Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Chương Thứ Hai

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12535)
2. Chương Thứ Hai
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ


Chương thứ hai

 Luận về khả năng thành Phật của chúng sanh và thuyết mười phương chư Phật xuất hiện

Tiết thứ nhất

Phật Thích-ca Mâu-ni

Về mặt lịch sử nhân loại mà nói thì người được gọi là Phật chỉ có một Đức Phật là Phật Thích-ca Mâu-ni. Đức Thích Tôn đản sanh cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm tại nước Ca-tì-la ở Ấn Độ, Ngài là thái tử của nước ấy. Vì cầu pháp giải thoát, lúc hai mươi chín tuổi Ngài xuất gia học đạo, ba mươi lăm tuổi thành chính giác. Sau đó, bốn mươi lăm năm, Ngài du hóa các nơi thuyết pháp độ sanh, đến tám mươi tuổi nhập Niết-bàn. Nhục thân của Ngài tất nhiên không khác gì chúng ta, nhưng Ngài đã đoạn trừ tất cả ái dục phiền não, chứng đắc chân lí, vận dụng lòng đại bi, chuyên tâm nhất ý giáo hóa nhân loại nên được tôn xưng là Phật-đà.

Tiết thứ hai

Phật quá khứPhật vị lai

Kinh Đại bản trong Trường A-hàm quyển 1, kinh Tạp A-hàm quyển 15 ghi : “Trước Thích Tôn xuất thế có sáu Đức Phật là Tì-bà-thi v.v… xuất hiệnthế gian. Quá khứ chín mươi mốt kiếp, lúc con người thọ tám vạn tuổi thì có Phật Tì-bà thi. Quá khứ ba mươi mốt kiếp, lúc con người thọ bảy vạn tuổi thì có Phật Thi-khí. Quá khứ ba mươi mốt kiếp, lúc con người thọ sáu vạn tuổi thì có Phật Tì-xá-phù. Hiện tại kiếp Hiền, lúc con người thọ bốn vạn tuổi có Phật Câu-lâu-tôn. Hiện tại kiếp Hiền, lúc con người thọ ba vạn tuổi thì có Phật Câu-na hàm-mâu-ni. Hiện tại kiếp Hiền, lúc con người thọ hai vạn tuổi thì có Phật Ca-diếp xuất thế và Đức Thích Tôn là vị Phật thứ bảy xuất hiệnthế gian lúc con người thọ một trăm tuổi. Niên đại của sáu Đức Phật quá khứ rất xa thuộc vào thời kì trước lịch sử, xa đến nỗi tâm trí của chúng ta không thể biết đến được. Nhưng trong kinh Tạp A-hàm quyển 12 ghi: “Ta nay đắc đạo của bậc tiên nhân cổ xưa”. Kinh Tự hoan hỉ trong Trường A-hàm quyển 12 ghi: “Các Đức Phật quá khứ đồng đẳng với Ta.” Theo những lời được ghi trên thì Đức Thích Tôn cũng tự thừa nhận là có bậc đã giác ngộ trước Ngài.

Trong pháp sắc của vua A-dục tại Nigliva ghi: “Sau khi, nhà vua lên ngôi khoảng bốn mươi năm thì kiến tạo thêm tháp Phật Câu-na-hàm-mâu-ni. Đến lúc, vua băng hà chẳng bao lâu thì kiến tạo lan can tháp Bharhut, mặt trên có điêu khắc cây bồ-đề của bảy Đức Phật quá khứ.” Do đó, chúng ta có thể thấy tín ngưỡng về bảy Đức Phật đã xuất hiện từ thời vua A-dục.

Kinh Thuyết bản thứ 13 trong Trung A-hàm. Kinh Chuyển luân thánh vương tu hành, thứ 6 trong Trường A-hàm đều ghi rõ: “Vào thời vị lai lúc con người thọ tám vạn tuổi, Đức Phật Di-lặc giáng sanh cõi Diêm-phù-đề giáo hóa nhân loại, đã có sáu Đức Phật quá khứ xuất thế, sau đó Thích Tôn kế tiếp, tất nhiên đến Thích Tôn cũng phải có người dự khuyết. Cũng vậy, Phật Di-lặc cũng lấy Phật Sư Tử làm người dự khuyết. Dự tính Phật Sư Tử cũng có người dự khuyết. Từ đó, xướng lên thuyết nghìn Đức Phật ở kiếp Hiền hiện tại xuất hiện”. Như vậy, theo các kinh công nhậnquá khứ có sự xuất hiện Phật quá khứ thì pháp của Đức Phật Thích-ca chứng đắc là có tính truyền thống, đồng thời chỉ rõ nguồn gốc rất lâu dài. Lại nói: Vị lai có Phật xuất hiện, các Đức Phật lần lượt kế thừa nhau truyền bá giáo pháp không để bị mai một, biểu thị mãi mãi không đoạn tuyệt. Điều này có ý nghĩa chống đối với truyền thống của Bà-la-môn giáo.

 

Tiết thứ ba

Thuyết hiện tại mười phương các Đức Phật xuất hiện

Phần trên căn cứ vào kinh A-hàm v.v… lấy Đức Thích Tôn làm trung tâm, giữa quá khứvị lai thời gian cách xa rất lâu, chỉ có một số ít Phật xuất hiện một cách gián đoạn; vả lại, các Đức Phật này đều đản sanh ở cõi Diêm-phù-đề (Ấn Độ). Nhưng trong kinh Đại thừa nói ngoài Diêm-phù-đề có mười phương thế giới, ở đời hiện tạivô số các Đức Phật xuất hiện đang giáo hóa nhân dân trong các cõi nước của các ngài. Như kinh Đâu-sa nói: Phương đông Ngật-liên-hoàn trở xuống xuất hiện mười phương thế giới chư Phật. Phẩm Thiện tri thức thứ 7 trong kinh Đạo hành bát-nhã ghi: “Các Đức Phật Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác hiện tạimười phương vô số cõi nước đều sanh ra từ sáu pháp ba-la-mật, thành tựu trí nhất thiết trí”. Kinh Bát-chu tam-muội ghi: “Muốn thấy các Đức Phật hiện tạimười phương thì phải nhất tâm niệm Phật theo phương của Đức Phật ấy”. Những lời kinh kể trên đều nói về việc này. Tất cả các kinh điển Đại thừa đề cập đến các Đức Phậtmười phương và tên cõi nước, hiện còn ba bộ, như kinh Đâu-sa v.v… đều do ngài Chi-sấm, đời Hậu Hán dịch cũng là kinh điển được truyền dịch sớm nhất trong kinh Đại thừaTrung Quốc. Do đó, chúng ta đủ biết thuyết xuất hiện nhiều Đức Phậtmười phương cũng có thể nói đó là thuyết xuất hiện vào thời đại sớm nhất.

Các kinh A-hàm v.v… thật sự nói đến đời quá khứvị lai có các Đức Phật xuất hiện, nhưng trong đời hiện tại không thể có hai Đức Phật đồng thời xuất hiện, tức là phủ nhận thuyết hiện tạimười phương có nhiều Đức Phật xuất hiện. Kinh Đa giới trong Trung A-hàm quyển 47 ghi: “Không bao giờ trên thế gian có hai vị Chuyển luân thánh vương đồng thời cai trị, cũng vậy ở thế gian không thể đồng thời có hai Đức Như Lai.”

Kinh Tự hoan hỉ trong Trường A-hàm quyển 12 ghi: “Các Đức Phật quá khứ không khác với Ta, các Đức Phật vị lai cũng không khác với Ta, đời hiện tại muốn hai Đức Phật đồng thời xuất hiện là điều không bao giờ có.” là chỉ cho ý này. Luận Đại trí độ quyển 4 hiểu chung về hai kinh này: “Trong một đời không có hai Đức Như Lai là chỉ nói một thế giới Phật. Như trong một tứ thiên hạ không có hai Chuyển luân thánh vương đồng thời cai trị thế gian, trong một tam thiên đại thiên thế giới không có chuyện hai Đức Như Lai đồng thời xuất hiện. Nhưng thế giới của tứ thiên hạ khác chẳng ngại gì có Chuyển luân vương khác xuất thế, trong tam thiên đại thiên thế giới khác có Phật khác xuất hiện, tuyệt đối không trái với kinh”. Hiện tại, chúng ta lấy một Diêm-phù-đề này để nói, các Đức Phật xuất hiệnthế gian có tính gián đoạn, chắc chắn là không có hai Đức Phật xuất hiện đồng thời trong một thời gian. Nhưng vì có vô số thế giới tồn tại cũng tức là hiện tạivô số thế giới đối đãi nhau, có thể chứng minh lí do có nhiều Đức Phật xuất hiện.

Luận Du-già-sư-địa quyển 38, luận Hiển dương thánh giáo quyển 20 ghi: “Hiện tại trong thế giới này có hơn một trăm vị bồ-tát phát thệ cùng tu tập tư lương bồ-tát, tương lai thành Phật cùng một thời, nghĩa là có nhiều Phật. Nhưng vì các vị bồ-tát này ở mỗi thế giới khác nhau trong vô lượng vô số thế giới không có Như Lai. Vì trong một thế giới không có hai Đức Phật đồng thời xuất hiện, nhưng trong nhiều thế giới thì không trở ngại có nhiều vị bồ-tát đồng thời thành Phật.”. Điều này tuy trình bày có khác nhưng ý nghĩa giống với ngài Long Thọ trong luận Đại trí độ quyển 4, khi giải thích về bồ-tát tại phẩm đầu: “Trong Ma-ha-diễn có nhiều lí do nói đến ba thời mười phương chư Phật. Vì sao? Vì mười phương thế giới có lão, bệnh, tử, dâm, nộ, si v.v… nên Phật phải giáng sanh vào các cõi nước ấy”. Như trong kinh ghi: “Nếu không có lão, bệnh, tử, phiền não thì chư Phật không xuất hiệnthế gian. Lại nữa, vì có nhiều người bệnh nên phải có nhiều thầy thuốc…… Một vị Phật chẳng thể độ hết tất cả chúng sanh……Nhưng một vị Phật ra đời, như pháp của các Đức Phật độ chúng sanh đáng được độ rồi thì diệt độ như cây đuốc tàn thì lửa tắt….Vì thế, hiện tại cần phải có nhiều vị Phật khác nữa.”.

 

Tiết thứ tư

Chúng sanh có khả năng thành Phậttư tưởng Bản sanh

Phật giáo Đại thừa đưa ra thuyết có nhiều Đức Phật xuất hiện như thế, là nói hiện tại trong mười phương thế giới xuất hiện vô lượng các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng. Đây là thế giới quan của Phật giáo Đại thừa vô cùng rộng lớn, đồng thời cũng bắt đầu nhìn nhận khả năng thành Phật của chúng sanh. Có lẽ trong kinh A-hàm v.v… các tì-kheo đều là đệ tử thanh văn chỉ nghe lời dạy của Đức Thích Tôn để mong chứng ngộ chân lí chứ không có chí mong cầu thành Phật. Lại nữa, Đức Phật Tì-bà-thi cùng sáu Đức Phật thời quá khứ xuất hiệnthế gian cách xa chúng ta rất lâu. Đức Phật Di-lặc thời vị lai cũng xuất hiện sau này thời gian còn rất dài, cho nên rất ít người nghĩ đến chuyện thành Phật thật sự có giới hạn. Nhưng trong Phật giáo Đại thừa cho rằng chúng sanh có khả năng thành Phật, tu hành sáu pháp ba-la-mật, tinh tiến tu tập thì sẽ thành Phật; người này gọi là Bồ-đề tát-đỏa. Vì sao đệ tử Phật giáo Đại thừa tự biết khả năng mình sẽ thành Phật? Bởi vì, trong các kinh như A-hàm v.v…nói đến quá khứvị lai chỉ có số ít Đức Phật xuất hiện. Nhưng đặc biệt những câu chuyện Bản sanh nói về tiền thân của Thế Tôn đã khuyến khích đệ tử Phật giáo Đại thừa lúc đó; nguyên nhân này làm cho họ có niềm tin giác ngộ.

Trong chuyện Bản sanh nói về Thế Tôn xuất hiệnthế giới này, không chỉ đời này Ngài thương xót độ thoát chúng sanh mà từ đời trước quá khứ xưa kia Ngài cũng tu hạnh nguyện đại bi; hoặc thụ thân người, hay thụ thân những loài động vật, như nai, ngựa, khỉ, vượn để cứu giúp chúng sanh đồng loại, tinh thần dũng cảm, hi sinh làm những việc khó làm cực khổ. Những chuyện này gọi là Bản sanh (Jataka), được tập hợp biên tập lại thành sách, gọi là kinh Bản sanh. Trong kinh A-hàm ghi lại rất nhiều câu chuyện Bản sanh. Trong các kinh như Sanh kinh, Lục độ tập kinh, Soạn tập bách duyên kinh cũng ghi lại rất nhiều câu chuyện hi sinh.

Nhưng kinh Bản sanh theo văn Pali đã tập hợp gồm có năm trăm bốn mươi sáu loại nói về Bản sanh. Trong đó, tất nhiên có rất nhiều tác phẩm là ở đời sau. Nhưng trong Thiện kiến luật tì-bà-sa quyển 2, truyện A-dục vương, Đại đạo sư Đàm-mô-đức đến nước Đạt-ma-ha-lặc-tra, theo truyền thuyếtkinh Ma-ha Na-la-đà ca-diếp bản sanh, ngài thấy ở trên lan can của tháp Ba-lỗ-bồ-đa có các phù điêu khắc hơn hai mươi hình tượng về Bản sanh như nai, khỉ, vượn v.v…Do đây, chúng ta có thể biết, ở thời đại vua A-dục đã có lưu hành tư tưởng Bản sanh.

Mặc dù đã nói về Bản sanh, nhưng lúc đầu mọi người chỉ có tín ngưỡng về công đức của Phật. Trải qua thời gian lâu dài, họ mới biết chẳng những đời quá khứ Đức Phật đã tinh tiến tu khổ hạnh, làm những việc khó làm như thế mà đời này xuất hiện ở Diêm-phù-đề, đời ác năm trược, Ngài sống bằng khất thực, đến năm tám mươi tuổi thì nhập Niết-bàn.

Chúng ta hãy suy nghĩ đến nhân địa của Đức Phật thực hành suốt thời gian dài, nên nhất địnhquả báo chứng đắc. Vì thế, khi Ngài sanh ra báo thân cho chúng ta thấy và đồng thời làm cho chúng ta tôn trọngtín ngưỡng đức hạnh của Ngài qua các câu chuyện Bản sanh; lại còn ngầm dạy bảo chúng ta trong đó. Chỉ cần chúng ta tu trì hạnh bồ-tát, tinh tiến thực hành thì có thể thành Phật đạo. Đây là mầm mống niềm tin đầu tiên, chúng sanh có thể thành Phật. Chúng ta phải biết Đức Phật xuất hiện ở Diêm-phù-đề đến tám mươi tuổi, thân nhập Niết bàn là Ngài ứng hiện dùng phương tiện giáo hóa một đời, đồng thời chúng ta cũng phải suy nghĩ đến chân thân khác không có nhập diệt. Nếu chúng ta dựa vào kinh Bản sanh tin chắc chúng sanh tu hạnh bồ-tát thì có thể được chân thân sẽ thành Phật.

 

Tiết thứ năm

Phật tính

Giáo thuyết nói về căn tính của ba thừa thanh văn, duyên giác và bồ-tát sai khác đã xuất hiện vào thời kì sớm nhất. Trong đó, chỉ có người căn tính bồ-tát mới có khả năng thành Phật. Luận Đại-tì-bà-sa quyển 144 ghi: “Căn tính của thanh văn, độc giác và Phật đều khác nhau. Phật không thể thành tựu căn tính độc giácthanh văn. Độc giác không thể thành tựu căn tính Phật và thanh văn. Thanh văn không thể thành tựu căn tính Phật và độc giác”. Lại trong luận Đại-tì-bà-sa quyển 618 ghi: “Ở giai vị Noãn, Đỉnh chuyển chủng tính thanh văn sang chủng tính độc giác; chuyển căn tính thanh văn và độc giác sang căn tính Phật”. Đây là giải thích căn tính của ba thừa khác nhau. Nhưng chúng ta thấy đạt đến giai vị Noãn, Đỉnh thì căn tính này vẫn chưa chắc chắn, mà còn có thể thay đổi. Kinh Bát-nhã nói cũng tương đồng về điều này. Nhưng kinh khác nói chỉ có bồ-tát mới có thể thành Phật, là nói bồ-tát phải đạt đến A-duy-việt-trí, tức là đến địa vị Bất thoái chuyển sẽ không còn rơi vào địa vị thanh vănduyên giác; đây là nhấn mạnh tính quan trọng của sự đạt đến địa vị Bất thoái chuyển. Phật tính này chẳng phải là tính có sẵn mà là Phật tính tu đắc.

Tiến lên một bước, theo kinh Pháp hoa ghi hàng thanh văn cũng có thể thành Phật; các vị Đại thanh văn như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên v.v…đời quá khứ đã được Phật thọthành Phật. Kinh Niết-bàn ghi: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tính”. Vì thế, họ đều có khả năng thành Phật, cũng là dựa theo thuyết Phật tính vốn sẵn đầy đủ. Theo kinh Nhập lăng-già kinh Giải thâm mật ghi có năm tính khác nhau là định tính thanh văn, định tính duyên giác, định tính bồ-tát, bất định tính và vô tính. Theo hai kinh này cho rằng tính có khả năng đạt đến cứu cánh, nhưng chưa thành Phật. Nếu chúng ta theo nguyên tắc căn bản Đại thừa nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tính”. Đây là sứ mạng Đức Phật thuyết pháp xưa nay.

Nói tóm lại, đây là đệ tử Phật giáo Đại thừa tự mình giác ngộ thì có khả năng thành Phật; nhưng pháp thành Phật, theo kinh Bản sanh nói: “Thực hành bố thí, tâm đại bi làm lợi cho người khác là quan trọng nhất”. Đồng thời cũng đả phá khuynh hướng chấp pháp của A-tì-đạt-ma lúc đó. Bồ-tát cần phải đạt đến trí tuệ tính không của bát-nhã. Đây là nguyên do đề xướng bố thí, cho đến thực hành sáu pháp ba-la-mật theo tinh thần bát-nhã. Chẳng những các ngài thực hành căn bản tâm đại bi làm lợi ích cho người khác làm lí tưởng mà còn làm được cõi Phật thanh tịnh, giáo hóa chúng sanh thành thục thì mới có thể đạt đến mục đích cuối cùngthành Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33134)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6522)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11246)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30425)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7963)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12161)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12233)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11578)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12784)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34713)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9829)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52236)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10725)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10492)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10696)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10446)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13059)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16240)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21810)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9597)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7105)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10371)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12718)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12761)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16210)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16509)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13837)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16563)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12097)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13788)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14305)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9178)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11730)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16284)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14327)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12683)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12070)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11787)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15647)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11496)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14013)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11999)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12610)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14977)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11948)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13110)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14514)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20657)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13199)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10927)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20676)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14334)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20343)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17633)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14002)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31847)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12008)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant