Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Chương Thứ Nhất

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12820)
1. Chương Thứ Nhất
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

 

 

Chương thứ nhất

Tự luận

Tiết thứ nhất

 Tinh hoa của Phật giáo Đại thừa

Tịnh độ giáo thừa nhận sự tồn tại các Đức Phật và cõi nước thanh tịnh của chư Phật an trú, chúng sanh vãng sanh về cõi nước của các Ngài tiếp nhận sự giáo hóa của Đức Phật, có thể mau chóng thành tựu Phật đạo; đây là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa. Tóm lại, mười phương thế giới đều có các Đức PhậtTịnh độ của các Ngài tồn tại, đây là quan niệm phổ thông của Phật giáo Đại thừa. Bắt đầu từ kinh Bát-nhã đến các kinh A-súc, Vô Lượng Thọ, Hoa nghiêm, Pháp hoa, Bảo tích, Niết-bàn v.v… trong các kinh điển Đại thừa đều có nói như thế. Trong Phật giáo Đại thừa, trước hết bồ-tát phải phát thệ nguyện lớn nghiêm tịnh cõi nước Phật, bồ-tát nào cũng tịnh hóa cõi nước mình cư trú. Vì thế, kiến thiết cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm là qui định chung của việc thành Phật. Đó là dựa vào thệ nguyện thanh tịnh cõi nước Phật mà tinh tiến tu hành để được thành Phật, nghĩa là đem các thệ nguyện rộng lớn đã tu từ thuở quá khứ đến hiện tại để trang nghiêm cõi Phật của mình. Đương nhiên, cũng không ít người giác ngộ trước kia đã đạt được nguyện vọng ấy, cho nên đưa đến kết quả là Phật giáo Đại thừa nói mười phương thế giới xuất hiện vô lượng các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng. Như thế là đã khẳng định sự tồn tại của các Đức Phật, đồng thời cổ xúy sự trang nghiêm, an lạc, thanh tịnh của cõi Phật. Nói chung, đạo tục đều cho đây là cõi nước an vui lí tưởng, sanh về cõi nước ấy bản thân mình tiếp nhận sự giáo hóa của Đức Phật, rất mong thấm nhuần niềm vui Phật pháp cũng là lẽ tất nhiên. Vì thế, nguồn gốc của pháp môn vãng sanh Tịnh độ là do sự phát triển của giáo lí thanh tịnh cõi nước Phật. Nói một cách khẳng định, giáo lí Tịnh độtinh hoa của Phật giáo Đại thừa.

Tiết thứ hai

Sự thành lập kinh điển

Hầu hết kinh điển Phật giáo là do các đại đệ tử Ma-ha Ca-diếp, A-nan v.v… kết tập sau khi Phật diệt độ không bao lâu, từ xưa đến nay mọi người đều tin chắc rằng kinh điển Phật giáo là do chính Đức Phật tuyên thuyết. Nhưng theo kết quả nghiên cứu thời gian gần đây, rất tiếc là đã phủ nhận điều này, ngọai trừ một số ít kinh điển ra, còn phần lớn kinh điển đều được lần lượt biên tập dần dần vào đời sau. Trong số đó, kinh điển Đại thừa đến mấy trăm năm sau Phật diệt độ mới được hoàn thành. Hoặc nói có một số ít kinh điển được biên tập lúc đầu, về sau tìm hiểu đến thời đại của chúng, mới biết có nhiều kinh điển Đại thừa lần lượt xuất hiện ở đời. Tuy vậy, nhưng vẫn cho rằng các kinh điển Đại thừa này được thành lập là do căn cứ vào những lời thuyết pháp của Đức Phật mà thành. Sau khi trải qua sự khảo sát triệt để, phát huy đúng tinh thần của nó thì thấy rằng sự thật vẫn là những lời của Đức Phật nói.

