháp, phi pháp, đúng luật, phi luật đều nên biết. Trong đây những ai làm đúng nghĩa, như pháp, như luật nên cung cấp. Nếu khôngphương tiện thì đối với những Tỉ-kheo bị cử nên giúp bằng sức lực. Này cư sĩ, chỉ nên bố thí làm các công đức, còn việc đúng pháp hay phi pháp thì để các Sa-môn tự biết lấy. 

Thế rồi, Tỉ-kheo-ni Ðại Ái Ðạo đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu một bên, bạch với Phật: 

- Bạch Thế Tôn! Chúng con phải làm sao...? 

Cuối cùng Phật dạy: "Nếu không có phương tiện thì đối với những Tỉ-kheo bị cử nên giúp họ bằng sức lực". 

Bấy giờ, tôn giờ A Nan, Ưu-ba-li đi đến chỗ Thế Tôn, cũng hỏi như thế. 

Khi ấy, tôn giả Xá-lợi-phất bạch với Phật: 

- Bạch Thế Tôn! Những Tỉ-kheo bị cử tội chúng con làm sao biết được? 

Cho đến (Phật dạy: ) "Nếu không có phương tiện thì đối với những Tỉ-kheo bị cử nên giúp họ bằng công việc". 

Thế rồi, Xá-lợi-phất bạch với Phật: 

- Bạch Thế Tôn, thế nào gọi là Tha-la-tha? Phật nói với Xá-lợi-phất: 

- Có bảy việc, bao gồm chẳng phải Tha-la-tha mà tợ hồ Tha-la-tha và nhị Tha-la-tha. Bảy việc đó là: Hoặc do điên cuồng nên không bênh vực chúng này cũng không bênh vực chúng kia. Ðó là Tha-la-tha sớm nhất, thuộc loại không phải Tha-la-tha mà tợ hồ Tha-la-tha. Cũng thế, hoặc do tâm loạn, đần độn, ngu si, bị bệnh nên không bênh vực chúng này hay chúng kia. 

Lại nữa Xá-lợi-phất, hoặc có người vì muốn lợi ích, nên suy nghĩ

- Nếu ta bênh vực [440a] chúng này thì chúng kia mất lợi ích. Nếu ta bênh vực cho chúng kia thì chúng này mất lợi ích. 

Do đó, cả hai đều không bênh vực. 

Lại nữa, có người vì được lợi ích cả hai bên nên suy nghĩ: "Vì ta được lợi cả hai bên nên không bênh vực chúng này, cũng không bênh vực chúng kia". 

Này Xá-lợi-phất! Ðó gọi là bảy việc, không phải Tha-la-tha mà tợ Tha-la-tha. 

Nhị tha-la-tha: Gồm có: Tự giữ lòng mình, đợi thời gian. 

Tự giữ lòng mình: Khi thấy người ta thị phi, liền suy nghĩ: "Do nghiệp vận hành, ai làm nấy biết. Ví như khi bị lửa cháy, ta chỉ lo tự cứu mình, hơi đâu lo việc người khác". Ðó gọi là tự giữ lòng mình. 

Ðợi thời gian: Có người khi thấy kẻ khác tranh chấp cãi nhau, liền suy nghĩ: "Việc tranh chấp cãi vã này khi nào đến lúc, nó sẽ tự kết thúc". 

Ðó gọi là Nhị tha-la-tha. 

Bấy giờ Xá-lợi-phất bạch với Phật: 

- Bạch Thế Tôn, thế nào gọi là Trung tha-la-tha? 

Phật nói với Xá-lợi-phất: 

- Có một người cùng hưởng chung pháp vịthức ăn với chúng này, đồng thời cũng hưởng chung pháp vịthức ăn với chúng kia, rồi được mời đứng ra giải quyết việc (tranh chấp). 

Lại nữa này Xá-lợi-phất, có người cùng hưởng chung pháp vịthức ăn với chúng này, đồng thời cũng hưởng chung pháp vịthức ăn với chúng kia, người ta không mời mà đứng ra giải quyết việc tranh chấp. Ðó gọi là Trung Tha-la-tha. 

Khi ấy, Xá-lợi-phất bạch với Phật: 

- Bạch Thế Tôn! Tỉ-kheo Tha-la-tha muốn xử lý Tỉ-kheo bị cử thì phải làm sao? 

Phật nói với Xá-lợi-phất: 

- Nếu người bị cử tỏ ra tùy thuận chấp hành, tâm nhu nhuyến mà mình muốn xử lý họ thì không nên xử lý vào lúc Tăng tập hợp đúng thời và phi thời mà trước hết nên vào nơi phòng riêng hay tại phòng sưởi, trên giảng đường, hay tại chỗ đông người tụ tập, hỏi Tỉ-kheo trẻ tuổi: 

- Trưởng lão có nghe Hòa Thượng A-xà-lê của thầy nói: "Nếu trung gian có người đứng ra giải quyết, thì người bị cử nên nghe lời", hay không? Nếu đáp: 

- Tôi nghe Hòa Thượng A-xà-lê nói rằng nếu người bị cử tùy thuận chấp hành, tâm nhu nhuyến mà có người còn moi móc thì phải trừng trị người này. 

Nếu nghe nói như thế thì cứ làm thinh để yên. Còn nếu đáp: 

- Tôi nghe Hòa Thượng A-xà-lê nói rằng người bị cử đã tùy thuận chấp hành, tâm nhu nhuyến đáng thương mà không có ai giúp giải quyết

Khi nghe nói như thế thì này Xá-lợi-phất, không được cố ý tập họp chúng, mà hãy nhân lúc chúng tập họp đúng thời hay phi thời, hoặc vào những ngày Bố-tát tự tứ, người bị cử nên đến trước Tăng xin như sau: 

- Tôi là Tỉ-kheo bị cử đã tùy thuận chấp hành, tâm nhu nhuyến, xin xả (tội) cho tôi. 

Nói như thế ba lần, rồi đi ra. Nhưng lúc đi ra, không được im lặng mà nên trịch vai áo bên phải, chắp tay lại mà đi. Nếu trong chúng có người còn bới móc thì Tỉ-kheo Tha-la-tha nên hỏi: 

- Này trưởng lão, người này vốn do việc gì mà bị cử? 

Nếu có người trách: "Người này bị cử [440c] mà vì sao không biết?", thì nên phối hợp trị tội cả hai. Còn nếu nghe mình chất vấn mà im lặng, hay nói: "hưa trưởng lão! Người này bị cử tội, đã tùy thuận chấp hành, tâm nhu nhuyến mà không có người giúp giải quyết xả tội", thì Tỉ-kheo Tha-la-tha nên nói: "Thưa trưởng lão! Ðức Thế Tôn dạy rằng có hai hạng người cương cường, chưa trị thì nên trị, đã trị mà nhu nhuyến thì nên xả". 

Nếu trường hợp được Tăng chúng đồng tình thì nên làm yết-ma cầu thính, khi đã cho phép xin thì người làm yết-ma nên nói: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp có việc như thế, Tăng muốn được lợi ích nên đã làm yết-ma cử tội. Vị ấy đã tùy thuận chấp hành, tâm nhu nhuyến. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Tỉ-kheo mỗ giáp theo Tăng xin bỏ pháp yết-ma cử tội. 

Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp muốn theo Tăng xin bỏ pháp yết-ma cử tội. 

Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng, tôi ghi nhận việc này như vậy. 

Thế rồi, người này nên trật vai áo bên phải, quỳ gối chắp tay, xin như sau: 

- Thưa đại đức Tăng, tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp có việc như thế, Tăng vì muốn được lợi ích đã làm yết-ma cử tội. Tôi đã tùy thuận chấp hành, tâm nhu nhuyến, bỏ ác kiến cũ, nay theo Tăng xin bỏ pháp yết-ma cử tội. Kính mong Tăng xót thương cho tôi pháp yết-ma bỏ việc cử tội. (xin như vậy ba lần)

Người làm yết-ma nên nói: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp có tội như thế, Tăng muốn được lợi ích nên đã làm yết-ma cử tội. Vị ấy đã tùy thuận chấp hành, tâm đã nhu nhuyến, bỏ ác kiến cũ, đã theo Tăng xin phép yết-ma bỏ việc cử tội. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Tỉ-kheo mỗ giáp pháp yết-ma bỏ việc cử tội. Ðây là lời tác bạch

Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp có việc như thế, Tăng muốn được lợi ích nên đã làm yết-ma cử tội. Vị ấy đã tùy thuận chấp hành, tâm đã nhu nhuyến, bỏ ác kiến cũ, đã theo Tăng xin pháp yết-ma bỏ việc cử tội. Tăng nay cho Tỉ-kheo mỗ giáp pháp yết-ma bỏ việc cử tội. Các đại đức nào bằng lòng Tăng cho Tỉ-kheo mỗ giáp pháp yết-ma bỏ việc cử tội thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Ðây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế). 

Tăng đã bằng lòng cho Tỉ-kheo mỗ giáp pháp yết-ma bỏ việc cử tội, vì Tăng đã im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy. 

Ðó gọi là tha-la-tha. 

DỊ TRỤ (Phá Yết-ma Tăng).

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ cư sĩ Tu Ðạt nói với người chị: 

- Chị ở thôn này, vậy khi có khách Tăng đến nhờ chị cung cấp giúp cho tôi. 

Thế rồi, các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba đến. Thấy họ, bà hoan hỉ mời vào chỗ ngồi, rồi tùy nghi cung cấp. Ðoạn, bà quỳ gối chắp tay thưa: 

- Kính xin các đại đức ngày mai đến thọ bữa cúng dường của con. 

[440c] Trong chốc lát, chúng thứ hai lại đến, bà cũng mời vào nhà ngồi, rồi cung cấp các thứ, đồng thời mời họ ngày mai thọ trai. Chúng này nói: 

- Chúng tôi không ăn chung với những người ấy. 

Bà hỏi: 

- Vì cớ sao? 

Họ đáp: 

- Vì những người ấy phá Tăng

Chúng này liền đáp: 

- Chúng tôi không phá Tăng

Chúng kia nói lại: 

- Các vị phá Tăng thật, vì sao nói là không? Cứ như thế cãi nhau suốt đêm, khiến những người thế tục ở gần nghe xong phát chán. Bà chị ông cư sĩ không vui, nên không cung cấp thứ gì cả. Sáng sớm bà thức dậy, ngồi xe ngựa trở lại thành Xá-vệ, trình bày lại đầy đủ sự việc trên với Tu Ðạt. Cư sĩ nghe xong, liền đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi đứng qua một bên, đem việc trên trình bày lại đầy đủ với Thế Tôn; rồi bạch: 

- Bạch Thế Tôn! Những người phá Tăng này chúng con có nên cung kính cúng dường hay không, kính xin Thế Tôn phân biệt chỉ rõ? 

Phật nói với cư sĩ

- Những người hợp nghĩa nên biết, những người không hợp nghĩa cũng nên biết, như pháp, phi pháp, như luật, phi luật, tất cả đều nên biết. Trong đây, những ai hợp nghĩa, như pháp, như luật thì nên cung cấp. Nếu khôngphương tiện thì đối với những người phá Tăng nên cho họ ở chung. Này cư sĩ, chỉ nên bố thí, làm các công đức, còn việc đúng pháp hay phi pháp thì mặc Sa-môn. 

Bấy giờ, Tỉ-kheo-ni Ðại Ái Ðạo bạch với Phật: 

- Bạch Thế Tôn! Những người phá Tăng này chúng con làm sao biết được? 

Như ở trên đã nói rõ. 

Khi ấy, tôn giả A Nan, Xá-lợi-phất và Ưu-Ba Li đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi đứng sang một bên, bạch với Phật: 

- Bạch Thế Tôn! Những người phá Tăng chúng con làm sao biết được? 

Phật nói với Ưu-ba-li: 

- Những ai hợp nghĩa nên biết, không hợp nghĩa cũng nên biết, hoặc như pháp phi pháp, đúng luật phi luật, đều nên biết. Trong đây, những người hợp nghĩa, như pháp, như luật thì nên cung cấp. Nếu khôngphương tiện thì đối với những người phá Tăng nên cho họ ở chung

Thế rồi, tôn giả Ưu-ba-li bạch với Phật: 

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là phá Tăng? Phật nói với Ưu-ba-li: 

- Có hai việc gọi là phá Tăng. Ðó là: 1/ Thêm pháp ác; 2/ Thêm người ác. 

- Chúng phi pháp đông người, chúng như pháp ít người, có gọi là phá Tăng không? 

- Không. 

- Chúng như pháp đông người, chúng phi pháp ít người, có gọi là phá Tăng không? 

- Không. 

- Chúng phi pháp đông người, chúng như pháp hoặc thiếu mười người, hoặc thiếu mười lăm người, có gọi là phá Tăng không? 

- Không. 

- Chúng phi pháp đủ người, chúng như pháp cũng đủ người, nhưng nếu thiếu mười, mười lăm người mà trong số những người còn ngồi lại tất cả đều nói đúng pháp, có gọi là phá Tăng không? 

- Không. 

- Nếu chúng phi pháp đủ số, chúng như pháp cũng đủ số, nhưng nếu thiếu mười, mười lăm người, mà trong đó tất cả những người nói đúng pháp không ngồi, không gởi dục, cũng không cho biết là mình không bằng lòng, thì có gọi là phá Tăng không? 

- Không. 

- [441a] Nếu chúng phi pháp đủ số, chúng như pháp cũng đủ số, nhưng nếu thiếu mười, mười lăm người mà tất cả những người nói đúng pháp không ngồi, không gởi dục, cũng không cho biết là mình không bằng lòng, rồi miễn cưỡng đem những người chưa thọ cụ túc vào cho đủ số, thì có gọi là phá Tăng không? 

- Không. 

- Nếu chúng phi pháp đủ số, chúng như pháp cũng đủ số, nhưng nếu thiếu mười, mười lăm người, mà tất cả những người nói đúng pháp không ngồi, không gởi dục, cũng không cho biết là mình không bằng lòng, không miễn cưỡng đem những người chưa thọ cụ túc vào cho đủ số, nhưng tất cả đều muốn phá Tăng, thì có gọi là phá Tăng không? 

- Không. Này Ưu-ba-li! Nếu chúng phi pháp đủ số, chúng như pháp cũng đủ số, hoặc thiếu mười, mười lăm người, mà tất cả những người nói đúng pháp không ngồi lại, không gởi dục, không cho biết là mình không bằng lòng, không miễn cưỡng đem người chưa thọ cụ túc vào tính cho đủ số, cũng không phải tất cả đều muốn phá Tăng; nhưng nếu một trú xứ, cùng một cương giới mà Bố-tát riêng, tự tứ riêng, làm việc tăng riêng, thì gọi là phá Tăng. Nếu biết người kia muốn phá Tăng, thì các Tỉ-kheo nên khuyên: "Này trưởng lão! Thầy đừng phá Tăng, phá Tăng là tội rất nặng, sẽ đọa vào đường ác, rơi xuống địa ngục. Tôi sẽ cho Thầy y bát, trao cho kinh, dạy kinh, hỏi han công việc, chỉ bảo Thầy". Nếu đã khuyên như thế mà vẫn cố tình không bỏ thì nên nói với người Ưu-bà-tắc có thế lực: "Này lão trượng! Người này muốn phá Tăng. Ông nên đến khuyên để ông ta hiểu, bảo phải chấm dứt". 

Thế rồi, Ưu-bà-tắc nên khuyên: 

- Này tôn giả! Thầy đừng phá Tăng, phá Tăngtrọng tội, sẽ đọa vào đường ác, rơi xuống địa ngục. Tôi sẽ cho tôn giả y bátcung cấp thuốc thang chữa bệnh. Nếu không thích tu phạm hạnh nữa thì có thể hoàn tục. Tôi sẽ cưới vợ cho thầy và cung cấp những thứ cần thiết

Nếu vẫn cố tình không chấm dứt thì nên rút thăm rồi đuổi đi. Ðuổi rồi cần phải tuyên bố như sau: 

- Này các đại đức! Có người phá Tăng đến đấy, các vị nên coi chừng

Nếu đã làm đủ cách như vậy mà vẫn cố tình phá Tăng thì gọi là phá Tăng. Nhưng nếu bố thí cho họ thì gọi là việc phước điền tốt. Nếu thọ giới với họ thì gọi là khéo thọ cụ túc. Nếu đã biết họ phá Tăng thì nên bỏ đi. Nếu không bỏ đi tức là bạn của kẻ phá Tăng, là bè đảng phá Tăng. Do thế, Tăng suốt đời không nên cùng nói chuyện với họ, không cùng ăn chung, không cùng sinh hoạt chung trong Phật pháp Tăng, không Bố-tát, an cư, Tự tứ chung và không làm yết-ma chung. 

Có thể nói với những người xuất gia của ngoại đạo

- Có các chỗ ngồi, các vị muốn ngồi cứ ngồi.

Nhưng không được mời những người phá Tăng ngồi. 

Ðó gọi là dị trụ. 

CHO PHÁP HỌC HỐI BA-LA-DI. 

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, trong thành Xá-vệ có Nan Ðề không thích sống ở nhà, bỏ nhà xuất gia, đi cũng Thiền, đứng cũng Thiền, ngồi cũng Thiền, [441b] nằm cũng Thiền. Lúc ấy cũng có nhiều Nan Ðề khác làm như vậy, cho nên những người này được gọi là Thiền Nan Ðề, như trong giới Ba-la-di đã nói rõ. Do thế, các Tỉ-kheo bèn đuổi đi. Sau khi bị đuổi, họ ra đứng trước cổng tinh xá Kỳ Hoàn khóc lóc, nói với Tỉ-kheo: 

- Thưa trưởng lão, tôi phạm giới Ba-la-di, nhưng không có một chút tâm ý che giấu. Tôi thích mặc Ca-sa, không muốn rời bỏ Phật pháp

Thế rồi, mẹ của Nan Ðề đến, cũng khóc, nói: 

- Con tôi thích xuất gia nhưng đức Thế Tôn đuổi đi. 

Rồi chị Nan Ðề đến, cũng khóc, nói: 

- Em tôi thích làm Sa-môn mà Thế Tôn đuổi đi. 

Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỉ-kheo: 

- Ông Nan Ðề này phạm giới Ba-la-di nhưng không hề có một chút tâm niệm che giấu, vậy, Tăng nên cho pháp yết-ma học hối Ba-la-di. Người này nên trịch vai áo bên phải, quỳ gối chắp tay, theo Tăng xin như sau: 

- Thưa đại đức Tăng! Tôi là Nan Ðề, phạm giới Ba-la-di mà không có một chút tâm niệm che giấu. Nay theo Tăng xin pháp học hối Ba-la-di. Kính mong Tăng xót thương cho tôi pháp yết-ma học hối Ba-la-di. (xin như vậy ba lần). 

Người làm yết-ma nên nói: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo Nan Ðề phạm giới Ba-la-di mà không có một chút tâm niệm che giấu, đã theo Tăng xin pháp yết-ma học hối Ba-la-di. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Nan Ðề pháp yết-ma học hối Ba-la-di. Ðây là lời tác bạch

Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo Nan Ðề phạm giới Ba-la-di mà không có một chút tâm niệm che giấu, đã theo Tăng xin pháp yết-ma học hối Ba-la-di. Tăng nay cho Tỉ-kheo Nan Ðề pháp yết-ma học hối Ba-la-di. Các đại đức nào bằng lòng Tăng cho Tỉ-kheo Nan Ðề pháp yết-ma học hối ba-la-di thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Ðây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế). 

Tăng đã bằng lòng cho Tỉ-kheo Nan Ðề pháp yết-ma học hối Ba-la-di xong, vì Tăng im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy. 

Thế rồi, người này nên ngồi dưới tất cả Tỉ-kheo, ngồi trên tất cả Sa-di, không được ngủ cùng phòng với Tỉ-kheo quá ba đêm, cũng không được ngủ với Sa-di quá ba đêm. Những món ăn nào không hợp pháp đối với Tỉ-kheo, thì với vị này cũng không hợp pháp. Những món ăn nào không hợp pháp đối với vị này, thì với Tỉ-kheo cũng không hợp pháp. Vị này được Tỉ-kheo trao cho Thức ăn, ngoại trừ năm thứ thực vật hỏa tịnhvàng bạc. Vị này được theo Sa-di nhận thức ăn. Tỉ-kheo không được nói với vị này về giới bản, về tội Ba-la-di, Tăng già bà thi sa, cho đến tội Việt-tì-ni. Nhưng được nói: 

- Không được làm điều phi phạm hạnh, không được trộm cắp, không được sát sinh, không được nói dối, không được uống rượu; [441c] tất cả đều được dạy bảo như thế. 

Nếu trước đó là người tụng giới thì (giờ đây) không được tụng lớn tiếng. 

Nếu tôn kính pháp thì được tụng thầm. Tăng không được cho Bố-tát tự tứ. Vào ngày Bố-tát, tự tứ, vị này nên vào giữa Tăng nói như sau: 

- Tôi thanh tịnh, xin Tăng ghi nhận cho. 

Nói như vậy ba lần rồi lui ra. Trong bốn giới Ba-la-di, nếu vị này vi phạm thì phải đuổi đi; còn các giới Tăng già bà thi sa trở xuống mà phạm thì tất cả đều cho sám hối tội Ðột-cát-la. 

Ðó gọi là cho pháp yết-ma học hối Ba-la-di. 

TÙY THUẬN HÀNH MÍCH TỘI TƯỚNG. 

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ Tỉ-kheo Thi Lợi Da Bà thường phạm tội Tăng già bà thi sa. Tăng tập họp định làm yết-ma thì Thi Lợi Da Bà không đến. Tăng bèn sai sứ đến gọi: 

- Trưởng lão! Chúng Tăng tập họp định làm yết-ma vì sao không đến? 

Thi Lợi Da Bà nói: "Ắt hẳn Tăng vì ta mà làm yết-ma chứ gì!", liền cảm thấy trong lòng hoảng sợ, rồi đi đến. Các Tỉ-kheo hỏi: 

- Trưởng lão! Thầy phạm tội Tăng già bà thi sa phải không? 

Thầy đáp: 

- Phạm. 

Rồi, trong lòng sinh hoan hỉ, thầm nghĩ: 

- Các vị phạm hạnh khởi từ tâm đối với ta, nêu ra tội có thể sám hối, chứ không phải không thể sám hối

Liền bạch: 

- Cho tôi ra ngoài một lát. 

Sau khi thầy ra rồi, các Tỉ-kheo bàn nhau: 

- Vị Tỉ-kheo này khinh suất, không quyết định, đi rồi, lát nữa thế nào cũng nói dối, cần phải hỏi lại ba lần cho chắc chắn rồi mới làm yết-ma. 

Thi Lợi Da Bà ra ngoài rồi suy nghĩ: "Vì sao ta lại nhận tội ấy? Các Tỉ-kheo thường thường trị tội ta, ta không nên nhận". 

Các Tỉ-kheo liền gọi Thi Lợi Da Bà vào, rồi hỏi: 

- Thầy có phạm tội Tăng già bà thi sa thật không? 

- Không phạm. 

- Vì sao lúc ở giữa Tăng Thầy nói có tội đó, mà giờ lại bảo là không phạm? 

- Tôi không nhớ việc đó. 

Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Thi Lợi Da Bà đến. Khi thầy đến, Phật liền hỏi lại đầy đủ sự việc trên: 

- Ông có việc đó thật không? 

- Có thật như vậy, bạch Thế Tôn

Phật liền nói với các Tỉ-kheo: 

- Ông Thi Lợi Da Bà này lúc ở giữa Tăng nói là thấy tội, rồi lại nói là không thấy, không thấy lại nói là thấy, còn nói rằng không nhớ. Vậy Tăng nên làm yết-ma mích tội tướng (tìm dấu vết của tội). Người làm yết-ma nên nói: 

- Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo Thi Lợi Da Bà khi ở giữa Tăng thấy tội thì nói là không thấy, không thấy lại nói là thấy, rồi nói không nhớ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Thi Lợi Da Bà pháp yết-ma mích tội tướng. Ðây là lời tác bạch

Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo [442a] Thi Lợi Da Bà khi ở giữa Tăng thấy tội thì nói là không thấy, không thấy lại nói là thấy, rồi nói mình không nhớ. Tăng nay cho pháp yết-ma mích tội tướng. Các đại đức nào bằng lòng Tăng cho Thi Lợi Da Bà pháp yết-ma mích tội tướng thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Ðây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế). 

Tăng đã bằng lòng cho Thi Lợi Da Bà pháp yết-ma mích tội tướng, vì Tăng im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy. 

Thế rồi, người này suốt đời nên làm tám việc sau đây: 

1/ Không được độ người
2/ Không được cho người thọ cụ túc; 
3/ Không được cho người y chỉ
4/ Không được nhận sự cung cấpxoa bóp của Tỉ-kheo; 
5/ Không được làm sứ giả cho Tỉ-kheo; 
6/ Không được nhận Tăng sai theo thứ tự; 
7/ Không được làm người thuyết pháp cho Tăng; 
8/ Suốt đời không cho xả tội. 

Khi Tăng hòa hợp làm yết-ma mích tội tướng xong thì phải thi hành tám việc này suốt đời mà không được bỏ. Ðó gọi là Mích tội tướng tùy thuận làm. 

Kệ tóm tắt

"Cử yết-ma, Biệt trụ, 
Ma-na-đỏa, xuất tội. 
Nên, không nên tùy thuận
Tha-la-tha, dị trụ. 
Học hối, Mích tội tướng, 
Kết thúc phẩm thứ hai". 

VIỆC CỬ TỘI (NÊU TỘI).

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba đấu tranh, cãi vã nhau, sống không hòa hợp. Một Tỉ-kheo nêu tội một Tỉ-kheo, hai Tỉ-kheo nêu tội hai Tỉ-kheo, nhiều Tỉ-kheo nêu tội nhiều Tỉ-kheo, nói như sau: 

- Tôi nêu tội trưởng lão, tôi nêu tội trưởng lão

Bấy giờ tôn giả Ưu-ba-li bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn

- Bạch Thế Tôn, các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba khởi lên việc phi pháp. Một Tỉ-kheo nêu tội một Tỉ-kheo, cho đến nhiều Tỉ-kheo nêu tội nhiều Tỉ-kheo. Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu việc thì Tỉ-kheo được nêu tội người khác? 

Phật nói với Ưu-ba-li: 

- Khi có ba việc, ba nhân duyên thì Tỉ-kheo được nêu tội người khác. 

Thế nào là ba việc? Ðó là: Giới không Thanh tịnh, kiến không Thanh tịnh, mạng không Thanh tịnh

Thế nào là ba nhân duyên? Ðó là: Thấy, nghe và nghi. Ðó gọi là ba. 

Lại nữa, khi bản thân Tỉ-kheo thành tựu năm pháp thì được nêu tội người khác. Thế nào là năm pháp? Ðó là: 

1/ Sự việc có thật không hư dối
2/ Nói đúng lúc, không phải không đúng lúc
3/ Vì lợi ích, không phải không lợi ích
4/ Nói nhỏ nhẹ, không nói thô lỗ
5/ Vì lòng từ, không phải vì giận dữ. Ðó gọi là năm pháp được nêu tội người khác. 

Lại nữa, thành tựu năm pháp, được nêu tội người khác. Thế nào là năm? Ðó là: 

1/ Thân nghiệp thanh tịnh
2/ Khẩu nghiệp thanh tịnh
3/ Mạng sống chân chánh; 
4/ Am tường luận tạng
5/ Thông thạo Luật tạng

Này Ưu-ba-li, nếu thân nghiệp không thanh tịnh mà nêu tội người khác, thì người đó nên nói: - Này trưởng lão! Thân nghiệp thầy [442b] không thanh tịnh, vì sao nêu tội người khác? Trước hết nên làm cho thân nghiệp mình thanh tịnh rồi mới nêu tội người khác. 

Thế nên, này Ưu-ba-li, muốn nêu tội người khác, trước hết thân nghiệp mình phải thanh tịnh, khẩu nghiệp phải thanh tịnh, và mạng sống phải chân chánh. Nếu người nào ít nghe luận điển mà cử tội người khác thì người đó nên nói: 

- Này trưởng lão! Vì sao Thầy ít nghe luận điển mà cử tội người khác? Lành thay trưởng lão, trước hết Thầy hãy nghe nhiều luận điển rồi mới cử tội người khác. 

Thế đó Ưu-ba-li, khi muốn nêu tội ai, trước hết mình phải nghe nhiều luận điển. Nếu ít nghe Luật tạng mà muốn nêu tội người khác thì người ấy nên nói: 

- Này trưởng lão! Vì sao Thầy ít nghe Luật tạng mà nếu tội người khác? Trưởng lão cũng không biết do việc gì mà chế giới này, tại thành ấp xóm làng quốc gia nào chế giới này. Lành thay trưởng lão! Khi muốn nêu tội ai, trước hết Thầy phải nghe nhiều Luật tạng rồi mới nêu tội họ. 

Thế nên, này Ưu-ba-li! Khi muốn nêu tội ai, trước hết phải nghe nhiều Luật tạng

Ðó gọi là bản thân mình phải thành tựu năm pháp, mới được nêu tội người khác. 

Lại nữa, này Ưu-ba-li, có năm trường hợp nêu tội người phi pháp. Thế nào là năm? Ðó là: 

1/ Có trường hợp mắng rồi mới nêu tội; 
2/ Có trường hợp nêu tội rồi mới mắng; 
3/ Có trường hợp vừa nêu tội, vừa mắng; 
4/ Có trường hợp mắng mà không nêu tội; 
5/ Có trường hợp nêu tội mà không mắng. 

1/ Mắng rồi mới nêu tội: Trước tiên mắng xối xả rồi mới nêu ra một tội nào đó trong năm Thiên tội. Ðó gọi là mắng rồi mới nêu tội. 

2/ Nêu tội rồi mới mắng: Trước hết nêu ra một tội nào đó trong năm Thiên tội, rồi mới mắng. Ðó gọi là nêu tội rồi mới mắng. 

3/ Vừa nêu tội vừa mắng: Mắng xối xả, rồi nói: "Ông phạm Ba-la-di". Mắng xối xả, rồi nói: "Ông phạm tội Tăng già bà thi sa cho đến tội Việt-tì-ni". Ðó gọi là vừa nêu tội vừa mắng. 

4/ Mắng mà không nêu tội: Mắng nhiếc đủ thứ mà không nêu tội. Ðó gọi là mắng mà không nêu tội. 

5/ Nêu tội mà không mắng: Nêu một tội nào trong năm Thiên tội mà không mắng mỏ? Ðó gọi là nêu tội mà không mắng. 

Trong đây, các trường hợp trước mắng rồi sau nêu tội; nêu tội rồi mới mắng; vừa nêu tội vừa mắng thì Tăng không nên hỏi, không nên chấp nhận. Trái lại, trường hợp nêu tội mà không mắng thì Tăng nên kiểm tra

Khi muốn nêu tội ai, trước hết nên nói: 

- Này trưởng lão! Tôi muốn nêu một sự việc Thầy có chịu nghe không? 

Bị cáo nên nói: 

- Thầy muốn nêu tội thì được thôi. 

Nếu không hỏi bị cáo có chịu nghe không mà nêu tội thì phạm tội Việt-tì-ni. 

Này Ưu-ba-li, nếu bị cáogiới thể không thanh tịnh mình không thấy, không rõ sự thật, không đúng lúc, không vì sự lợi ích, nói thô lỗ không nhỏ nhẹ, giận dữ, không có lòng từ mà nêu tội người ta, thì phạm tội Việt-tì-ni. Về vấn đề nghe, nghi cũng như thế. 

Lại nữa, nếu bị cáokiến giải không thanh tịnh, mình không thấy, không rõ sự thật, không đúng lúc, không vì sự lợi ích, nói thô lỗ không dịu dàng, giận dữ, không có lòng từ mà nêu tội người ta thì phạm tội Việt-tì-ni. [442c] Về vấn đề nghe, nghi cũng như thế. 

Lại nữa, nếu bị cáo có mạng sống không thanh tịnh, mình không thấy, không rõ sự thật, không đúng lúc, không vì lợi ích, nói thô lỗ không dịu dàng, giận dữ, không có lòng từ mà nêu tội người ta thì phạm tội Việt-tì-ni. Về vấn đề nghe, nghi cũng như thế. 

Này Ưu-ba-li, nếu bị cáogiới Thể không thanh tịnh mình thấy đúng sự thật, vì lợi ích, nói dịu dàng không thô lỗ, có từ tâm, không giận dữ, nhưng không nói với bị cáo, bị cáo không ưng thuận mà nêu tội, thì phạm tội Việt-tì-ni. Về việc nghe, nghi cũng như thế. 

Nếu bị cáokiến giải không thanh tịnh mà khi mình thấy đúng, vì lợi ích, nói dịu dàng không thô lỗ, có từ tâm, không giận dữ, nhưng không nói với bị cáo, bị cáo không ưng thuận, mà nêu tội, thì phạm tội Việt-tì-ni. Về vấn đề nghe, nghi cũng như thế. 

Nếu bị cáo có mạng sống không thanh tịnh, khi mình thấy đúng, vì lợi ích, nói dịu dàng không thô lỗ, có từ tâm, không giận dữ, nhưng không nói với bị cáo, bị cáo không ưng thuận mà nêu tội, thì phạm tội Việt-tì-ni. Về vấn đề nghe, nghi cũng như thế. 

Lại nữa, người nào có năm tính xấu sau đây thì không được nêu tội người khác ở giữa chúng Tăng. Ðó là: Thiên vị; giận dữ; sợ hãi; si mê và vụ lợi. Nếu có năm tính xấu đó mà nêu tội người khác thì sau khi thân hoại mệnh chung, sẽ đọa vào đường ác, rơi xuống địa ngục

Lại nữa, người nào thành tựu năm pháp sau đây thì được nêu tội người khác. Ðó là: Không Thiên vị; không giận dữ; không sợ hãi; không ngu si và không vụ lợi. Người nào thành tựu năm pháp đó mà nêu tội người khác thì sau khi thân hoại mệnh chung được sinh vào đường Thiện, được các bậc phạm hạnh ca ngợi

Ðó gọi là cử (tội). 

VIỆC TRỊ PHẠT. 

Thế nào gọi là Trị phạt? 

- Người phạm tội Ba-la-di thì Tăng nên đuổi về làm người thế tục, hoặc làm Sa-di. Người phạm tội Tăng già bà thi sa, nếu che giấu thì Tăng cho pháp Ba-lợi-bà-sa, Ma-na-đỏa rồi xuất tội, nếu không che giấu thì hành Ma-na-đỏa rồi xuất tội. Người phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề thì phải đem vật đã cất ra xả bỏ giữa Tăng, rồi đến trước Tỉ-kheo trưởng lão trật vai áo bên phải, quỳ gối chắp tay, bạch như sau: 

- Thưa trưởng lão! Tôi đã cất y Thừa quá mười ngày, nay đem xả bỏ giữa chúng Tăngsám hối tội Ba-dạ-đề. 

Vị Tỉ-kheo thụ sám nên hỏi: 

- Thầy có thấy tội này không? 

- Dạ thấy. 

- Ðừng tái phạm nhé. 

- Tôi xin cúi đầu vâng giữ. 

Thế rồi Tăng làm yết-ma, giao y đó cho một người giữ, sau đó nên trả lại (chủ cũ). Còn phạm tội Ba-dạ-đề cho đến Việt-tì-ni thì cũng sám hối như thế. 

ÐUỔI ÐI. 

Gồm bảy trường hợp

1/ Hủy hoại tịnh hạnh của Ni; 
2/ Sống trong chúng để trộm pháp; 
3/ Lừa đảo
4/ Phạm ngũ nghịch
5/ Bất năng nam; 
6/ Phạm bốn tội Ba-la-di; 
7/ Sa-di có ác kiến

Ðó gọi là bảy việc nên đuổi đi. 

DỊ TRỤ (Phá Pháp luân Tăng). 

Khi Phật an trú tại thành Vương Xá, đã xảy ra vụ Ðề Bà Ðạt Ða phá Tăng, như ở trước đã nói rõ. Thế rồi, [443a] Ðề Bà Ðạt Ða đi đến Thành Già-da. Sau đó, Phật cũng đi tới thành Gia Da. Hôm ấy nhằm ngày Bố-tát, Phật bảo A-nan: 

- Ông đến gọi Ðề Bà Ðạt Ða về, hôm nay Tăng làm yết-ma Bố-tát. 

A-nan bèn đến đó, nói: 

- Thưa trưởng lão! Hôm nay Tăng làm yết-ma Bố-tát, đức Thế Tôn cho gọi Trưởng lão

Ðề Bà Ðạt Ða đáp: 

- Tôi không đến. Từ nay về sau tôi không sinh hoạt chung trong Phật pháp Tăng, không Bố-tát, Tự tứ, yết-ma chung. Từ nay về sau, đối với giới luật điều nào muốn học hay không muốn học đều do ý tôi quyết định

A-nan nghe nói thế, liền suy nghĩ: "Ðây là việc kỳ quái, thốt ra lời nói ác này lẽ nào không thương tổn đến Tăng?" 

Ðoạn, A-nan trở về, đem việc trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật nói với A-nan: 

- Ông hãy trở lại chỗ Ðềø Bà Ðạt Ða một lần nữa. 

Cho đến A-nan suy nghĩ: "Thật là kỳ quái, thốt ra lời nói ác này chẳng lẽ không tổn thương đến Tăng sao?". 

Sau khi A-nan trở về, nhóm sáu Tỉ-kheo bàn nhau: "Chắc chắn Sa-môn Cù-đàm sẽ sai sứ đến lần thứ ba. Tất cả chúng ta phải giữ chánh niệm Bố-tát trước. Chúng ta hãy để lại danh dự cho hậu thế biết rằng khi Phật còn tại thế mà Ðề Bà Ðạt Ða và nhóm sáu Tỉ-kheo đã cùng nhau phá Tăng", bèn thực hiện Bố-tát. A-nan liền đem sự việc ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật bảo

- Ông hãy trở lại lần thứ ba, bảo Ðề Bà Ðạt Ða đến, vì hôm nay Tăng làm yết-ma Bố-tát. 

A-nan liền đến đó, nói: 

- Ðức Thế Tôn gọi các vị. Hôm nay Tăng làm yết-ma Bố-tát. 

Họ đáp: 

- Chúng tôi không đi. Từ hôm nay trở đi, chúng tôi không sinh hoạt chung trong Phật pháp Tăng, không Bố-tát tự tứ và yết-ma chung. Từ nay về sau, đối với giới luật, điều nào muốn học hay không muốn học đều do ý tôi quyết định. Nhưng chúng tôi đã Bố-tát xong rồi. 

A-nan nghe thế, suy nghĩ: "Thực là kỳ lạ, thế là họ đã phá hoại Tăng thật rồi", bèn trở về, đem sự việc ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Ðức Thế Tôn nghe xong, bèn đọc kệ: 

"Thanh tịnh như trăng tròn, 
Thanh tịnh được Bố-tát. 
Thân khẩu nghiệp thanh tịnh
Thế mới nên Bố-tát". 

Ðoạn, Phật nói với A-nan: 

- Những người phi pháp đã Bố-tát xong, vậy những người như pháp nên Bố-tát. 

Khi ấy Ðề Bà Ðạt Ða phá Tăng, còn nhóm sáu Tỉ-kheo là bè đảng phá Tăng

Ðó gọi là Dị trụ. 

LUẬT MA HA TĂNG KỲ

Hết quyển thứ hai mươi sáu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11964)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11116)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11349)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12068)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12564)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10768)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17985)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11729)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9951)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10169)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12352)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15344)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14331)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12098)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15370)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12004)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11186)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10618)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14844)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12688)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19668)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13112)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12672)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12268)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11853)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10905)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13527)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11956)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11639)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14521)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13627)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12898)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9878)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11166)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9083)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12180)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12218)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11483)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14273)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19702)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14153)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24609)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant