KINH LĂNG GIÀ
TÂM ẤN
Thiền Sư Hàm Thị Sớ Giải
Hoà Thượng Thích Thanh Từ Việt Dịch
Thiền Viện Thường Chiếu
-Hỏi một trăm lẻ tám câu.
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ nói kệ tán Phật rồi, tự trình danh tánh, con tên là Đại
Huệ thông đạt được đại thừa, nay đem một trăm lẻ tám câu thưa hỏi bậc Tôn tối
thượng (Phật). Bồ-tát tự nói thông đạt đại thừa, vì muốn người đương thời và kẻ
hậu thế biết nghĩa hỏi ở đây đều là chỗ thiết yếu của nhất thừa, chẳng phải
nghĩa sai biệt của các thừa.
Bậc Thế gian giải (Phật) nghe kệ kia rồi, quán sát tất cả chúng, bảo các
phật tử rằng: “Phật tử các ông! Nay cho mặc tình hỏi, ta sẽ vì các ông nói cảnh
giới tự giác”.
Cảnh giới tự giác là chỗ chứng của chư Phật trong mười phương và ba đời.
Trong bốn quyển lặp đi lặp lại xét rõ trọn không ngoài ý này, nên trước vì nêu
bày ra.
Khi ấy, đại Bồ-tát Đại Huệ nhân lời Phật đã nói, đảnh lễ dưới chân Phật,
chắp tay cung kính dùng kệ hỏi rằng:
Thế nào tịnh niệm kia?
Thế nào niệm tăng
trưởng?
Thế nào thấy si hoặc,
Thế nào hoặc tăng
trưởng?
Thế nào hóa tướng cõi
Và các chúng ngoại đạo?
Cớ sao không thọ thứ,
Vì sao gọi vô thọ?
Niệm là vọng giác. Si hoặc là bất giác. Chân như không tánh bất giác vọng
động, kiến hoặc vừa sanh liền có vọng giác. Muốn sạch vọng giác thì phải tìm
tột chỗ khởi vọng giác. Muốn ngộ bất giác thì cần xét cùng chỗ sanh bất giác.
Chừng ấy mới biết chân như không tánh là mật chỉ của chư Phật, nên phải hỏi
trước. Cõi tức là cõi nước. Hóa tướng là tất cả tướng biến hóa trong lục đạo.
Trước nói ngoại đạo, sau đề ra Vô thọ, đó là muốn biện sự sai biệt của tà
chánh. Vô thọ là Mâu-ni tịch tĩnh, chẳng thọ một pháp, lìa các tướng trạng. Thứ
là thứ lớp các địa. Kinh Kim Cang nói “do pháp vô vi mà có sai biệt”.
Cớ sao gọi phật tử
?
Giải thoát đến chỗ nào,
Ai phược ai giải
thoát?
Những gì cảnh giới
thiền?
Tại sao có ba
thừa?
Cúi mong vì giải
nói.
Duyên khởi chỗ nào
sanh?
Thế nào tác, sở tác?
Thế nào đồng dị
thuyết?
Thế nào là tăng trưởng?
Thế nào vô sắc
định
Và cùng diệt chánh thọ
Thế nào là tưởng
diệt?
Vì sao từ định giác,
Thế nào tạo tác
sanh,
Tiến đi và giữ thân?
Thế nào hiện phân
biệt?
Thế nào sanh các địa?
Câu “giải thoát đến chỗ nào” là muốn hiển bày Mâu-ni tịch tĩnh, không có
phược và thoát; nên nói tiếp “ai phược ai giải”. Nói không có giải có phược là,
bởi mê ngộ vọng thấy mà thôi. Cảnh giới thiền là chỉ các thiền định của phàm
thánh. Duyên khởi là pháp do nhân duyên sanh ra. Tác, sở tác là nghiệp quả năng
tác và sở tác. Đồng dị thuyết là chỉ ngoại đạo tà thuyết. Tăng trưởng là nhân
gì tăng trưởng nhân quả trong tam giới? Vô sắc định là tứ không. Diệt chánh thọ
là diệt tận định. Tưởng diệt là vô tưởng định. Từ định giác là hỏi Như Lai vì
sao từ định mà giác (ra) khởi các tác dụng, thị hiện thân có đi có đứng. Hiện
phân biệt là, hiện nói các thứ pháp sai biệt. Sanh các địa là, kiến lập hành
tướng các địa.
Ai người phá ba cõi
Ở đâu, thân thế nào,
Vãng sanh đến chỗ
nào?
Thế nào Tối thắng tử?
Nhân gì được thần
thông
Và tự tại tam-muội?
Thế nào tâm
tam-muội?
Tối thắng vì con
nói.
Phá ba cõi là, chỉ chung cho hàng Tam thừa ra khỏi tam giới. Đã ra khỏi
tam giới, trụ ở chỗ nào, thọ những thân gì, vãng sanh đến chỗ nào. Nói thánh
nhân tam thừa đồng ra khỏi tam giới, song thân và cõi chẳng đồng, ứng và hóa
mỗi vị có khác. Tối thắng tử là chỉ chư Bồ-tát. Thần thông là sáu pháp thần
thông. Tam-muội dịch là chánh thọ (chánh định). Tâm tam-muội là tâm trụ trong
chánh định, cùng với pháp chánh định đồng hay khác.
Thế nào gọi là
tàng
Thế nào ý và thức?
Thế nào sanh cùng
diệt
Thế nào thấy rồi hoàn?
Thế nào là chủng
tánh
Phi chủng và tâm lượng?
Thế nào kiến lập
tướng
Và cùng nghĩa phi ngã,
Thế nào không chúng
sanh
Thế nào thế tục
thuyết?
Tàng là tàng thức. Ý là thức thứ bảy. Thức là thức thứ sáu và năm thức
trước. Sanh diệt là các căn thức hiện ra sanh diệt. Thấy là thấy được cái sanh
diệt. Hoàn là trở lại cái không thấy. Đồng một tâm này mà có riêng biệt là
tàng, ý và thức. Rồi có khác là thấy sanh diệt và thấy chẳng sanh diệt. Cái mê
ngộ hư vọng này thảy đều không thể có. Chủng tánh là tam thừa chủng tánh. Phi
chủng là không có chủng tánh, chỉ cho ngoại đạo và chúng xiển-đề. Tâm lượng là
đồng một tâm mà mỗi cái có chừng lượng vậy. Kiến lập tướng là tướng ngã. Nghĩa
phi ngã là tướng vô ngã. Chúng sanh là nói khác của tướng ngã. Tức là đối với
ngã và pháp vốn không có chúng sanh, mà đối với thế tục nói có đó là sao?
Thế nào là đoạn
kiến
Và thường kiến chẳng
sanh?
Tại sao Phật, ngoại
đạo
Tướng đó chẳng trái
nhau?
Thế nào đời sau
này
Có các thứ bộ khác?
Thế nào không, tại sao?
Thế nào hoại sát-na?
Đoạn và thường đều là tà kiến của ngoại đạo. Kiến chẳng sanh là chẳng
sanh hai kiến chấp này, tức là chánh pháp Như Lai. Phật cùng ngoại đạo tướng
chẳng trái nhau là, gồm vào một tâm bình đẳng mà nói vậy. Bộ khác là, sau khi
Phật diệt độ đệ tử kiết tập kinh bộ mỗi phần có khác. Nói một tâm bình đẳng,
Phật cùng ngoại đạo không khác, mà đệ tử trong pháp của Phật trở lại thấy có
khác, là sao? Không là các pháp tánh không. Hiện thấy các pháp mà nói không đó
là sao? Sát-na là niệm rất vi tế. Niệm niệm chẳng dừng, sát-na chẳng trụ, không
phải chỗ biết của người vô trí.
Thế nào thai tàng
sanh?
Thế nào thế bất động?
Nhân gì như huyễn
mộng
Và thành càn-thát-bà
Thế gian thấy sóng
nắng
Cùng bóng trăng đáy
nước?
Bởi đâu nói giác
chi
Và cùng bồ-đề phần?
Thế nào quốc độ
loạn?
Thế nào khởi thấy có?
Thai tàng sanh là thân phần đoạn sanh tử của chúng sanh. Thế bất động là
cõi nước hằng dời đổi mà chân tánh vẫn thường trụ. Huyễn, mộng, thành
càn-thát-bà, sóng nắng, trăng đáy nước, thảy đều dụ cho chúng sanh cùng thế
giới không thật. Nhân gì như, ấy là chúng sanh sanh tử thế giới đổi dời, rõ
ràng hiện tiền, mà nói như mộng huyễn… ai sẽ giác biết? Giác chi, bồ-đề đều chỉ
cho chánh trí, tức là giác ngộ thế gian mộng huyễn. Quốc độ loạn là quốc độ dời
đổi. Khởi thấy có là, quốc độ dời đổi mà chúng sanh vô trí vọng thấy thật có.
Sao mà giác mê xa nhau lắm vậy?
Thế nào chẳng sanh diệt
Thế như hoa trong không?
Thế nào giác thế
gian?
Thế nào nói lìa tự (văn
tự)?
Lìa vọng tưởng là
ai?
Thế nào ví hư không?
Có mấy thứ như thật?
Mấy tâm ba-la-mật?
Nhân đâu qua các
địa?
Ai đến không chỗ thọ?
Chẳng sanh diệt, hoa trong không, đều chỉ thế gian mà nói. Thế gian vốn
chẳng sanh diệt mà dối thấy sanh diệt. Vốn như hoa trong không mà dối thấy thật
có. Thế là phải đợi đến khi giác ngộ mới thấy. Giác thế gian là giác thế gian
này chẳng sanh diệt như hoa trong không. Đã giác thế gian liền rõ như huyễn,
chẳng rơi vào có không, không phải nói năng có thể đến, nên nói lìa văn tự. Nói
năng đã lìa thì phân biệt liền dứt. Tất cả pháp ví như hư không, thấy cội gốc
thật tướng được đến bờ kia. Trải khắp các địa đến nơi vô thọ. Đây có thể thứ
lớp chứng biết, mà vì muốn Thế Tôn hiển bày rành rẽ. Có mấy thứ như thật là,
chứng được chân như hàng tam thừa có mấy hạng sai biệt. Mấy tâm ba-la-mật là,
được qua sanh tử cũng phân có tam thừa.
Những gì hai vô
ngã?
Thế nào tịnh sở tri?
Các trí có mấy
thứ?
Mấy thứ giới chúng sanh?
Ai sanh các tánh
báu,
Chân châu ma-ni thảy?
Ai sanh các ngữ
ngôn?
Chúng sanh các thứ tánh?
Trong hai thứ vô ngã, pháp vô ngã rất vi tế, nên lặp lại nói sở tri. Sở
tri là sở tri chướng, thuộc về pháp chấp. Trí có căn bản trí, sai biệt trí.
Giới có giới Tỳ-kheo, giới Bồ-tát. Ma-ni là tánh báu thuộc khí thế gian (thế
giới). Ngữ ngôn là chủng tánh thuộc về chúng sanh thế gian (chúng sanh). Trong
lời hỏi, hoặc hỏi khí thế gian, hoặc hỏi chúng sanh thế gian, hoặc hỏi xuất thế
gian, hoặc Phật, hoặc đệ tử Phật, hoặc ngu, hoặc ngoại đạo, trước sau không
nhất định, một lúc lẫn lộn chẳng cần chia loại, chỉ tùy lời nói nhận được nghĩa
thôi. Cần biết thảy từ một chân pháp giới, vọng thấy có sai biệt, như huyễn
không thể nghĩ bàn.
Minh xứ và kỹ
thuật.
Người nào đã hiển bày?
Già-đà có mấy
thứ,
Trường tụng và đoản cú?
Có mấy thứ lý
luận,
Thế nào gọi là luận?
Tại sao sanh ăn uống?
Và sanh các ái dục?
Thế nào gọi là
vua
Chuyển luân và tiểu
vương?
Thế nào thủ hộ
quốc
Chư
thiên có mấy thứ?
Thế nào gọi đại
địa
Tinh tú và nhật nguyệt?
Người tu hành giải
thoát
Mỗi bậc có mấy thứ?
Đệ tử có mấy
thứ?
Sao là A-xà-lê?
Phật lại có mấy
bậc,
Lại có mấy bản sanh?
Minh xứ là ngũ minh: 1) Thanh Minh, 2) Công xảo minh, 3) Y phương minh,
4) Nhân minh là khảo đính tà chánh, 5) Nội minh nói rành rẽ về năm thừa. Ba
minh trước là ngoại luận. Hai minh sau thuộc nội luận (nội điển). Già-đà dịch
là kệ. Trường tụng đoản cú đều là kinh nói. Lý là lý nói ra. Luận là riêng giải
thích nội điển và ngoại điển. Đây là hỏi nói pháp phải có bao nhiêu thứ. Ăn
uống, ái dục, vua, chư thiên, đại địa, tinh tú, nhật, nguyệt, tổng hỏi về danh
tướng hai thứ thế gian chúng sanh và thế giới. Tu hành, đệ tử, Xà-lê, Phật, bản
sanh là danh tướng sai biệt của xuất thế gian. Tu hành là thông tam thừa. Đệ tử
là gồm Bồ-tát và Thanh văn. Xà-lê dịch là quỹ phạm (mẫu mực). Có năm thứ quỹ
phạm. Bản sanh là Như Lai nhiều đời tu hành cho đếân thành Phật, những việc
hiện sanh.
Ma và các ngoại
đạo
Kia mỗi loại mấy thứ?
Tự tánh và cùng
tâm
Mỗi cái bao nhiêu thứ?
Thế nào thi thiết
lượng?
Cúi mong Tối thắng nói
Thế nào không, gió,
mây?
Thế nào niệm thông minh?
Thế nào là rừng
cây,
Thế nào là cỏ rậm?
Thế nào voi, ngựa,
nai,
Thế nào là bắt lấy?
Thế nào là thấp
hèn,
Nhân gì mà thấp hèn,
Thế nào nhiếp lục
tiết?
Thế nào nhất-xiển-đề?
Nam nữ và hoàng
môn
Đây đều nhân đâu sanh?
Tánh cùng tâm đều chỉ cho căn dục của chúng sanh. Thi thiết lượng là tâm
tánh chừøng lượng giả vì thi thiết. Niệm thông minh là thế trí biện thông.
Nhiếp lục tiết là ở Tây vức cho hai tháng làm một tiết, một năm phân làm sáu
tiết. Nhất-xiển dịch là tín. Đề dịch là bất cụ. Nghĩa là lòng tin chẳng đủ. Đây
cũng là hỏi danh tướng sai biệt của chúng sanh và khí thế gian.
Thế nào tu hành
thối?
Thế nào tu hành sanh?
Thiền sư dùng pháp
gì,
Kiến lập những người
nào?
Chúng sanh sanh các
cõi
Tướng gì và loại gì?
Tu hành có tiến có thối. Sanh tức là tiến. Pháp của thiền có đốn tiệm
chẳng đồng. Bởi căn cơ người lớn nhỏ chẳng phải một. Đây là sự sai biệt của
xuất thế gian. Các cõi là sáu đạo và bốn sanh. Tướng loại là tướng loại của các
cõi. Chúng sanh thế gian huyễn vọng tự chia nhiều lối.
Thế nào là tài
phú,
Nhân gì được tài phú?
Thế nào là Thích
chủng,
Nhân gì có Thích chủng,
Thế nào dòng Cam
Giá?
Vô thượng tôn xin nói.
Thế nào trường khổ
tiên,
Kia dạy bảo những
gì?
Như Lai tại vì
sao,
Hiện tất cả thời, cõi,
Các thứ loại danh
sắc,
Tối thắng tử vây quanh?
Tại sao chẳng ăn
thịt,
Tại sao cấm ăn thịt,
Ăn thịt bao chủng
loại,
Nhân gì nên ăn thịt?
Đây vẫn hỏi sự sai biệt của thế và xuất thế gian. Thích chủng, dòng Cam
Giá, bởi quá khứ rất xa, khi ấy có một Bồ-tát làm thái tử trong nước, nhường
ngôi cho em đi tu, theo học với Cù-đàm Bà-la-môn liền đổi họ làm Cù-đàm. Sau
trở về ngoài thành ở tinh xá tại vườn Cam Giá, bị nạn giặc bắt làm thương tổn,
máu chảy đầy đất. Đại Cù-đàm dùng thiên nhãn xem thấy, dùng thần túc đến vườn
Cam Giá, lấy máu đựng trong hai cái bình để bên phải bên trái. Chúc rằng: Đạo
sĩ này nếu tâm chí thành sẽ khiến máu biến thành người. Mười tháng sau, hai cái
bình đựng máu một biến thành người nam, một biến thành nữ, bèn thành dòng Cam
Giá. Về sau thứ phi vua Ý Ma sanh bốn con được chánh hậu khen ngợi. Vua đuổi
bốn con ra khỏi nước ở trên núi Tuyết trong rừng Trực thọ. Mẹ bốn vị ấy tìm
đến, vì mỗi người lập gia đình cho đều được xong xuôi. Vua nghe tin này rất vui
vẻ, nói rằng: Đây thật là Thích tử, khéo tự lập tự tồn, nhân đó gọi là Thích.
Thích dịch là năng, nghĩa là có tài năng. Người con thứ tư tên Trang
Nghiêm tức là tổ tiên vua Bạch Tịnh. Tất cả thời cõi là tất cả thời, tất cả
cõi, tùy loại khắp hiện.
Thế nào hình nhật
nguyệt,
Tu-di và Liên Hoa,
Cõi Sư tử thắng tướng,
Thế giới nghiêng, đứng,
úp,
Như lưới trời Đế
Thích,
Hoặc thảy đều trân bảo,
Như đàn, trống lưng
eo,
Dáng tợ các loại hoa,
Hoặc lìa sáng nhật
nguyệt.
Như thế thảy vô lượng?
Tu-di là núi Diệu cao, trùm bốn thiên hạ làm một thế giới. Liên hoa là
thế giới Liên hoa tạng. Sư tử là thế giới đẹp nhất trong các thế giới. Thế giới
có cái nghiêng, có cái úp, gồm các thế giới đẹp và xấu như lưới trời Đế
Thích. Vì lưới trời Đế Thích có một ngàn hạt châu, mỗi hạt châu chiếu sáng xen
nhau, ý nói vô tận. Nhật nguyệt, cây đàn, trống lưng eo, hoa trái đều là diễn
tả hình tướng của thế giới. Trân bảo là có thế giới do trân bảo làm thành. Lìa
sáng nhật nguyệt là thế giới Vô Cấu Quang Minh, chẳng nhờ ánh sáng nhật,
nguyệt.
Thế nào là hóa
Phật?
Thế nào báo sanh Phật?
Thế nào như như
Phật?
Thế nào trí tuệ Phật?
Tại sao ở Dục giới
,
Chẳng thành Đẳng
Chánh Giác?
Vì sao Sắc cứu
kính,
Lìa dục được bồ-đề?
Thiện thệ vào
Niết-bàn
Ai người giữ chánh pháp?
Thầy trời trụ bao
lâu?
Chánh pháp trụ chừng
nào?
Tất-đàn cùng với
kiến
Mỗi loại bao nhiêu thứ?
Phần Tỳ-ni
Tỳ-kheo
Thế nào nhân duyên gì?
Các Tối thắng tử
kia
Duyên Giác và Thanh văn
Nhân gì trăm biến
dịch?
Thế nào trăm vô thọ?
Hoá Phật là hóa thân trăm ngàn muôn ức, đây là tùy loại hóa hiện. Đại hóa
là thân ngàn trượng Lô-xá-na vì hàng Bồ-tát thập địa mà hiện, cũng gọi là tha
báo thân. Như như, trí tuệ đều chỉ cho pháp thân. Như như là bản giác, trí tuệ
là thủy giác. Đây là tự báo,vì thủy giác bản giác hiệp một, lý và trí cả hai
đều dung thông. Lô-xá-na trên cõi trời Sắc cứu kính được đạo bồ-đề, chớ không ở
Dục giới. Đó là vì thị hiện lìa dục được thanh tịnh. Ai người giữ chánh pháp là
những căn dục nào mới kham truyền giữ chánh pháp. Chư Phật ở đời, chánh pháp ở
đời mỗi phần đều có nhân duyên gần xa và tự tha. Tất là khắp. Đàn là thí. Kiến
là chỉ căn cơ bị giáo hóa. Nghĩa là Như Lai đem giáo pháp khắp thí cho các căn
cơ chúng sanh kia, cộng lại có bốn thứ:
Thế giới tất-đàn là được
lợi ích hoan hỷ.
Đối trị tất-đàn là được
lợi ích diệt ác.
3- Vị nhân tất-đàn là
được lợi ích sanh các pháp lành.
4- Đệ nhất nghĩa
tất-đàn là được lợi ích ngộ lý.
Tỳ-ni dịch là luật, Tỳ-kheo là người trì luật. Nhân duyên là nhân duyên
kiết giới. Trăm biến dịch, trăm vô thọ, đây là nói sự sai biệt của Bồ-tát,
Duyên giác và Thanh văn. Biến dịch là biến dịch sanh tử, vì chưa đến quả vị
Phật vẫn còn ở phương tiện đổi thân thô thành thân diệu. Vô thọ là Vô dư
Niết-bàn, người hàng Tam thừa đều chứng.
Thế nào là thế tục
thông?
Thế nào xuất thế gian?
Thế nào là thất
địa?
Cúi mong vì diễn nói.
Tăng già có mấy
loại?
Thế nào là hoại tăng?
Thế nào luận y
phương,
Ấy lại nhân duyên
gì?
Bậc Bồ-tát Ngũ địa vào thế tục lợi sanh gọi là thế gian thông. Đến hàng
Thất địa nhân sanh đều hết mới gọi là xuất thế. Tăng có Đại thừa và Nhị thừa.
Hoại tăng là phá luật phá kiến vậy. Phật dụ lương y, để nói Như Lai tùy duyên
hóa hiện, hợp bệnh cho thuốc, như lương y thế gian.
Cớ gì đại
Mâu-ni
Nói lên như thế này:
Ca-diếp,
Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm là ta?
Cớ sao nói đoạn
thường
Và cùng ngã vô ngã?
Sao không tất cả
thời
Diễn nói nghĩa chân thật
Mà lại vì chúng
sanh
Phân biệt nói tâm lượng?
Nhân đâu rừng nam
nữ
Ha-lê, A-ma-lặc,
Kê-la và Thiết
Vi,
Kim Cang thảy các núi
Vô lượng bảo trang
nghiêm
Tiên Đạt-bà đầy dẫy?
Ca-diếp, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm là ta, nghĩa là xưa nay tự tha không có
tướng một hai, đó là lời nói chân thật. Mà lại nói thường nói đoạn, nói ngã nói
vô ngã, rộng vì chúng sanh phân biệt nói tâm lượng, đều vì căn có đại tiểu,
pháp có tà chánh. Đoạn, thường, ngã đều chỉ cho ngoại đạo. Vô ngã chỉ cho Nhị
thừa. Rừng nam nữ tức là rừng Thi-đà, rừng này cây sanh trái dáng giống như nam
nữ. Ha-lê, A-ma-lặc là tên hai thứ trái cây. Đây tức là cây trái hiện tiền. Suy
ra đến các núi Kê-la, Thiết Vi, Kim Cang có vô lượng trang nghiêm, tất cả tiên
thần đều đầy dẫy trong ấy. Tột trong chỗ thấy nghe và ngoài chỗ thấy nghe do
nhân gì mà có, trọn gọi là gì? Chỗ này không thể dùng tâm ý mà hiểu được. Mới
biết một trăm lẻ tám câu cùng tột thế gian và xuất thế. Song chẳng ngoài năm
pháp, ba tự tánh, tám thức và hai vô ngã. Bỗng nhiên gõ thẳng cửa chân. Bất
chợt chỉ điểm tục đế dường như không thứ lớp, đều tự tâm hiện ra. Cảnh giới như
huyễn bất tư nghì không có cạn sâu thì đâu phân khó dễ, chỉ chứng mới biết.