Trong phẩm Vô tự tính tướng trong kinh Giải thâm mật có nói về ba thời thuyết pháp Hữu, Không, Trung như sau : “Một thuở nọ, lần đầu tiên Đức Thế Tôn ở trong rừng Thí Lộc, nơi tiên nhân bị đọa thuộc nước Ba-la-nê-tư, chỉ vì người hướng về thanh văn thừa mà chuyển chính pháp luân tứ đế. Tuy rất đặc biệt, rất hi hữu, tất cả hàng trời, người trong thế gian trước đây không ai có thể chuyển được pháp luân như thế. Nhưng pháp luân được chuyển lúc ấy còn có pháp cao vượt hơn nó, đây là pháp chưa liễu nghĩa, là pháp còn có chỗ để tranh luận. Xưa kia, Đức Thế Tôn trong thời pháp thứ hai chỉ vì người phát tâm tu pháp Đại thừa y cứ vào tất cả pháp đều vô tự tính, vô sanh, vô diệt, xưa nay vốn tịch tịnh, tự tính niết-bàn để chuyển chính pháp luân ẩn mật. Tuy rất kì đặc, rất hi hữu, nhưng pháp luân được chuyển lúc ấy cũng là pháp còn có pháp cao vượt hơn nó, vẫn chưa phải là pháp liễu nghĩa, còn có chỗ để tranh luận. Đến thời pháp thứ ba này, Đức Thế Tôn vì những người hướng đến tất cả thừa, y cứ tất cả pháp đều vô tự tính, vô sanh, vô diệt, xưa nay vốn tịch tịnh, tự tính niết-bàn, để chuyển chính pháp luân hiển liễu, kì đặc bậc nhất, hi hữu hơn hết. Hôm nay, Đức Thế Tôn đã chuyển pháp luân không có pháp nào cao vượt hơn, là pháp thật sự liễu nghĩa, chẳng còn chỗ để tranh luận.” ( Đại Chính, 16, 697, thượng).

Đây là theo quan điểm cho rằng Đức Thế Tôn đầu tiên nói Hữu trong kinh A-hàm; thời thứ hai nói Không trong kinh Bát-nhã; thời thứ ba nói Trung Đạo trong kinh Giải thâm mật. Nhưng đã ám chỉ sau Phật diệt độ khoảng bốn, năm trăm năm là thời đại A-hàm đầu tiên, kế đó khoảng hai, ba trăm năm sau là thời kì thứ hai Bát-nhã hưng thịnh; sau cùng thời kì thứ ba tức là thời đại kinh Giải thâm mật phát triển mạnh mẽ.

 

Tiết thứ ba

Sự xuất hiện của kinh Bát-chu Tam-muội

Các Đức Phật hiện tại xuất hiện trong mười phương được sùng bái sớm nhất có lẽ là hai vị Phật A-di-đà và A-súc. Trong đó, sự tích Phật A-di-đà được ghi chép trong kinh Bát-chu tam-muội, còn sự tích Phật A-súc được ghi chép trong kinh Đạo hành bát-nhã kinh A-súc Phật quốc; cả ba kinh này đều do ngài Chi-lâu-ca-sấm dịch vào đời Hậu Hán, chứng tỏ tín ngưỡng này đã được lưu hành ở đời từ thế kỉ thứ II trở về trước. Tìm hiểu về niên đại sớm nhất tất nhiên rất khó đoán định. Nhưng trong phẩm Thụ quyết của kinh Bát-chu tam-muội quyển trung, Đức Phật đã huyền kí rằng: “Sau khi Ta bát nê-hoàn, tam-muội này sẽ tồn tại bốn mươi năm; sau đó không còn hiện hữu. Vào thời loạn li sau này, lúc kinh Phật sắp diệt, các tì-kheo không còn vâng theo lời Phật dạy. Sau đó, trong thời loạn li các nước đánh nhau, lúc ấy tam-muội này sẽ xuất hiện lại ở cõi Diêm-phù-đề.” (Đại Chính,13, 911, thượng). Pháp Bát-chu tam-muội này, sau Phật diệt độ được lưu hành ở đời bốn mươi năm, sau đó ẩn mất. Về sau đời loạn li, các nước đánh nhau, lúc kinh Phật đoạn tuyệt, kinh này xuất hiện lại ở thế gian, điều này ám chỉ niên đại biên tập kinh này.

Đồng bản dị dịch với kinh này là phần Hiền Hộ trong kinh Đại phương đẳng đại tập quyển 3 ghi: “ Bạch Đức Thế Tôn! Trong một trăm năm cuối của năm trăm năm sau Phật diệt độ, lúc sa-môn điên đảo, lúc chính pháp sắp diệt, lúc chính pháp bị phỉ báng, lúc phi pháp lộng hành, lúc chúng sanh trược loạn, lúc các nước đánh nhau. Vào thời điểm đó, chúng con sẽ đem kinh Tam-muội này truyền bá ở Diêm-phù-đề.” ( Đại Chính,13, 884, trung). Điều này ứng hợp với thời điểm một trăm năm cuối của năm trăm năm sau Phật diệt độ.

Đại khái, trong kinh nói lúc đời li loạn, các nước đánh nhau chắc là chỉ cho thời đại sau khi vua A-dục băng hà, thiên hạ loạn li, cũng tức là chỉ cho các sự thật lịch sử khoảng thời gian 180 trước Công nguyên, tổ của vương triều Huân-ca (Sunga) Bổ-sa-mật-đa-la (Pusyamitra) hưng khởi, vương triều Khổng Tước (Maurya) diệt vong, Phật giáo ở các vùng Ma-kiệt-đà, Ca-thấp-di-la bị phá hoại khốc liệt. Vụ việc vua Bổ-sa-mật-đa-la phá hoại Phật pháp đươc ghi chép trong Tạp A-hàm quyển 25, A-dục vương truyện quyển 3, luận Đại Tì-bà-sa quyển 125 v.v… đều là những sự thật nổi tiếng. Nếu đúng là chỉ cho việc này thì thời điểm biên tập kinh Bát-chu tam-muội có lẽ là giữa thế kỉ II trước công nguyên.

Kinh Bát-chu Tam-muộikinh Đạo hành bát-nhã quyển 6 đều ghi: “ Có kẻ ngu si nói: ‘Những kinh này chẳng phải Phật nói’ ”. Phỉ báng kinh điển Đại thừa là do ma làm ra, chẳng đáng tín nhiệm. Đây là lúc kinh điển Đại thừa mới xuất hiện ở đời, các giáo đồ tin nhận giáo pháp Tiểu thừa bài xích Đại thừa chẳng phải do Phật nói, là chuyện thường thấy. Chẳng những như thế, ngay đầu thời đại vương triều Huân-ca, trên lan can của tháp Sanchi và tháp Bharhut đã thấy các phù điêu khắc hơn hai mươi hình về Bản sanh đàm như tiên nhân Thiểm, thái tử Tu-đại-noa, nai chín màu, vua khỉ v.v… Dựa vào đây, chúng ta có thể biết lúc đó tư tưởng bồ-tát hạnh đã thịnh hành. Do đó, thời đại này phát sanh thuyết chúng sanh tự giác có khả năng thành Phật. Tiếp theothành lập giáo lí tịnh cõi nước Phật, sanh ra thuyết hiện tại mười phương chư Phật xuất hiện. Đặc biệtcăn cứ vào sự tu trì của pháp Bát-chu tam-muội có thể ở trong định thấy Phật A-di-đà và mười phương chư Phật. Do đây, chúng ta có thể tưởng tượng kinh Bát-chu tam-muội này được các tín đồ Đại thừa thời kì đầu hết sức chú trọng.

Tiết thứ tư

Sự truyền bá tín ngưỡng Di-đà

Tín ngưỡng Phật A-di-đà được lưu hành rất sớm ở Ấn Độ và vùng Tây Vực (Trung Á), riêng ở Trung Quốc từ đời Hậu Hán trở về sau các kinh điểnliên quan đến Phật A-di-đà và cõi nước của Ngài không ngừng tiếp nối nhau được phiên dịch nhiều đến hơn hai trăm bộ. Chẳng những như thế, trong kinh Huệ ấn tam-muội ghi: “Đệ nhất phu nhân của vua Bình-sa tên Bạt-đà-tư-lị (mẹ vua A-xà-thế) về sau được sanh làm người nam ở cõi nước Tu-ha-ma-đề (An Lạc) được thấy Phật A-di-đà.”. Kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Bà Vi-đề-hi nguyện vãng sanh Tây phương”. Kinh Đại bi, quyển 2 ghi: “Tì-kheo Kì-ba-ca ở Bắc Thiên Trúc tu tập vô lượng các thứ thiện căn bồ-đề thù thắng, khi mạng chung sanh về nước Vô Lượng Thọ ở phương Tây”. Kinh Đại pháp cổ quyển thượng ghi: “Trong hơn tám mươi năm sau, Phật nhập niết-bàn chính pháp sắp diệt, đồng tử dòng Li-xa tên Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến trì niệm danh hiệu Phật chẳng màng đến thân mạng, tuyên dương kinh này, thọ mãn trăm tuổi sanh về nước An Lạc.” Kinh Văn-thù sư-lợi phát nguyện có nói: “Văn-thù-sư-lợi diện kiến Phật A-di-đà, phát thệ vãng sanh về nước An Lạc.” Phẩm Phổ hiền hạnh nguyện, kinh Hoa nghiêm quyển 40 có ghi bồ-tát Phổ Hiền cầu vãng sanh về nước An Lạc.

phẩm Dị hành trong luận Thập trụ tì-bà-sa, ngài Long Thọ đưa ra thuyết “xưng danh bất thoái” dùng ba mươi hai hàng kệ tán thán Phật A-di-đà. Kinh Nhập lăng-già quyển 9 có ghi lời huyền kí, ngài Long Thọ xuất thế tại một nước lớn ở Nam Thiên Trúc, phá hai kiến chấp hữu vô, thuyết pháp Đại thừa vô thượng, chứng đắc Hoan hỉ địa, vãng sanh về nước An Lạc. Mọi người đều công nhận do ảnh hưởng của ngài mà hình thành tín ngưỡng Tịnh độ Di-đà… Trong quyển Lịch sử Phật giáo Ấn Độ của Taranatha ghi: “Đệ tử của Đề-bà là La-hầu-la Bạt-đà-la quán thấy Phật Vô Lượng Quangvãng sanh thế giới Cực Lạc.” Việc này, nếu là sự thật thì có thể nói là do sự cảm hóa của ngài Long Thọ. Trong Long Thọ bồ-tát khuyến giới vương tụng do ngài Nghĩa Tịnh đời Đường dịch, ghi: Ngài Long Thọ đã từng gửi thư khuyên vua Satavahana của vương triều Andhra Nam Ấn Độ. Cuối thư có bốn câu kệ:

Sinh lão bệnh tử, ba độc trừ

Sinh về cõi Phật gặp từ phụ

Thọ mạng lâu dài đến vô lượng

Đồng Đấng Đại giác A-di-đà.

Do đó, chúng ta có thể biết ngài Long Thọ khuyên nhà vua vãng sanh về cõi nước của Phật Vô Lượng Thọ.

Kinh Đại phương đẳng vô tưởng quyển 6 ghi: “Bảy trăm năm sau, Phật diệt độ, trong nước Vô MinhNam Thiên Trúc có nữ vương Tăng Trưởng hộ trì chính pháp, về sau chuyển thân nữ, vãng sanh về cõi nước của Phật Vô Lượng Thọ.”. Nhưng chỗ này nói nước Vô Minh, tên nước Andhra gần với từ Andra của Phạn ngữ có nghĩa mắt mù, có thể đây là do dịch lầm. Do vậy, nước Vô Minh tức chỉ nước Andhra, đồng thời vương nữ Tăng Trưởng cùng với vua Satavahana đều sanh vào niên đại bảy trăm năm sau Phật diệt độ, vì nhà vua này thụ nhận sự cảm hóa của ngài Long Thọ mà cầu sanh về cõi nước của Phật Vô Lượng Thọ.

Trong luận Cứu cánh nhất thừa bảo tính quyển 4 của ngài An Huệ có kệ hồi hướng: “Nguyện đến lúc mạng chung, thấy Phật Vô Lượng Thọ.”. Cho thấy ngài cũng là một người nguyện sanh Tây phương. Bồ-tát Thế Thân soạn Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá cổ xúy tín ngưỡng Di-đà, nguyện chúng sanh cùng vãng sanh về nước An Lạc. Kế đó, Mật giáo xiển dương thường đề cao đến công đức của thần chú A-di-đà v.v… Vì thế, họ cũng biên soạn nhiều kinh quỹ; ngoài việc đời vị lai vãng sanh mà đời hiện tại cũng được phúc đức. Ở Trung Quốc sự sùng bái Di-đà rất phổ biếnthịnh hành. Do đó, các tác phẩm văn hóaliên quan đến tín ngưỡng Di-đà như viết sách và tạo tượng được bảo tồn cũng nhiều. Pháp môn Tịnh độ lưu hành tại Nhật Bản cũng rất sớm, đặt biệt ngài Pháp Nhiên y cứ vào bản nguyện của Di-đà phát huy đến chỗ cùng tột, dựng lên một phong trào làm cho mọi người hướng về niềm tin Tịnh độ; do đó, giáo học về Tịnh độ phát triển mà trước đó chưa từng có.

 

Tiết thứ năm

Phạm vi trình bày của sách này

Do vì giáo học Tịnh độ quá rộng nên cần phải lấy việc nghiên cứu về lí luận và phương pháp tu hành thực tiễn của Tịnh độ làm mục đích. Nhưng vì các văn hiến về Tịnh độ của chư Phật khác chưa đầy đủ lắm. Vả lại, đại đa số nhân dân Trung QuốcNhật Bản đều lấy Phật A-di-đà làm đối tượng tín ngưỡng; vì thế, hiện nay lấy Phật A-di-đà và Tịnh độ của ngài làm luận đề chủ yếu, nên thử trình bày khái quát. Ngoài ra, còn có Tịnh độ được gọi là Thượng sanh Đâu-suất, nghĩa là lấy cõi trời Đâu-suất, nơi cư trú của bồ-tát Di-lặc làm tín ngưỡng cũng rất thịnh hành, ở Ấn Độ bắt đầu từ các ngài Bà-tu-mật, Di-đố-lộ-thi-lợi, Tăng-già-la-sát. Theo truyền thuyết các ngài Vô Trước, Sư Tử Giác đều nguyện sanh lên cõi trời này. Tại Trung Quốc, từ đời Phù Tần có ngài Đạo An, đời Đường có ngài Huyền Trang, Khuy Cơ v.v…tuyên dương tư tưởng ấy. Ở Nhật Bản có các ngài Minh Thuyên, Chân Hưng, Trinh Khánh, Cao Biện v.v…cũng đều nguyện sanh lên Đâu-suất. Mặc dù có thể nói đây là một tông phái lưu hành đồng thời với nguyện vãng sanh về Tây phương, nhưng đó là một loại vị lai giáo; vả lại, Đâu-suất cũng chẳng phải là Tịnh độ ‘nhân nguyện quả thành’. Lại nữa, Di-lặc là bồ-tát Bổ xứ đương lai, tạm thời cư trú tại cõi trời Đâu-suất, hoàn toàn bất đồng với tư tưởng Tịnh độ Phật A-di-đà; do đó, sách này chưa đề cập đến.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188684)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43800)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25033)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30802)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21022)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38741)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27360)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31085)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33095)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23954)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16965)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20500)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31896)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18079)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20539)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27013)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18040)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25545)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26629)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36577)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28044)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27277)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30319)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37092)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37243)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23862)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32274)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55126)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36899)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27562)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28296)
Công Phu Khuya
(Xem: 37938)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25394)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24125)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11223)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14493)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10621)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant